Ba bài tạp cảm về chuyện ăn 1. Nỗi nhục về chuyện ăn
Chuyện ăn thì ai cũng đã rõ, chẳng có chuyện gì để nói nhưng cũng có rất nhiều điều đáng nói. Ý tôi muốn nói ở đây là, nếu ăn của người một chiếc củ cải mà nhận lấy điều sỉ nhục thì cho dù anh có dùng nhân sâm ngàn năm để rửa, e rằng cũng rửa không hết đâu.
Sau khi lê đôi chân như một kẻ ngốc nghếch của mình vào thủ đô Bắc Kinh, tôi cứ ân hận mãi là không gặp được một loài động vật nào để có thể nhe đôi hàm răng của mình ra biểu thị tình hữu hảo. Tôi đã biết, trình độ hung dữ của các loài động vật ở Bắc Kinh là số một trên trái đất này, ngay cả những con chó hoang xác xơ bùn đất cũng có vẻ có thần có khí hơn gấp nhiều lần nếu so với những chó hoang tỉnh lẻ khác, trong tiếng sủa oang oang của nó cũng có mùi vị hoàng thành không thèm che giấu. Mấy năm trước, tôi bước chân vào một quán bán miến lạnh vừa bẩn thỉu vừa tồi tàn do một người thuần chủng Bắc Kinh làm chủ, ruồi bay tứ tung, bà chủ quán phì nộn mỡ màng, con chó già mắt đầy ghèn nằm phục ở trong góc quầy nhìn tôi. Tôi rất thực lòng cầm một miếng thịt vất cho nó, ý của tôi là: “Chó ơi, đừng nhìn tao thù địch như vậy. Tao biết Bắc Kinh là Bắc Kinh của chúng mày, mày đang căm ghét những kẻ ngoại lai như chúng tao làm hoen ố và hỗn tạp thành phố sang trọng của chúng mày. Ăn miếng thịt này đi và chớ có nhìn tao bằng ánh mắt ấy nữa, tao chỉ tạm thời dừng chân ở đây thôi và có thể sẽ ra đi bất cứ lúc nào”. Con chó sủa oang oang, làm như tôi ném đến trước mặt nó một quả lựu đạn không bằng. Bà chủ quán điên tiết: “Anh làm cái gì thế, ăn no rồi rửng mỡ à? Con vịt ngu ngốc kém phẩm hạnh kia?”. Trong lòng tôi nghĩ, lời nói của người đàn bà đặc sệt Bắc Kinh này tại sao lại xuất phát từ dưới đũng quần thế nhỉ? Người Bắc Kinh tại sao lại ngạo ngược thế nhỉ? Người Bắc Kinh tại sao lại không kể gì đến đạo lý như thời liên quân tám nước thế nhỉ? Tôi cho con chó của bà ta miếng thịt là để biểu thị tình hữu hảo thôi mà! Đúng lúc ấy, một gã đại Hán - loại người điển hình cho những kẻ thống trị trong các ngõ ngách của thành phố Bắc Kinh từ nhà trong đi ra, giọng Bắc Kinh - loại giọng có mối liên hệ vô cùng mật thiết giữa cái miệng ở trên và đũng quần ở dưới nổ liên tục như ngô rang: Nào là “vị” chó này là nhập từ Pháp về, là thuần chủng, là danh chủng, ít nhất cũng đáng giá một trăm nghìn nhân dân tệ. “Vị” chó này không thể cho ăn một cách tùy tiện mà phải có các phương pháp điều chế thức ăn đặc biệt, những chất có chứa nhiều vitamin, nhiều protein phải đúng số lượng, nhiều một chút không xong, ít một chút không được. Anh cho nó ăn thịt cẩu thả như vậy chắc chắn sẽ làm đường ruột nó rối loạn mất! Đây là một “vị” chó sao? Tôi cảm thấy ruột gan mình tan nát. Con chó có bộ dạng như thế mà được nhập từ Pháp về sao? Những con chó suốt ngày bới những đống rác đống phân ở quê tôi xem ra còn đẹp mã hơn hẳn. Nghĩ thế, tôi đâm liều: “Đừng có mà dọa nạt, đừng có mà lòe những người nhà quê như tôi. Chẳng qua nó cũng chỉ là một tấm da rách!”. Ai da! Mẹ ơi! Lời của tôi vừa tuôn ra khỏi miệng, ngay lập tức đôi mắt của gã đại hán lóe lên nóng như thiêu đốt, còn nóng hơn cả người ta dùng móc sắt hơ nóng dí vào mông hổ; còn người đàn bà thì lắc lư đôi mông núng nính hét lên the thé: “Giải Phóng! Ông đem thằng oắt này vào nhà trong xin tí tiết giúp tôi!”.
Toàn thân tôi rét run, tôi quá sức sợ hãi. Căn cứ vào trật tự của công việc đồ tể, sau khi cắt tiết con vật là nhúng vào nước sôi rồi nhổ lông cánh, sau đó là chặt đầu chặt chân, mổ bụng lôi hết ruột gan phèo phổi ra ngoài, cuối cùng là treo lên trên móc để chờ người ta đến mua. Có lẽ đến sáng mai, cũng có thể là trưa mai, cũng có thể là chiều mai, trong những chiếc chảo đầy dầu, trên những bếp lò đầy than, trong những xiên thịt dê thịt cừu có lẫn lộn một phần rất nhỏ thịt của tôi và tất nhiên nó sẽ chui vào dạ dày của người Bắc Kinh. Nghĩ đến đây, xương sống tôi ớn lạnh, chẳng còn tâm trí đâu mà ăn miến lạnh nữa, tôi vội vàng đứng dậy, áp lưng vào tường, cúi đầu khom lưng chân nọ đạp lên chân kia vọt ra khỏi quán.
Quay về ký túc xá, càng nghĩ càng cảm thấy nhục và uất ức, hai hàng nước mắt trông chẳng khác nước đái chó trào ra khỏi hốc mắt tôi. Oán ai? Oán chính mình thôi. Ai bảo mày đi ăn miến lạnh? Cứ nấp trong phòng ăn bánh bao hoặc gói mì ăn liền là được rồi. Nếu không muốn làm phiền cô nhân viên bán mì ăn liền người gốc Bắc Kinh, mỗi lần đến cửa hàng mày có thể mua bốn năm mươi gói, cái tội dám quấy nhiễu người khác sẽ giảm đi được bốn năm mươi lần là được chứ gì? Đang nghĩ đến đấy thì một người bạn bước vào, hỏi anh khóc cái nỗi gì? Bắc Kinh đang thiếu nước, nước mắt tuy ít nhưng cũng là nguồn nước tự nhiên, không nên phí phạm. Tôi nghĩ lời anh ta có lý, chúng tôi là dân tỉnh lẻ đến Bắc Kinh, mọi chuyện cần phải tính toán cẩn thận, muốn khóc thì về Sơn Đông mà khóc, khóc ở Bắc Kinh cũng được nhưng không được khóc vì uống phải nước “tự nhiên” của người Bắc Kinh!
