← Quay lại trang sách

Tường hát

Phía Nam vùng Đông Bắc Cao Mật có một làng nhỏ, đó chính là nơi tôi sinh ra. Mấy mươi nóc nhà cột gỗ tường cỏ với những mái lá đơn sơ trong làng được dòng Giảo Hà ôm gọn trong lòng. Xóm làng tuy nhỏ nhưng giữa làng có một con đường đất cát vàng rất rộng, hai bên đường là những loài cây hòe, liễu, bách, thu… hỗn tạp, ngoài ra còn có một vài cây mà người trong thôn không thể gọi được tên, cứ đến độ thâm thu là toàn thân khoác một màu vàng ươm của lá. Có cây sừng sững chọc thẳng lên trời, có cây gầy guộc như một sợi dây thừng… Nhưng theo sự hiểu biết của tôi, trong vòng mấy chục năm trở lại đây hầu như chưa có một ai chặt cây hai bên con đường đất này.

Men theo con đường đất đầy cây tạp này đi thẳng về phía đông khoảng ba dặm là đã rời khỏi làng. Một cánh đồng mênh mông ngút ngàn trải dài theo hướng đông nam, cảnh vật đột nhiên thay đổi khiến người ta cảm thấy lạ lùng. Con đường cát vàng đã bị bỏ lại phía sau, con đường dưới chân rùng mình biến thành một con đường đất đen, nhỏ hẹp, quanh co bò theo hướng đông nam. Đi đến đây, người ta không dằn lòng được đành phải quay đầu nhìn lại phía sau. Khi quay đầu lại, anh sẽ trông thấy chiếc thập tự trên nóc tòa giáo đường Thiên Chúa giáo với kiến trúc đã hoàn toàn Trung Quốc hóa. Chiếc thập tự cao cao đã bị quạ đen bám đầy nên đã biến thành một điểm đen ẩn hiện trong bóng hoàng hôn hoặc mờ mờ trong sương sớm. Có khi anh ngoái đầu nhìn lại đúng vào lúc tiếng chuông giáo đường đang ngân lên buồn bã từ lầu chuông, nhất định tâm hồn anh sẽ cảm thấy bồi hồi cảm động. Bóng hai hàng cây mờ mờ tỏ tỏ lượn vòng theo con đường cát vàng, nếu là mùa thu có lẽ sẽ trông thấy được kỳ quan của lá rụng: Không có một sợi gió nào nhưng vô số lá cây bời bời rơi xuống va vào nhau và những âm thanh xào xạc vang lên, những chó những gà lang thang trên đường hốt hoảng chạy cong đuôi vì tưởng lá sẽ rơi xuống làm đầu chúng bị thương!

Nếu anh đến đây vào hè, anh không thể không men theo con đường đất nhỏ màu đen đi về hướng đông nam. Đất đen vào mùa hè trơn trơn, anh hãy cởi giày và giẫm chân trần lên những con đường đất đen ấy, anh sẽ bắt gặp một cảm giác rất tuyệt vời. Trên con đường ngoằn ngoèo, bàn chân anh sẽ để lại những dấu vết rõ ràng, thậm chí có thể nhìn thấy cả những đường vân dưới lòng bàn chân. Anh đừng vội coi thường loại đất này, nếu anh bốc một nắm lên nắm trong lòng bàn tay, dùng sức bóp mạnh, ngay lập tức anh sẽ cảm nhận được sự quý giá của nó. Mỗi lần tôi cầm nắm đất đen trong tay, tôi luôn có cảm giác là mình như đang cầm những chú chim, con thỏ bằng các loại vật liệu rất đắt tiền được bày bán trong các cửa hàng. Nó mịn đến độ giống như một loại bột đậu được nhào nhuyễn đến chín mươi chín lần. Tổ tiên chúng tôi đã dùng chày gỗ nện rất nhiều lần lên những tảng đất đen này rồi bằng những bàn tay điêu luyện của mình, nặn ra không biết bao nhiêu là vật dụng khác nhau, kể cả đóng gạch đóng ngói, đốt lên và chúng đã trở thành những đồ gốm đồ sứ trong cuộc sống hàng ngày của người quê tôi.

Anh hãy tiếp tục đi về phía trước, nếu là mùa xuân, hai bên đường là những thảm cỏ trải dài tít tắp, mịn và êm như những tấm thảm nhung. Điểm xuyết trên đấy là những nụ hoa linh lung đủ màu đủ sắc làm hoa văn cho tấm thảm thiên nhiên. Tít tắp trên cao là tiếng chim khoan nhặt, trời xanh đến độ lóa mắt. Những chú chim có bộ lông vằn trên lưng và nhúm lông đỏ trước ngực như chim cút chạy vun vút trên đường; cũng có khi đằng sau lưng anh có mấy con chim non lon ton chạy theo; có khi phía trước mặt anh, những con thỏ hoang màu vàng sậm băng vút qua đường, đuổi theo chúng vài bước cho vui thì anh nên làm, còn nghĩ đến chuyện đuổi theo để bắt chúng chỉ là điều hoang tưởng. Chỉ có những con chó có sức khỏe mới nghĩ đến chuyện này nhưng phải vào mùa đông, lúc mà tuyết đã lấp kín mặt đất trên đồng khiến những bước chạy của thỏ hoang không còn lanh lẹ nữa.

Phía trước mặt anh lúc này là một chiếc ao, gọi là ao nhưng kỳ thực chỉ là một chiếc hố trũng nhỏ, ngay cả việc vì sao nó trũng xuống, đất chỗ này đã được chuyển đi đâu, không ai quan tâm lý giải. Trên đồng có hằng hà sa số những chiếc “ao” như thế này, có to có nhỏ. Mùa hè, nước trong “ao” cạn veo, chỉ còn một ít vàng vàng đọng dưới đáy. Không kể to nhỏ, những chiếc “ao” này đều tròn vành vạnh khiến người ta cảm thấy lạ lùng, lý giải không được cho nên trí tưởng tượng hoang đường mặc sức thi triển. Mùa hè hai năm trước, tôi có đưa một người bạn về đây và đến quan sát những chiếc ao này. Vừa có một trận mưa lớn nên có những giọt nước còn đọng trên lá cỏ đã làm quần áo chúng tôi ướt mèm, nước trong ao đục ngầu, những luống bong bóng từ dưới đáy nổi lên và vỡ trên mặt nước, một mùi tanh nồng xông lên. Trên một số ao, bèo nổi đầy không nhìn thấy mặt nước; cũng có một số ao chỉ có mấy cọng sen với những chiếc lá to dày vươn lên khỏi mặt nước, thoạt trông cứ tưởng người ta nhặt những cành sen bằng nhựa ở đâu đó đem về găm trên mặt nước, nhưng rõ ràng nó không hề là hoa nhựa. Trong những đêm trăng, đứng trên bờ ao ngắm nhìn những đóa sen như tạc bằng ngọc ấy; chung quanh yên tĩnh, ánh trăng như gương, tiếng côn trùng rỉ rả khiến lòng người dễ sinh những tình cảm sâu lắng, phảng phất nhớ câu thơ Haiku Nhật Bản: Tiếng ve sầu thấm đá núi ngàn năm. Âm thanh là một loại lực hay là một dạng vật chất? Nó có thể “thẩm thấu” vào trong băng đĩa, như vậy nó cũng có thể “thấm” vào trong đá núi. Những âm thanh của đồng hoang cũng “thấm” vào trong tâm hồn tôi và nó có thể ngân lên bất kỳ lúc nào. Tôi đứng trên bờ ao lắng nghe tiếng côn trùng, miên man trong ảo ảnh một mái tóc của người đàn bà đẹp lấp lánh ánh sáng và mùi mật ong toát lên từ thân thể của nàng. Đột nhiên, một bản hợp xướng của loài ếch nhái vang lên từ một chiếc ao gần đó, ánh trăng càng trở nên mông lung, mùi vị lạnh lạnh của ếch nhái như đang bám trên da thịt tôi. Hình như toàn bộ ếch nhái của vùng Đông Bắc Cao Mật đang tập trung cả về đây, trong chiếc ao rộng nửa mẫu này. Tôi không nhìn thấy mặt nước nữa mà chỉ thấy dưới trăng, tầng tầng lớp lớp ếch nhái đang chuyển động và những nước bọt màu trắng bám đầy hai bên mép chúng. Ánh trăng và ếch nhái dung hợp trong nhau, âm thanh vốn là nhất thể - tự nhiên là tự nhiên của con người, con người là một bộ phận của tự nhiên. Con người tụ tập ở Thiên An Môn, ếch nhái tập trung dưới ao để tổ chức lễ cưới tập thể.