Anh bạn mời tôi ăn cơm. Một đĩa củ cải xào, một bát miến và một bát thịt gì đó, tôi quên mất rồi. Ăn xong, cảm thấy mình đã hoàn toàn sung sức, chạnh nghĩ, ăn của người một miếng cơm, cả đời sẽ không bao giờ quên.
Sau đó mấy ngày, trong khi tụ tập với bạn bè, tôi đã vô tình nói một câu gì đó xúc phạm đến người đã mời tôi ăn cơm. Anh ta nghiến răng nói: “Cậu hãy đem chút lương tâm còn lại của mình vất cho chó ăn đi! Mấy ngày trước, tôi đến cửa hàng San Kalina mua củ cải Tây Ban Nha, đến siêu thị Trường Thành mua thịt bít tết Mỹ, còn dùng bột cá trước đây bố tôi đi Liên Xô mang về để mời cậu ăn. Cậu đã ngốn đến độ miệng mồm bết bê dầu mỡ, chỉ chớp mắt mà cậu đã quên sao? Những miếng thịt bò vẫn chưa kịp tiêu hóa kia mà?
Tôi cảm thấy toàn thân mình lạnh toát, hối hận quá đỗi. Tôi hận mình tại sao không dùng keo dán kín cái miệng thèm ăn của mình lại. Ngày trước mày ăn gì mà mày vẫn sống và trưởng thành? Mày ăn củ cải Tây Ban Nha, thịt bò Mỹ, bột cá Liên Xô của người làm gì? Nếu quá thèm ăn, mày cứ đi mua củ cải Tây Ban Nha, thịt bò Mỹ về mà ăn, quá lắm cũng chỉ hai mươi đồng! Mày ăn chút thức ăn của người, mày buộc lòng phải nuốt cái nỗi nhục do người mang lại này thôi!
Cái tật xấu nhất của thằng tôi là rất mau quên, giống như loài chó, chỉ nhớ đến chuyện ăn mà không nhớ chuyện bị đánh. Nghiến răng nuốt hận cho qua chuyện ấy, mấy ngày sau tôi đã quên. Lại có một người bạn khác mời tôi ăn cơm, một chiếc nồi đặt trên bếp gas, trong nồi là mười mấy con tôm, một ít rau cải trắng, lại còn có mấy miếng thịt gì đó tôi cũng quên rồi. Ăn, ăn và ăn. Dáng vẻ ăn rất hung tợn của tôi cuối cùng đã lại bộc lộ. Anh bạn cảm khái: “Ôi dào, lại phấn đấu quên mình rồi!”.
Chỉ một câu cảm thán thôi nhưng đã làm cho toàn thân tôi lạnh loát, những chuyện nhục nhã vì ăn của người ùn ùn quay lại trong tâm trí tôi. Sao mày lại hạ đẳng đến như vậy? Sao tôi lại chẳng có chút lòng tự tôn nào hết cả vậy? Sao tôi lại không tự mình dẫn xác đến một quán ăn nào đó, quá lắm cũng chỉ mười mấy đồng đã có một bữa ăn ngon lành hơn nhiều, lại thích ăn gì thì cứ ăn nấy, muốn ăn hùng hổ như thế nào thì cứ như thế mà hùng hổ; cho dù mày ăn hết thịt rồi bê đĩa lên mà liếm cũng chẳng có ai chê bai gì. Mày thường quên mất thân phận của chính mày, mày quên mất rằng mày là một thằng cùng đinh ở nông thôn, dưới mắt những người ấy căn bản mày chưa hoàn toàn là một con người, thi thoảng tìm đến mày chơi cũng chẳng khác nào thiên nga muốn tìm hiểu vịt nhà vậy thôi. Tôi tự thề với lòng là từ nay về sau thà chết đói còn hơn ăn thức ăn của người khác. Tôi tự thề là từ nay có tụ tập ăn uống với bạn bè, tôi phải là người đứng ra thanh toán tiền, lúc ấy cho dù tôi ăn có nhiều và có hùng hổ đi chăng nữa, các người cũng không có cớ gì để nhạo báng tôi nữa phải không?
Có một lần chúng tôi đi ăn vịt quay Bắc Kinh. Bàn ăn chỉ mới vơi một nửa, tôi vội vàng đứng dậy thanh toán tiền. Sau khi dạ dày của chúng tôi đã lèn đầy những thức ăn ngon, nhìn thấy trên bàn vẫn còn thừa lại rất nhiều, bản chất nông dân thứ cấp lại nổi lên trong lòng, tiếc quá đi mất. Nào là thịt vịt, nào là bánh cuốn, nào là nước tương, nào là hành tỏi… thôi thì gắng ăn thêm một tí vậy, tôi bèn cố sức nhét vào cái dạ dày đã căng của mình. Lúc ấy, một trong số những người được tôi mời ăn nói: “Nhìn anh Mạc Ngôn kìa, không ăn hết số tiền đã bỏ ra là không được rồi!”. Tôi thấy mặt mình nóng lên như vừa bị giáng một bạt tai trí mạng. Người ấy còn nói thêm: “Các ông nói đi, sức ăn của Mạc Ngôn ghê gớm đến mức nào? Anh ấy sao lại có thể ăn nhiều đến thế nhỉ? Nếu tất cả người Trung Quốc đều ăn như anh ấy, Trung Quốc sớm đã bị dìm trong đáy sâu của chủ nghĩa tư bản rồi!”.
Đến lúc ấy tôi mới rõ: Mọi chuyện trên thế giới này sớm đã được an bài, những ai phải nhận sự khinh bỉ từ người khác cho dù có đội kim khôi trên đầu cũng không tránh được!
Trong chuyến về quê ăn tết năm trước, tôi đem những chuyện mình bị sỉ nhục ở Bắc Kinh ra kể cho bố mẹ nghe. Mẹ nói: “Con người ta sống chủ yếu phải có chí khí của riêng mình. Mẹ không tin rằng nếu lần sau anh đi ăn tiệc, trước khi đi anh ăn bốn năm chiếc bánh bao, húp thêm vài bát cháo to, khi ngồi trong bàn tiệc anh vẫn cứ cắm cúi ăn như quỷ đói như thế!”.