Thôi thì hãy quay lên con đường cũ vậy. Con đường cát vàng đã bị chúng ta bỏ lại phía sau, hai bên con đường nhỏ đất đen dinh dính trước mặt là những loài cây tạp và từ con đường nhỏ này, vô số những bờ ruộng chạy ngoằn ngoèo như những con rắn khổng lồ bị mù mắt lặng lẽ trườn trên đồng. Anh không cần phải chọn bờ ruộng nào để đặt chân lên, bởi tất cả chúng đều được nối tiếp với nhau và đều hướng anh về với những cảnh đẹp hoang sơ. Bờ ao là những cảnh đẹp hoang sơ: bờ ao của ếch và nhái, bờ ao của rắn, bờ ao của cua đồng, bờ ao của chim phỉ thúy, bờ ao của những đóa sen tinh khiết, bờ ao của lau lách, bờ ao của rau hạnh, bờ ao của những chiếc bong bóng, bờ ao của truyền thuyết và kể cả bờ ao không phải của truyền thuyết…

Truyền thuyết kể rằng, vào thời Gia Tĩnh triều Minh, có một cậu bé chăn trâu cho nhà phú hộ ngồi nghỉ trên bờ ao nhỏ cỏ cây rậm rạp. Cậu nghe thấy có hai người đang nói chuyện rì rầm với nhau ở phía bên kia ao. Cậu lắng nghe và loáng thoáng biết được rằng, chính giữa chiếc ao này là một vùng đất tốt về phong thủy, đúng vào nửa đêm sẽ có một đóa hoa sen cực to nở giữa ao, chờ cho đến khi nó nở bung ra thì ai đó đem tro tàn của tổ tiên rắc lên nhụy hoa, nhất định con cháu của người ấy sẽ đỗ trạng nguyên. Cậu bé chăn trâu rất thông minh, biết ngay đó là hai người rất giỏi thuật phong thủy đến từ phương Nam, trong lòng thầm nghĩ: Nếu con mình sau này mà đỗ trạng nguyên, há không phải là chuyện tốt lành hay sao? Cho dù bây giờ ta chưa có vợ, nhưng rồi ta sẽ có thôi. Nghĩ thế, cậu bé chăn trâu vội vàng chạy về đào mộ bố lên lượm xương đốt thành tro rồi bỏ vào trong một chiếc hộp, chờ cho đến một đêm trăng sáng tỏ ngồi chờ trên bờ ao. Đúng vào canh ba, quả nhiên có một đóa sen to hơn cả đầu một con trâu trắng tinh từ từ nhô lên giữa ao rồi từ từ nở ra, những cánh sen to tướng trắng tinh được ánh trăng chiếu rọi đẹp như thế nào thì anh cứ tưởng tượng. Khi đóa hoa nở bung ra thì nó đã bằng thớt cối xay, hương sen nực nồng khiến cho cỏ cây bên bờ ao say sưa nghiêng ngả. Cậu bé chăn trâu đầu hoa chân nhũn bò dậy, hai tay nâng chiếc hộp đựng tro hắt mạnh vào giữa đóa hoa, hương thơm lập tức biến mất, những cánh hoa cũng từ từ khép lại như lúc mới trồi lên khỏi mặt nước và từ từ chìm xuống. Cậu bé đứng trên bờ ao nhưng có cảm giác là mình đang chu du trong mộng, trên trời cao trăng vẫn vằng vặc soi, mặt nước ao như một tấm gương, chung quanh yên lặng đến rợn người, tiếng chó sủa từ xa xăm vẳng lại. Từ đó về sau, cậu bé vẫn cứ chăn trâu, tất cả dần dần đi vào quên lãng. Rồi có một ngày, hai người đàn ông phương Nam lại xuất hiện bên bờ ao, một người cất tiếng than: Muộn mất rồi, đã bị người khác hớt tay trên mất rồi! Than xong thì quay về. Chẳng bao lâu sau họ trở lại với hai người con gái phương Nam đẹp như hoa như ngọc, chẳng đòi hỏi gì hết mà tặng cho chàng trai chăn trâu làm vợ, chàng trai đành phải tiếp nhận hai người cùng một lúc. Vài năm trôi qua, khi hai người con gái này đều mang thai, hai người đàn ông bí mật nọ lại đến và thừa lúc chàng trai không có nhà đã đưa hai người con gái đi mất. Chàng trai quay về không thấy vợ đâu bèn đi tìm, cuối cùng cũng đuổi theo kịp. Hai bên cãi vã om sòm làm kinh động đến nhiều người, hai người đàn ông phương Nam chẳng còn cách nào hơn đành phải thỏa hiệp với chàng trai: Trong hai người đàn bà, chàng trai hãy chọn giữ lại một người, một người theo họ về Nam. Sau đó, cả hai người con gái đều sinh con trai, từ nhỏ đã thông minh dĩnh ngộ, đọc sách thuộc làu làu dễ như uống nước ăn cơm, mười mấy năm sau cùng lên đường lên kinh ứng thí tiến sĩ. Trên chiếc thuyền của chàng trai phương Nam có treo một lá cờ có thêu mấy chữ: “Đổng Mai Tán quyết giật trạng nguyên, chỉ ngại mỗi anh trai Tiểu Lam Điền Cao Mật!”. Khi chấm bài thi, quan chánh chủ khảo không thể phân định hai anh em ai cao ai thấp, đành phải dùng cách “cưỡi ngựa xem bảng”, “đáy nước mò bia” để quyết định ai đỗ trạng nguyên. Đổng Mai Tán khi mò bia dưới đáy nước đã giở trò ma mãnh, do vậy trở thành trạng nguyên, Tiểu Lam Điền đành yên phận bảng nhãn… Truyền thuyết này còn có rất nhiều dị bản nhưng nhìn chung tình tiết và cốt truyện là giống nhau.

Nếu anh muốn rời bỏ con đường, cho dù dưới chân anh là thảm cỏ mềm hay là phân trâu bò, đừng ngại phải giẫm vỡ những trứng chim dưới cỏ, cũng đừng sợ lông của những con nhím đâm vào bàn chân, đừng ngại phấn hoa vương vào quần áo, đừng quan tâm đến mùi cỏ mục có thể làm cho anh cay mắt, chúng ta sẽ cùng nhau đi thẳng về ngọn đồi cô độc xinh đẹp ở phía Đông Nam. Mấy tiếng đồng hồ sau, anh đã đặt chân lên con đê cao cỏ cây rậm rạp bên dòng Mặc Thủy và truyền thuyết về chàng chăn trâu ngày xưa đã bị bỏ lại phía sau lưng để ngắm nhìn những đứa trẻ chăn dê đang đưa đôi mắt tò mò quan sát chúng ta. Nếu trong số ấy mà có đứa nào một chân thì anh đừng bao giờ dây dưa vào nó. Nó là cháu nội độc nhất của tay thổ phỉ khét tiếng nhất vùng Đông Bắc Cao Mật - Hứa Bàn Tay To. Hứa Bàn Tay To đã cùng với vị tướng lĩnh Bát Lộ quân từng tung hoành mười sáu năm ròng ở Giao Đông - Hứa Thế Hữu - tỉ thí võ nghệ và đấu súng. “Chúng ta đều họ Hứa, nhưng một chiếc bút không thể viết lên cùng lúc hai chữ Hứa!”, câu nói đầy mùi giang hồ này không biết phát ra từ miệng vị họ Hứa nào. Cho đến bây giờ, ở vùng Đông Bắc Cao Mật vẫn còn lưu truyền những câu chuyện tỉ thí võ nghệ giữa hai người và trong quá trình lưu truyền, chúng đã biến thành truyền kỳ. Thằng bé một chân cô độc đang đứng trên bờ đê vung chiếc roi trong tay đánh vun vút xuống cỏ, mỗi ngọn roi giáng xuống là một mảng cỏ bật gốc, đất ló ra. Vành môi thằng bé này mỏng như một lưỡi dao, sống mũi rất cao, cằm không có thịt, mắt không có lòng trắng. Mấy nghìn năm trước, Khương Tử Nha ngồi câu cá bên bờ Vị Thủy, bây giờ đang ngồi bên bờ Mặc Thủy, đầu đội nón lá, mình khoác áo tơi, bên mình có một chiếc giỏ liễu, trước mặt là dòng sông phẳng lì; vịt trời đang tha thẩn kiếm ăn bên mép nước; những con diệc chân cao giấu mỏ nhọn trong cánh, lặng lẽ đứng giữa bầy vịt trời. Một tia chớp sáng lòa run rẩy ngoằn ngoèo, một tràng sấm ầm ầm rung động, những đụn mây đen trên đầu đang rùng rùng bay và chẳng mấy chốc đã che lấp cả bầu trời, những giọt mưa nặng trắng xóa ào ào rơi xuống làm mặt sông nổi lên trăm ngàn nếp nhăn như gương mặt của một lão già. Một con cá ấn hình dạng giống lưỡi cày đã lọt vào trong giỏ của Khương Thái Công. Dưới sông có loại cá gì nào? Cá nheo, cá hắc, cá chép, cá cỏ, cá ấn… Cá chạch chưa hẳn là cá, chúng tôi bắt về chỉ cho mèo, ngay cả mèo cũng chê không thèm ăn. Ba ba là loài có thể thành tinh, đặc biệt là ba ba năm ngón thì không ai dám động đến. Loài thủy tộc nhiều nhất dưới dòng Mặc Thủy là cua, sau đó là loài tôm xanh. Mặc Thủy và Giao Hà là hai dòng sông Mẹ của chúng tôi, Giao Hà ở phía Bắc, Mặc Thủy ở phía Nam; cả hai đều chảy về hướng đông bắc khoảng bốn mươi dặm và hợp lưu đổ thẳng về Bột Hải mênh mông. Có sông tất có cầu, cầu được bắc từ những năm đầu Dân Quốc, đến nay đã liêu xiêu muốn sụp, đá xây cầu đã từng nhuộm không biết bao nhiêu máu. Một cô gái áo đỏ đang ngồi trên cầu, đôi chân đen đen bóng loáng buông xuống đến sát mặt nước. Đôi mắt cô ta như đang xướng những bài ca dao hàng trăm năm cũ, đôi môi mím chặt. Cô ta chính là một trong số rất nhiều những cô gái câm xinh đẹp của gia tộc họ Tôn vang bóng một thời. Những cô con gái của gia tộc này có nét chung là rất trầm mặc, vĩnh viễn mím chặt đôi môi dài và mỏng khi gặp người lạ. Năm ấy, chín cô gái câm của gia tộc này kết thành một chiếc bảo tháp, trên đỉnh tháp là cậu em trai - một viên dạ minh châu của dòng họ. Cậu quý tử đứng trên đầu của các chị mình cất tiếng hát: Hoa sen trăng trắng như dòng sữa… Tiếng hát của cậu em như thấm vào trong mắt của chín người chị, mỗi lần tôi nhìn vào những đôi mắt lạnh lẽo nhưng rất đẹp của chị em nhà họ Tôn, là bên tai tôi văng vẳng lời ca trong trẻo của cậu bé út. Tiếng ca ấy còn thấm vào trong những khuôn ngực căng tròn của những cô chị và biến thành những giọt sữa thanh khiết để dưỡng dục cho những chàng thanh niên mặt trắng.