Sau khi trở lại Bắc Kinh, tôi làm theo lời mẹ dặn, quả nhiên tôi không còn ăn vồ ăn vập nữa mà thái độ ăn của tôi điềm đạm hơn, lịch sự hơn. Ăn xong, như một người đầu bếp người Anh, tôi chờ đợi những lời khen tặng, nhưng có một người lại nói: “Xem cái kiểu làm bộ làm tịch của Mạc Ngôn kìa! Hình như anh ấy cho rằng chỉ dùng mấy chiếc răng cửa để ăn cơm là đã có thể biến thành Giả Bảo Ngọc vậy!”.
Mọi người cười rộ lên. Người ấy lại tiếp tục nói: “Là người thì phải tạo cho mình một chút bản sắc chứ! Ngay cả Lâm Đại Ngọc còn phải ngồi trong bô đại tiện kia mà!”.
“Mẹ ơi! Con hết đường để đối đãi với người ta rồi!”. - Tôi kêu với mẹ.
Mẹ tôi bảo: “Con trai ơi! Chấp nhận mệnh vậy thôi! Mệnh bắt phải như thế nào thì phải chấp nhận như thế thôi!”.
Tôi tiếp tục kêu: “Mẹ ơi! Cả nhà ta tại sao chỉ có mình con phải chịu nhục nhã như thế này? Nửa đời người rồi mà cái kiếp chịu nhục vẫn chưa đổi thay sao?”.
Mẹ nói: “Con trai ơi! Con chịu thế đã có thấm gì? Trong những năm sáu mươi, mẹ lấy trộm thức ăn cho ngựa của đội sản xuất nên đã bị lão Lý thủ kho treo lên mà đánh. Lúc ấy mẹ nghĩ, nếu được thả xuống thì đâm đầu vào gốc cây mà chết, thế là xong. Nhưng đến khi được thả xuống thì lại bò mà trở về nhà. Bác gái anh đi xin cơm ở thôn Tây, đi đến nhà của một gia đình mắc bệnh hủi, thấy trên bàn vẫn còn một chiếc bát, trong đó còn lại nửa bát miến đang ăn dở. Thức ăn thừa của người hủi có đáng sợ không hả anh? Nhưng bác gái lại nhào đến, dùng tay bốc lấy bốc để mà nhét vào mồm, vừa nuốt vừa sợ người ta trông thấy thì chửi cho! Anh gặp những chuyện đó kể ra cũng có gì là quá nhục nào? Mẹ thấy anh càng ngày càng mập lên rồi đó, không hưởng phúc, sao lại mập được? Con trai ơi, anh đang hưởng phúc, đừng nên trong phúc mà không biết đó là phúc!”.
Tôi suy nghĩ rất lâu về những lời của mẹ và dần dần bình tâm trở lại. Đúng rồi, những gì gọi là tự tôn, là thể diện đều là chuyện sau khi ăn no. Đối với một người sắp chết thì bát miến thừa của người mắc bệnh hủi lại là thứ quý giá nhất, đương nhiên cũng có người thà chết còn hơn ăn miến của người Mỹ, nhưng họ là những con người vĩ đại. Còn như tôi đây cũng giống như một loài động vật (chó hoặc lợn chẳng hạn) thì những gì gọi là tự tôn, thể diện cứt chó ấy chỉ đem lại phiền phức cho chính mình mà thôi!
2. Dáng ăn hùng hổTrong suy nghĩ của tôi, khi mà tôi đang cần nhiều chất dinh dưỡng nhất cũng chính là lúc tuyệt đại đa số người Trung Quốc đang đói đến độ sống dở chết dở. Tôi thường nói với bạn bè rằng, nếu không vì cái đói, tôi có thể sẽ thông minh hơn tôi bây giờ nhiều, tất nhiên cũng chưa hẳn là như vậy. Cũng chỉ vì vừa mới mở mắt chào đời đã chịu đói cho nên trong ký ức tôi, những ấn tượng về cái ăn là sâu đậm nhất. Ngày ấy, nhà tôi có đến mười mấy miệng ăn, mỗi khi ăn cơm là tôi khóc một bận. Lúc tôi khoảng bốn năm tuổi gì đó, tôi và con gái của chú tôi - lớn hơn tôi mấy tháng tuổi, bữa ăn nào cũng được bà nội cho mỗi đứa một củ khoai khô khốc. Lúc nào tôi cũng nghĩ là bà nội thiên vị nên chụp lấy củ khoai phần cho cô em và ném phần của tôi về phía con bé. Giật được rồi, lại cảm thấy phần của mình lại có phần to hơn nên lại vội vàng giật lại đến đôi ba lần. Gương mặt của thím tôi đỏ rần lên, em gái cũng khóc thét lên, tất nhiên nước mắt của tôi cũng đã rơi lã chã. Mẹ thở dài bất lực, bà nội thì phàn nàn tôi là thằng tham ăn tục uống, mẹ liên tiếp phụ họa biểu lộ sự đồng tình, lại còn oán cái bụng của tôi sao mà to! Mẹ lại còn nói, biết thế này bà chẳng bao giờ đẻ tôi ra làm gì.
Ăn xong củ khoai khô khốc, những gì còn lại trong mâm chỉ là những sợi rau dai nhách. Những sợi rau đen sì nhét vào mồm nhưng không thể nuốt nổi, nhưng dù sao thì cũng phải nuốt, do vậy mà vừa nuốt vừa khóc. Vậy thì dựa vào chất gì để tôi trưởng thành? Làm sao tôi biết được. Lúc ấy tôi chỉ nghĩ: Đến lúc nào thì tôi được ăn một bữa khoai no nê nhỉ? Chỉ cần ăn khoai no, thế là tôi đã thỏa mãn lắm rồi!