Những câu chuyện có liên quan đến chiếc cầu ọp ẹp bắc ngang qua dòng Mặc Thủy nhiều như lông trên mình trâu. Sách trên thế gian này được viết trên giấy hoặc từ thẻ tre, nhưng có một bộ sách viết về vùng Đông Bắc Cao Mật lại được thấm vào trong đá. Tôi đang muốn nói về chiếc cầu này.

Đi qua cầu, anh lại bước chân lên một con đê, cũng là một con đê cỏ xanh hoa đỏ tốt tươi rậm rạp. Đứng trên con đê vọng về phía nam, sắc màu của đất đai bỗng nhiên thay đổi: Phía bờ bắc là một cánh đồng màu đen, bờ nam là một vùng đất màu vàng. Nếu là mùa thu, hàng vạn mẫu cao lương ở bờ nam đã chín rộ, đỏ như máu, rực rỡ như lửa, vô vàn chim chóc bay liệng trên không và mời chào nhau tranh thủ ăn cao lương, tiếng kêu như tiếng khóc thê thiết của đàn bà. Nhưng lúc này đã là mùa đông lạnh lẽo, đất đai đang ngủ mê mệt dưới lớp tuyết dày, mặt trời vừa mới lên chiếu rọi, trước mặt anh sẽ là một mặt gương vàng rực kéo dài đến vô tận. Rất nhiều người đang bận rộn trên tuyết, hình như họ vừa chui từ dưới tuyết lên. Đây chính là “Chợ tuyết” của vùng Đông Bắc Cao Mật. “Chợ tuyết” tức là chợ phiên trên tuyết, mua bán trên tuyết, tổ chức lễ hội trên tuyết, ở đây mọi người phải ém chặt lời nói trong lòng, mở miệng là gặp ngay tai họa. Nghìn vạn con người ở vùng Đông Bắc Cao Mật hễ đến mùa đông là mong chờ phiên “Chợ tuyết” đặc biệt này. Khi tuyết đã phủ một màu trắng cho đất trời thì người ta rời khỏi những căn nhà ấm cúng, tập trung về một khoảnh đất cao ráo rộng khoảng năm trăm mẫu bên dòng Mặc Thủy, nghe đâu mấy trăm năm trước là đất thuộc gia tộc họ Tôn, lúc này đương nhiên đã là đất công, đang bị lãnh đạo chính quyền địa phương đóng cọc giăng rào để biến thành một khu kinh tế mở. Dự tính ngu xuẩn này đang bị nhân dân Đông Bắc Cao Mật phê phán mạnh mẽ, những chiếc cọc gỗ được đóng xuống vào lúc ban ngày, ngay lập tức bị nhổ lên đến mấy mươi lần vào ban đêm.

Tôi vẫn nhớ mãi lần đầu tiên theo ông nội tham dự “Chợ tuyết”. Chỉ có thể dùng mắt ngắm nhìn, dùng tay ra hiệu, vận dụng toàn bộ tâm tư để lý giải người khác và để người khác lý giải mình, tuyệt đối không được mở miệng. Mở miệng nói sẽ chịu hậu quả như thế nào? Suy trong lòng tất biết, không cần phải nói. Trong chợ thứ gì cũng có, nhưng nhiều nhất vẫn là giày bện cỏ bồ và các loại thức ăn, bao trùm không gian chợ là những mùi thơm: mùi thơm của bánh bao, mùi thơm của bánh quẩy, mùi thơm của thịt chiên, mùi thơm của thỏ nướng… Những người đàn bà thường xòe vạt áo bông che lấy miệng, thoạt trông cứ tưởng là đang cố gắng chống chọi với những cơn gió lạnh ùa vào cổ họng, nhưng tôi thì cho rằng họ đang bịt miệng mình để tránh những câu nói sẵn sàng thoát ra bất cứ lúc nào. Chúng tôi tuân thủ những quy định truyền thống một cách tự giác, không bao giờ mở miệng. Đây là con người tự chế ngự hay tự khiêu chiến với chính mình? Nhân vật chính trong tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” của Liên Xô - Paven Coocsơghin - bảo không hút thuốc là không hút thuốc, người Đông Bắc Cao Mật bảo không nói là không nói. Biết hút thuốc mà không hút thuốc là một đau khổ, biết nói mà không nói lại là một kiểu lạc thú. Năm ấy, tôi chứng kiến tận mắt điều thần kỳ ở tất cả mọi người khi tiến hành trao đổi mua bán mà không hề mở miệng như thế nào, tất cả những ánh mắt nhìn, những động tác bằng tay đều được biểu hiện một cách hết sức rõ ràng khiến tôi nghĩ chín mươi phần trăm lời nói của loài người đã trở nên vô dụng. Ngậm chặt miệng lại đi, tiết kiệm năng lượng và trau dồi tư duy, không nói khiến anh cảm thụ được nhiều ý tưởng hơn về màu sắc, về mùi vị, về hình thể. Không có ngôn ngữ là điều kiện tốt nhất để anh hòa nhập vào trong không gian “dĩ tâm truyền tâm”; không có ngôn ngữ khiến con người tránh được sự chán ngán và cũng tránh được sự đấu tranh; không có ngôn ngữ khiến giữa người và người có một tấm màn che trong suốt và nhờ có tấm màn che này mà người này và người kia càng nhớ kỹ dung mạo của nhau hơn. Không có tiếng nói càng khiến anh cảm thụ được nhiều loại âm thanh đẹp của thế gian này; không cần ngôn ngữ khiến nụ cười của mỹ nhân càng mê hồn hơn. Nếu anh muốn nói cũng không ai cấm anh nói, nhưng mỗi khi anh mở miệng là không biết bao nhiêu ánh mắt sẽ đổ dồn vào anh và tất nhiên sẽ là những ánh mắt khó chịu và anh cũng chẳng thấy thoải mái gì. Tất cả mọi người đang nói mà không nói, không nói mà nói, hà cớ gì anh phải bật lên tiếng nói? Yên lặng mới là điều đáng sợ! Khi người ta bắt đầu lên tiếng loạn xị bát nháo, anh hãy yên tâm là xã hội hãy còn phương để cứu chữa; khi người ta ngậm tăm đưa mắt nhìn thờ ơ, ngay cả một tiếng chửi cũng không có, e rằng xã hội ấy đã đến ngày cuối cùng! Đương nhiên, chuyện không nói trong “Chợ tuyết” là chuyện riêng của vùng Đông Bắc Cao Mật, nghe đâu rằng có một người ngoại lai đến với “Chợ tuyết”, buồn rầu nói: Thật tội nghiệp, mọi người ở đây câm cả rồi à? Hắn đã phải nhận những đòn trừng phạt nào, anh cứ tự mình tưởng tượng nhé!