Mùa xuân năm 1960 là thời kỳ ảm đạm nhất trong lịch sử tồn tại của đời tôi. Những cái gì có thể ăn được đều không còn, rễ cỏ, vỏ cây, cỏ ở hiên nhà cũng đã hết. Trong làng ngày nào cũng có người chết, tất cả đều là chết đói. Ban đầu, thân nhân của người chết còn khóc vài tiếng và khiêng xác ra mảnh đất đầu thôn chôn cất đàng hoàng, sau đó thì không còn sức để khóc nữa, chỉ làm mỗi công việc mang ra ngoài đồng, đào cái hố nông choèn mà vùi cho có lệ. Rất nhiều những con chó mắt đỏ đói lả đứng chờ sẵn một bên, người vừa quay lưng là chó đã lôi được xác lên khỏi mặt đất. Nghe đồn rằng lão Mã Tứ đã từng cắt thịt đùi của người vợ đã chết mà nướng ăn, chuyện này có hay không rất khó xác minh, bởi cũng chỉ mấy ngày sau là lão ta đã chết. Lương thực đi về đâu nhỉ? Lương thực chui vào mồm ai hết cả rồi? Người quê tôi vốn hiền lành chân thực, cho dù có chết đói cũng không hề dám tha phương cầu thực. Sau đó người ta kháo nhau rằng, có một loại đất trắng ở vùng trũng phía Nam có thể ăn được, bèn đổ xô nhau đi đào về mà ăn, ăn vào không lấy ra được, chết thêm một số nữa, do vậy mà hết dám ăn đất. Lúc ấy tôi đã đi học. Mùa đông, trường kéo về một xe than đá sáng lấp lánh, đúng là loại than đá tốt. Có một bạn học mắc bệnh lao họ Đỗ bảo tôi rằng, than đá rất thơm, càng nhai càng thơm, thế là chúng tôi cùng nhau ra bốc than đá mà ăn, quả nhiên càng nhai càng thấy thơm. Lúc lên lớp, cô giáo viết trên bảng, chúng tôi ngồi dưới nhai than, tiếng nhai rạo rạo vang lên khắp phòng. Cô hỏi các em đang ăn gì vậy, khi nhìn thấy mồm đứa nào cũng đen nhẻm, cô bèn phê bình: Than đá sao lại có thể ăn được? Chúng tôi cãi: Thơm cực kỳ, nếu cô không tin cứ thử một miếng thì biết. Cô giáo họ Du, cũng đang rất đói, gương mặt vàng võ khiến chúng tôi có cảm giác râu cô sẽ mọc ra tua tủa, đói có thể biến cô thành đàn ông lắm chứ? Cô giáo nghi ngờ hỏi lại, sao lại ăn than đá được nhỉ? Một bạn gái mở cặp lấy ra một thỏi đưa cho cô giáo, cô đưa lên miệng cắn một chút nhỏ, nhấm nháp, cuối cùng cũng đưa lên mồm cắn một miếng to và bắt đầu nhai ngon lành. Cô giáo nói: Thơm lắm! Chuyện này nghe có vẻ hoang đường quá, ngay cả lúc này tôi cũng có cảm giác là nó không hề trung thực, nhưng năm ngoái tôi đã nghe ông Vương kể chuyện. Ông Vương kể rằng: Khi mà những chiếc mồm của chúng mày đang ngáp ngáp chờ chết thì may sao, Nhà nước lại có một đợt cứu tế: Bánh đậu, mỗi người nửa cân, sữa đóng bánh mỗi người được phân một thỏi to bằng hạt hạnh nhân, ngậm trong miệng không nỡ nuốt nhưng hình như nó tự biến mất trong cổ họng. Ông Tôn, người hàng xóm tôi đã ăn hai cân bánh đậu liền, nghẹn, uống nước vào, bánh đậu nở ra, bao tử chịu không nổi, chết ngay sau đó. Mười mấy năm sau, nhớ về thời kỳ này, mẹ bảo lúc ấy bao tử con người mỏng như một tờ giấy, không có chút mỡ nào bên trong. Người lớn bị phù thũng, trẻ con lớp một như chúng tôi thì bụng to như cái trống nhưng da bụng lại trong suốt, những khúc ruột non ruột già bên trong có thể thấy được hết. Đang tuổi ăn tuổi lớn, những đứa trẻ sáu bảy tuổi như chúng tôi lúc ấy có thể uống một lúc đến sáu bảy bát canh toàn rau.
Cuộc sống sau đó có tốt lên một chút, có thể nói là nửa năm ăn cám nửa năm ăn cơm. Chú tôi đã mua được một bao bánh hạt bông ép bằng cách gõ cửa sau nhà người khác, vất trong góc nhà, mỗi lần thức giấc nửa đêm để tiểu tiện, tôi vẫn không quên lén nhón một mẩu đem về đến tận ổ ngủ và nhai từ từ trong đêm, ngon quá!
Tất cả gia súc trong đội lần lượt chết vì đói, đội sản xuất bèn đặt một chiếc nồi thật lớn trong trụ sở đội và rửa ráy qua loa chuẩn bị bỏ chúng vào nồi ninh nhừ. Một đám trẻ con ngửi thấy mùi động vật chết nên đã tề tựu chung quanh chiếc nồi. Có một thằng có biệt danh là “Vận Thâu” cầm đầu chúng tôi hát vang:
Chửi thằng Lưu Biểu đầu quá to,
Bố mày mười lăm, mẹ mày mười sáu,
Cả đời chưa có lấy một bữa no,
Chỉ giữ xương trâu gặm bo bo.
Đội trưởng sản xuất vung gậy đuổi chúng tôi chạy tứ tán, nhưng làm sao đuổi chúng tôi được khi mùi thịt động vật chết hấp dẫn đến như vậy. Dưới mắt đội trưởng, chúng tôi chỉ là một đàn nhặng không hơn không kém.
Thừa lúc đội trưởng đội sản xuất đi vào nhà xí, chúng tôi nhào tới. Anh hai tôi khoắng được một chiếc chân ngựa vội vàng vác chạy về nhà, chẳng khác nào ôm một đống tài sản trong lòng. Đốt một đống lửa nhỏ lên để thui lông trên chân ngựa, bổ ra rồi bỏ vào nồi ninh. Nước ninh chân ngựa thơm lừng, đến nay vẫn chưa thể quên.
Trong thời kỳ Cách mạng văn hóa, cái đói vẫn theo đuổi chúng tôi, tôi thường ra những thửa ruộng ngô của đội sản xuất để đào mầm ngô, nấu chín, bỏ ít muối, thêm vài tép tỏi. Mùi vị thơm lừng, ngon không thể tả. Sau đó có người bảo rằng, thịt cóc ngon hơn thịt lợn nhiều lần nhưng mẹ tôi sợ bị trúng độc, không cho chúng tôi bắt cóc.