Không nên dừng quá lâu ở đây, về cái “Chợ tuyết” này tôi sẽ tiếp tục kể trong một bộ tiểu thuyết đồ sộ hơn. Bắt đầu từ đây, mời các đồng chí của tôi chú ý đến một con chó - một con chó mù đang đuổi thỏ hoang trên tuyết. Rất nhiều lần tôi đã từng gán cho con chó này một tính cách: Lỗ mãng và cục cằn. Lỗ mãng vì nó bị mù, cục cằn vì nó bị mù, và cũng chính vì bị mù nên mới sinh ra lỗ mãng cục cằn. Nó đuổi theo thỏ hoang trên tuyết chỉ dựa vào mùi vị và âm thanh nhưng cuối cùng những con thỏ cũng khó lòng thoát khỏi đôi hàm răng sắc nhọn của nó. Tôi nhớ trong bộ tiểu thuyết “Nước thơm” của văn học Đức có kể về một quái nhân chỉ cảm nhận cuộc đời thông qua lỗ mũi, nhưng độ chính xác cao hơn nhiều so với những người cảm nhận đời qua đôi mắt bình thường. Nhạc sĩ mù Cung Thành Đạo Hùng của Nhật Bản viết: “Sau khi ánh sáng tắt, trước mặt tôi lại xuất hiện một thế giới âm thanh vô tận và phức tạp. Chúng phá vỡ sự cô tịch trong lòng khi tôi tiếp xúc được với màu sắc và đường nét”. Thiên tài âm nhạc này còn có thể nghe thấy màu sắc của âm thanh, bảo rằng âm thanh và màu sắc hòa quyện trong nhau, có âm thanh trắng, có âm thanh đen, có âm thanh đỏ, có âm thanh vàng… Có lẽ rồi sẽ còn có một thiên tài nào nữa có thể ngửi thấy mùi vị của âm thanh chăng?

Thôi thì chúng ta không cần phải rảo bước đến vùng đầm lầy ở phía Tây Nam, cũng không cần phải đến chỗ dòng sông đổ ra biển ở phía Đông Bắc nữa. Ở trên vùng cát ấy có những vườn nho đang trĩu quả. Chúng ta cũng chẳng cần phải đi qua hết tất cả những xóm làng của vùng Đông Bắc Cao Mật nữa. Ở những nơi ấy đã từng có những lò nấu rượu cực lớn, có những lò nhuộm, có những lò hấp trứng, có những ông già huấn luyện chim ưng, có những cô gái ngồi bên khung cửi, có những người thợ da… đã trầm tích trong những tầng văn hóa - lịch sử. Chúng ta đi không hết đâu. Xem kìa, con chó mù đã ngoạm được con thỏ hoang trong miệng nó, ngậm chặt và mang đến dâng hiến cho chủ mình - một ông già tuổi đã cao lắm rồi. Căn nhà cô đơn của ông ta nằm ở ngoài rìa làng phía nam. Trước cửa nhà ông ta, chỉ có mấy bước chân là một bức tường rất kỳ quái, bên này bức tường là thế giới của chúng tôi, bên kia bức tường là lãnh địa của người khác.

Ông già họ Môn này thân thể cao lớn, tuổi cao lắm rồi, không tính được nữa. Chuyện về ông ta kể hoài không hết, tôi chỉ thích nhất một câu chuyện gần như là bịa đặt - chuyện ông ta bắt ma. Chuyện kể rằng ông già gặp một con ma. Con ma yêu cầu ông ta cõng nó. Thế là ông ta cõng nó về đến nhà và đặt xuống, té ra đó là… Là cái gì? Tôi cũng không biết nữa. Ông già cô độc này đã từng là người đánh xe ngựa cho một nhân vật lỗi lạc, nghe đâu ông già cũng đã từng là một đảng viên. Kể từ khi tôi bắt đầu hiểu mọi chuyện thì tôi đã thấy ông ấy xa lánh mọi người, dọn ra ở ngoài rìa làng, tuy vậy tôi vẫn thường được ông ấy sai người mang đến cho tôi rất nhiều thịt thỏ hoặc thịt chim. Ông ấy thường dùng một cọng cỏ màu đỏ xâu thịt lại mà luộc, mùi vị tươi ngon và hình như trong thịt có những âm thanh réo rắt vui tai, cho đến bây giờ vẫn cứ vương vấn trên đầu lưỡi, bên tai tôi. Ngoài ông ấy ra, không ai tìm thấy được loại cỏ này. Mấy năm trước tôi có nghe người trong thôn kháo với nhau rằng: Ông già họ Môn đã đi khắp nơi để thu gom vỏ chai rượu, lấy làm kỳ người ta bèn hỏi ông làm chuyện đó để làm gì, ông ấy không trả lời. Cuối cùng người ta mới phát hiện ra rằng, ông dùng những vỏ chai rượu ấy để đắp nên một bức tường phân cách giữa vùng Đông Bắc Cao Mật và ngoại địa. Bức tường vươn được khoảng hai mươi mét thì ông già gục chết dưới chân tường.

Bức tường do mấy vạn chiếc vỏ chai đắp thành, tất cả các miệng chai đều hướng về phía Bắc, chỉ cần gió thổi, bức tường đồng loạt vang lên muôn vàn âm thanh khác nhau, tụ hội lại với nhau và trở thành một loại âm nhạc chưa từng có trong lịch sử âm nhạc của loài người. Trong những đêm bắc phong gầm gào, chúng tôi nằm trong giường vẫn nghe được những âm thanh biến hóa khôn lường, du dương, có mùi, có vị, có hương, có sắc vang lên từ hướng Đông Nam, những giọt nước mắt ngân ngấn lăn trên đôi gò má chúng tôi và bao nhiêu nỗi niềm sùng kính đối với tổ tiên, nỗi sợ hãi trước thiên nhiên vĩ đại, những mơ ước về ngày mai, sự cảm kích đối với thánh thần… trỗi dậy trong lòng.

Anh có thể quên bất cứ điều gì nhưng đừng bao giờ quên những âm thanh phát ra từ bức tường kỳ lạ này, bởi nó là âm thanh của đại tự nhiên, là bản hợp xướng của quỷ thần.

Ngày hôm qua, bức tường biết hát đã đổ sụp, nghìn vạn mảnh thủy tinh lấp lóa trong mưa và vẫn tiếp tục ngân lên những âm thanh bất tuyệt, nhưng nếu trước đây là những âm thanh vút cao thì bây giờ là những nốt nhạc trầm. Nhưng vẫn may sao, tất cả những âm thanh vút cao hay những cung trầm đục của bức tường đều đã thấm nhuần trong tâm hồn chúng tôi và sẽ tiếp tục lưu truyền mãi mãi cho con cháu sau này.

29 - 12 – 1994