Cuộc sống dần dần tốt lên, khoai cũng đã có thể ăn no. Lúc này đã là thời kỳ cuối của Cách mạng văn hóa. Có một năm, vào dịp thanh toán cuối năm, nhà tôi được nhận 290 nhân dân tệ. Đây là số tiền đủ làm mọi người chung quanh phải giật mình kinh sợ, bởi vì tôi vẫn nhớ là bà thím thứ sáu của mình đã đánh cho đứa con gái đến độ thừa sống thiếu chết vì nó đã đánh mất một xu. Được nhận số tiền khổng lồ ấy, bố tôi quyết định mua năm cân thịt lợn, nấu nhừ, mỗi người trong nhà được chia một bát. Chỉ cần vài lần cúi người xuống, bát thịt của tôi đã sạch veo. Vì thương con, mẹ san một phần thịt của mình vào bát của tôi. Ăn no, dạ dày chịu đựng không nổi, những cơn ớn lạnh liên tục trào lên trong cổ họng, những cơn đau dữ dội nổi lên trong bụng tôi chẳng khác nào bị những con dao chọc vào. Đó là cảm giác đau đớn đầu tiên khi được ăn thịt trong cuộc đời tôi.
Tôi trở nên nổi tiếng vì tật thèm ăn. Chỉ cần trong nhà có gì có thể ăn được là tôi dùng trăm phương nghìn kế để đưa vào miệng cho kỳ được, có khi không thể khống chế được mình, ăn no rồi nhưng vẫn cố nhét vào cho kỳ hết, do vậy mà thường bị chửi. Ông bà nội tôi sống ở nhà chú thím, mẹ thường bảo tôi đem thức ăn đến cho ông bà, những lần ấy, tôi thường mở nắp hộp đựng thức ăn và ăn vụng, do vậy mà mẹ tôi chịu rất nhiều tai tiếng oan uổng, những chuyện này cho đến bây giờ vẫn làm tôi ân hận mãi. Vì sao tôi lại thèm ăn đến độ như vậy? Có lẽ chuyện này không hoàn toàn là do cái đói mang đến, một phần có lẽ là do phẩm chất con người đem lại. Một thằng người mà thèm ăn đến độ như thế nhất định phải là thằng ý chí vô cùng bạc nhược, ý thức tự kềm chế những dục vọng cá nhân hầu như không có. Chính tôi là một thằng người như vậy!
Trong thập niên bảy mươi, khi làm công nhân thủy lợi, nhà bếp của đội sản xuất dùng bột mì để làm bánh bao, cứ mỗi ký bột khô nặn thành bốn chiếc. Kỷ lục ăn của tôi và cũng là của toàn công trường là mỗi bữa tôi ăn bốn chiếc bánh bao, đột xuất cũng có khi có thể ăn đến sáu bảy chiếc.
Năm 1976, tôi nhập ngũ, kể từ đó con đường đói khát của tôi rẽ sang một hướng khác. Từ tiểu đoàn tân binh, tôi được bổ nhiệm về đơn vị mới, tôi ăn một lúc đến tám chiếc bánh bao mà trong bụng vẫn còn cảm thấy trống không. Đầu bếp nói với cấp dưỡng viên: “Hỏng rồi, đơn vị ta đã có một chiếc thùng tô nô vừa mới đến!”. Cấp dưỡng viên cười nói: “Sau một tháng, ăn không nổi nữa đâu!”. Quả nhiên, sau một tháng, tôi chỉ có thể ăn được hai chiếc bánh bao to bằng nắm tay mỗi bữa ăn, còn bây giờ, chỉ cần một chiếc là đủ.
Cho dù, những năm tháng ấy không còn đói nữa, trong bụng cũng đã bắt đầu có dầu mỡ, có chất tanh, nhưng mỗi lần dự tiệc là trong lòng tôi luôn luôn có một nỗi sợ mơ hồ là mình sẽ ăn không đủ no nên tôi ăn uống một cách vội vàng, không hề quan tâm đến người chung quanh đang nhìn mình như thế nào. Nhưng có điều, sau mỗi lần ăn no là tôi lại hối hận: Vì sao mình lại không ăn từ từ được nhỉ? Vì sao tôi lại không thể gây được thiện cảm cho mọi người là mình xuất thân cao quý, nho nhã được nhỉ? Bởi vì trong xã hội văn minh này, ăn nhiều là biểu hiện của một sự vô giáo dục, bao nhiêu người đã công kích vì sức ăn quá kinh khủng, ăn cắm cúi vô tư đến độ quên mình của tôi. Tôi cảm nhận rằng, lòng tự tôn của mình đã bị tổn hại quá lâu rồi, bèn hạ quyết tâm lần ăn sau sẽ tỏ ra nhã nhặn một tí, nhưng rồi rất nhiều lần sau đó, tôi vẫn bị những người nhã nhặn công kích là tôi ăn quá nhiều, ăn quá nhanh, chẳng khác nào một con sói đói. Từ đó, lòng tự tôn của tôi càng bị xúc phạm nghiêm trọng. Lại trong một lần ăn cơm khác, tôi tự dặn lòng: Ăn ít, ăn chậm, không được đến trước mặt người khác gắp thức ăn, khi ăn không được để cho những âm thanh chóp chép vang ra ngoài, ánh mắt đừng liếc ngang liếc dọc, đũa không được gắp nhiều mà chỉ được phép gắp một cọng rau hay một miếng thịt hay một miếng đậu phụ thôi. Ăn phải giống như chim, như bươm bướm… Nhưng cuối cùng, người ta vẫn cứ chê cười tôi ăn quá nhanh. Tôi thất vọng vô cùng. Bởi vì trong khi tôi cố tình ăn uống một cách nhã nhặn từ tốn, ánh mắt tôi vẫn không ngừng quan sát những công tử quý tộc, những quý bà quý ông, những tiểu thư công nương chung quanh mình. Họ đều ăn như hà mã, chỉ đến khi ăn no căng cả bụng, họ mới bắt đầu chú ý đến sự nhã nhặn từ tốn. Thế là lửa giận ùn ùn bốc lên trong đầu, trong một lần đi dự tiệc không phải trả tiền, khi người phục vụ vừa mang đến một đĩa hải sâm lung tung gì đó, tôi chộp lấy, bê lên và đổ hơn một nửa vào bát mình, rồi không quan tâm đến chuyện thức ăn nóng sẽ làm miệng lưỡi mình bị bỏng, tôi nhai nhai nuốt nuốt một cách vội vàng. Tất cả quan khách đáng kính đều bảo tôi có dáng ăn quá hùng hổ. Nghe xong nhận xét này, tôi đứng dậy bê nốt phần còn lại trong đĩa ăn hết, lạ thay tất cả mọi người đều cười vang một cách thân thiện.
Hồi tưởng chuyện ăn của mình cách đây ba mươi năm trước, tôi cảm thấy mình chẳng khác một con lợn, một con chó chỉ biết cắm đầu cắm cổ mà nhai mà nuốt, cốt sao lấp đầy cái thùng không đáy trong bụng mình. Vì chuyện ăn mà tôi đã đánh mất không biết bao nhiêu là trí tuệ, bao nhiêu là cơ hội, đến bây giờ mặc dù chuyện ăn về cơ bản là không thành vấn đề nữa nhưng trí óc của tôi thì vẫn cứ thế, không còn minh mẫn lên được nữa.
Tháng 6 – 1992
3. Vẫn không quên được chuyện ănMấy năm trước, tôi đã từng có mấy bài viết nhỏ về chuyện ăn, trong đó có bài “Dáng ăn hùng hổ”, một bài nữa là “Nỗi nhục về chuyện ăn”, chẳng qua là một cách trả nợ cho bạn bè khi họ đặt hàng cho tôi viết “tùy bút” thôi, không ngờ sau khi đăng tải lại được mấy anh bạn tài tử Giang Nam bốc lên đến tận mây xanh khiến tôi cảm thấy choáng váng. Không phân biệt chân giả thiệt hơn, sau khi trở về tôi bèn phát huy tinh thần “xe nhỏ chưa đổ thì cứ thế mà đẩy”, tiếp tục chuyện ăn, chuẩn bị ăn đến khi đầy dạ dày thì thôi. Tôi cũng tự ý thức được rằng, chuyện ăn chẳng qua là chuyện vụn vặt, chuyện cà kê dê ngỗng chẳng đáng phải bàn, trong thâm tâm tôi vẫn muốn viết về những điều cao thượng và nhã nhặn một tí; tôi cũng muốn văn chương của mình có khí vị quý tộc và mang nội dung tư tưởng tiến bộ một tí, nhưng quạ đen làm sao có thể kêu được tiếng của phượng hoàng, chim ưng trọc đầu sao có thể nhảy theo điệu của tiên hạc? Thế thì, mong các bậc chính nhân quân tử hãy tha thứ cho, mong những người đồng chí hướng với tôi vui lòng mà đọc bài viết này. Tôi bắt đầu tiếp tục “ăn” đây!
“Sự khẩn cầu của cái miệng”, “miệng đang cầu xin”, rõ ràng trong chữ “ngật” đã bộc lộ sự thèm thuồng, đã bộc lộ sự đói khát. Nghĩ đến người tạo ra chữ “ngật” độc đáo này nhất định phải là người vừa nghèo vừa đói, nếu để cho Lâm Đại Ngọc hoặc Lưu Văn Thái tạo ra chữ này, nhất định là nó không có tự dạng như ngày nay, bởi vì ngày nào cũng thế, từ sáng đến tối bụng họ lúc nào cũng đầy đến độ chịu không nổi, những loại thức ăn lúc nào cũng cầu xin cái miệng của họ: “Tiểu thư ơi! Lão gia ơi! Chúng tôi van mọi người, mọi người hãy ăn chúng tôi đi!”. Do vậy mà xem, ngôn ngữ văn tự rõ ràng có tính giai cấp mà không hề đơn thuần là những ký hiệu trừu tượng - Bỗng nhiên sực nhớ có một người nào đó có viết chúc từ cho một tờ báo nào đó nhân ngày kỷ niệm thành lập đã gọi tờ báo ấy bằng đại từ “nễ” -
Quay về với chính truyện vậy. Sau khi Cách mạng văn hóa kết thúc, các vị lãnh đạo cơ quan có truyền đạt nhiều văn kiện. Nội dung của văn kiện thường là một bài phát biểu của một lãnh đạo trung ương nào đó, nội dung chủ yếu của lời phát biểu lại là vấn đề ăn của quốc dân. Thủ trưởng bảo, mọi người ai cũng có một cái miệng, há miệng ra là một cái hang động, một tỉ con người đang há miệng, tưởng tượng mà xem, một tỉ cái hang động gộp lại lớn biết chừng nào, đại khái là còn lớn hơn quảng trường Thiên An Môn đến mấy lần, anh bảo thế có đáng sợ không chứ! Lãnh đạo của chúng ta phát huy: Nếu nói tất cả những cái miệng của nhân dân đều bé bằng hạt anh đào, chỉ cần đổ vào khoảng một ít nước cháo gạo là đã đầy thì vấn đề không quá đỗi nghiêm trọng, nhưng khổ nỗi, hàng tỉ chiếc mồm ấy lại to hơn cả mồm Lỗ Trí Thâm, Trư Bát Giới, ba bát cháo to như cái đấu đổ vào chỉ mới lưng một nửa, cho nên, lãnh đạo của chúng ta nói: Từ nay về sau, trong một khoảng thời gian dài đối với người Trung Quốc mà nói, no hay đói trở thành vấn đề lớn nhất.
Lúc này nó còn là vấn đề không?
Tương lai nó sẽ còn là vấn đề không?
Những gì tôi viết lung tung ở trên chỉ là một sự “khơi mào”, vào chính truyện vẫn phải còn viết về lịch sử chữ “ngật”. Lấy tôi ra mà nói, tôi đã từng làm cho mọi người chán ngấy, chán thì cứ chán, tôi không có cách nào khác. Tôi thích ăn bánh mì trắng, tôi thèm ăn trứng Sơn Dược. Trứng Sơn Dược quả là một món ăn ngon, nhã tục hỗn tạp, hoàng đế thích ăn, bách tính cũng thích ăn; chiên cũng ngon mà luộc cũng ngon. Trứng Sơn Dược ơi! Cái tên của ngươi thật mỹ miều! Ôi, trứng Sơn Dược ơi! Bao nhiêu chuyện giả chuyện chân xoay quanh cái tên của ngươi rồi, điều đó cho thấy ngươi không hề là một củ khoai! Nói đến đây, thôi thì vứt quách cái củ khoai ấy đi để nói về tôi vậy: Cho đến lúc này, tôi đã sống đủ 42 năm, nói cách khác, tôi đã được ăn 42 năm. Cho dù tôi cũng có chút năng khiếu để dùng “bút công” viết văn chương, nhưng nếu trình bày hết toàn bộ những gì tôi đã nhét vào dạ dày trong 42 năm qua, e rằng tôi uống thuốc chuột chết cho xong, do vậy mà tôi chỉ chọn những gì chủ yếu để mà nhớ và ghi lại thôi.
Khổng Phu Tử có nói một câu đại ý là: Ham ăn uống và sắc đẹp là bản tính con người vậy! Câu nói này của ngài chắc là chỉ cho người lớn, đối với trẻ con mà nói, “sắc” chưa trở thành vấn đề. Đối với kiểu người như tôi, trước hai mươi tuổi, “sắc” chưa hề trở thành vấn đề quan trọng, bởi vì kể từ khi tôi bắt đầu có trí nhớ thì cái đói đã trở thành triền miên. Nói như thế này rất có thể tôi sẽ bị nhiều bậc anh hùng hảo hán chửi bới, chụp cho tôi cái mũ dám lộng ngôn “bôi đen chủ nghĩa xã hội” mất. Nhưng sự thật là như thế, cái đói nào có gì là quang vinh, nào có gì là tốt đẹp, việc gì phải đơm đặt thêm bớt? Nhưng tôi có ý khoe khoang những “khổ nạn” không? Có, đích thực là có, đó là điều tôi học được từ các anh.
Tôi sinh năm 1955. Đấy chính là thời kỳ hoàng kim đầu tiên của đất nước Trung Quốc mới. Theo lời người già kể lại, lúc ấy vẫn còn có cái để nhét cho no bụng, nhưng cảnh đẹp chẳng tồn tại lâu dài, rất nhanh sau đó là thời kỳ “đại nhảy vọt”. “Đại nhảy vọt” vừa bắt đầu thì đã đói. Sự kiện đầu tiên in vào trong trí óc non dại của tôi thời ấy là theo mẹ đến ăn cơm ở nhà ăn công cộng. Ôm đĩa cầm bát trên tay, mấy chục người nông dân đứng sắp hàng ngay ngắn để chờ nhận được một bát cháo gạo ít rau nhiều, rất hiếm khi chúng tôi được ăn cơm. Tôi còn nhớ một thằng bé bên cạnh nhà tôi khi nhìn thấy trong bát của mình chỉ có cháo đã vất bát cháo xuống đất, cháo bò lênh láng, còn mẹ nó vừa đánh con vừa ôm mặt khóc. Thằng bé gào lên thảm thiết: Mẹ ơi! Đừng đánh con nữa, con ăn ngay đây! Nó nín khóc, bò trên đất rồi đưa lưỡi ra liếm sạch những hạt cháo nằm trên đất, vừa liếm vừa nói: Mẹ ơi, ăn đi, liếm đi! Liếm được một tí thì có lãi một tí đấy! Mẹ nó đứng lặng rồi nghe lời nó, quỳ xuống đất học cách liếm của con. Những người có mặt lúc ấy đều khen thằng bé thông minh và ai cũng dự đoán tiền đồ của thằng bé này không hề tầm thường. Quả nhiên nhãn quan của mọi người như thần, thằng bé năm ấy lúc này là người giàu có nhất quê tôi. Nó dựa vào việc nuôi các loài côn trùng như bò cạp, như sâu đậu… và bán với giá rất cao cho các khách sạn và các chiêu đãi sở của các cấp chính quyền mà làm giàu. Nó đã nhìn ra được rằng, miệng của các ông quan lớn và những người có tiền ngày càng nhỏ, khẩu vị của các vị cũng càng ngày càng quái dị, họ từ chối cá lớn thịt to, họ như những con chim nhỏ chỉ thích thú với những loại thức ăn nhỏ bé, càng kỳ dị gớm ghiếc càng thích. Đúng đôi mắt của thằng này nhìn chỗ nào cũng thấy tiền thấy vàng, nó còn bảo nó đang chuẩn bị dạy cho quý ông quý bà có tiền có quyền một món ăn độc đáo là sâu chuông chuyên ăn trái bông!
Sau khi những chiếc bếp ăn công cộng sụp đổ, những ngày đen tối nhất đã đến. Lúc ấy, không chỉ không có cơm để ăn, ngay cả nồi để nấu cơm cũng không có nốt. Rất nhiều gia đình dùng nồi đất để nấu rau. Nhà tôi vẫn còn đỡ hơn, bởi trong thời kỳ tất cả sắt thép đều dành cho công cuộc “đại luyện kim”, tôi đã trộm được một chiếc mũ sắt của lính Nhật Bản vất lại trong một đống phế liệu với mục đích là để chơi, chơi chán rồi thì vất vào trong xó nhà. Mẹ tôi đã dùng chiếc mũ sắt này làm nồi. Nồi đất không chịu nổi lửa, do vậy mấy ngày thì vỡ ngay trên bếp làm tro bụi bay lên mù mịt và tất nhiên là lửa tắt ngấm, tình cảnh thảm hết chỗ nói. Cái “nồi” của nhà tôi được đúc bằng sắt tinh chất, không sợ bị đập vỡ, cũng không ngại gì lửa đốt, đúng là một bảo bối! Mẹ tôi dùng nó để luộc rau dại, nấu rễ cỏ, hết nồi này sang nồi khác, đổ ra trông giống với thức ăn dành cho lợn để nuôi sống anh chị em chúng tôi cho qua ngày đoạn tháng.
Đã có rất nhiều bài viết về ba năm kinh hoàng này, hầu hết đều xem nó tối đen như mực, không có chút sinh khí, không có chút lạc thú nào. Điều này không hoàn toàn chính xác, chí ít là đối với bọn nhóc chúng tôi, thời kỳ này vẫn đem lại nhiều hoan lạc. Đối với kẻ đói, tất cả những gì gọi là hoan lạc đều có liên quan đến chuyện ăn. Lúc ấy, trẻ con là những “tinh linh” kiếm thức ăn, chúng tôi chẳng khác nào Thần Nông trong truyền thuyết đã thưởng thức đủ mùi vị của các loại côn trùng và cống hiến không nhỏ vào trong phổ hệ thực phẩm của nhân loại. Những đứa trẻ lúc ấy hầu hết vác cái bụng tròn vo và chiếc đầu to một cách lạ lùng trên đôi chân khẳng khiu như que củi, tôi là một trong những đứa trẻ con ấy. Chúng tôi kết bè kết nhóm đi kiếm ăn từ đầu thôn đến cuối thôn, từ thôn trong đến thôn ngoài. Ngoài rìa làng của chúng tôi là một vùng đầm trũng không nhìn thấy bờ bên kia, nước giữa đầm sâu bao nhiêu chúng tôi không thể biết, chỉ thấy cỏ hoang ngút ngàn chung quanh. Vùng cỏ hoang này chính là kho thực phẩm, đồng thời cũng là nơi chơi đùa hoan lạc của chúng tôi. Ở đó chúng tôi có thể nhổ cỏ lên mà ăn rễ non, vừa nhổ cỏ vừa ca hát, vừa nhai vừa ca hát, bộ dạng vừa giống như bò dê vừa giống như ca sĩ. Chúng tôi là những ca sĩ bò dê của thời đại! Tôi không thể quên được những con châu chấu mập ú đến độ toàn thân láng bóng ở nơi ấy, nướng chín thì có màu đỏ sậm, rắc thêm vào một ít muối thì mùi vị không chê vào đâu được, chất dinh dưỡng lại càng không kém bất cứ một loại thực phẩm nào khác. Năm ấy châu chấu cực nhiều, có thể xem đó là nguồn thực phẩm trời ban cho chúng tôi. Tất cả mọi người trong làng - từ ông già bà cả cho đến nam phụ lão ấu - đều xách giỏ ra đây để bắt châu chấu, tôi là tay quán quân trong chuyện này, mỗi buổi sáng có thể bắt đầy cả một giỏ. Tôi có một bí quyết rất đơn giản: Trước khi bắt châu chấu cần phải hái một nắm cỏ non thơm vò nát rồi xoa thật kỹ đôi bàn tay. Con châu chấu bị bắt trong lòng bàn tay rồi nhưng chỉ cần sơ ý là nó sẽ bay vù. Tôi đoán nó có thể ngửi thấy thịt người trong tay mình, do vậy dùng cỏ thoa tay là để tiêu diệt mùi da thịt đi. Sức bật của châu chấu là rất lớn, mỗi cú nhảy của nó có thể đến năm bảy mét, nhưng khi tôi dùng cỏ xoa tay, tôi có mở lòng bàn tay ra chúng cũng không thèm nhảy nữa. Để được nhận thưởng của bà nội, tôi không truyền thụ kinh nghiệm này cho ai, ngay cả ông bà nội tôi cũng giấu nhẹm. Trong những ngày ấy, bà nội đã biết dùng vật chất để khích lệ tinh thần mọi người, tôi bắt được nhiều nên phần ăn của tôi cũng nhiều hơn tất cả mọi người trong gia đình. Châu chấu tuy là món ngon nhưng dùng nó để thay cơm là hoàn toàn không thể. Cho đến bây giờ nghĩ đến chuyện ăn châu chấu tôi vẫn cảm thấy cái ớn trào lên trên cổ họng.
Ăn hết mùa châu chấu thì mùa hè cũng đã đến. Mùa hè là mùa mà cái ăn có nhiều nhất, là những ngày vinh quang nhất của chúng tôi trong một năm. Những năm sáu mươi mưa rất nhiều, hoa màu phần lớn đều ngập úng mà chết, trong đầm nước mênh mông, các loài cá như rơi từ trên trời xuống, rất nhiều chủng loại, có loại mà ngay cả những ông bà già gần trăm tuổi vẫn chưa hề nhìn thấy lần nào. Tôi đã từng bắt được một con cá có hình dáng rất kỳ quái. Toàn thân nó ánh lên một màu xanh lục, đuôi đỏ rực, đẹp vô cùng. Nếu con cá này còn tồn tại đến bây giờ để cho vào trong bể nuôi mà ngắm, nhất định nó lại là loài cá cảnh thượng phẩm, nhưng khi nấu để cho vào miệng thì nó lại tanh kinh khủng, nuốt không xuống. Cá trong đầm tuy nhiều nhưng lượng người đói lại nhiều hơn, vả lại ngày ấy không có những công cụ bắt cá hiện đại như bây giờ nên để bắt được vài con cá trên mặt đầm mênh mông không hề là chuyện dễ dàng. Bắt không được cá nhưng không vì thế mà chúng tôi chết đói.
Mùa thu là thời kỳ thu hoạch khá nhiều cá tôm, ngoài ra còn có cua. Gió thu se sắt, lá đậu đã vàng, những đôi chân cua đã bắt đầu thấy ngứa ngáy, cua kết thành từng đàn men theo bờ sông mà đi. Ông nội tôi bảo rằng, cua muốn đi ra biển để đẻ trứng, tôi thì lại nghĩ rằng chúng đang rủ rê nhau để mở một cuộc liên hoan nào đó. Tuy có hình dáng hết sức thô thiển nhưng khi bơi lội trong nước, tốc độ của cua không hề chậm tí nào, nhanh như điện xẹt, như ánh chớp, khó lòng nhận ra hướng vận động của chúng, muốn bắt được cua không phải là chuyện dễ dàng. Thời gian bắt cua tốt nhất là vào ban đêm, khoác áo tơi, đội nón lá, một tay cầm đuốc hoặc đèn bão, bước thật êm, cấm nói năng. Tôi đã từng theo chú Sáu đi bắt cua một lần, đúng là không khí rất thân mật, thú vị lắm. Buổi chiều, chú Sáu lần dò quan sát địa hình rồi dùng thân cây cao lương kết lại thành một chiếc rọ nhỏ, chừa lại một lỗ hổng rồi gắn vào đó một chiếc hom. Không khí đặc quánh trong những làn mưa thu nhỏ, toàn thân cuốn chặt trong chiếc áo tơi, tai lắng nghe những âm thanh rào rào, trong ánh sáng vàng vọt nhìn những con cua men theo thành rọ và chui vào trong… Những điều tận mắt chứng kiến thật khó có thể quên được. Cua rất ngon nhưng không nỡ ăn. Dùng dây mềm buộc chúng lại thành xâu khiến chúng phun bọt trắng ra ngoài, mang ra chợ, cứ ba xu một con bán cho những cán bộ lãnh đạo công xã, được ít tiền mua một ít gạo cao lương, bánh hạt bông rồi nghiền thành bột, thêm vào một vài loài rau dại, với nông dân chúng tôi, thế đã là hạnh phúc nhất trần đời. Chúng tôi chịu khổ đã thành nếp, quyết không để cho cái miệng lúc nào cũng thèm ăn của mình đụng đến những thứ thức ăn xa xỉ, cần phải có ý thức xác lập những giới hạn cho cái miệng của mình để hạn chế những đau khổ trong ngày mai!
Mùa thu, hạt cỏ đã chín. Loại hạt cỏ ngon nhất là hạt bo bo nước. Chà thật mạnh, vỏ của chúng sẽ bong ra, xay nhỏ và làm bánh hấp lên, nhai trong miệng nghe tí tách cũng rất thú vị.
Côn trùng mùa thu ăn cũng rất ngon, ngoài những con châu chấu thường mùa nào cũng có, còn có dế. Dế đến thâm thu thì đen bóng đến độ phát ra màu đỏ, trong bụng toàn trứng, rang giòn lên có mùi vị rất đặc biệt. Bắt dế khó hơn bắt châu chấu nhiều, loại này không những chạy nhanh mà còn biết chui vào hang. Ngoài ra còn có một loài côn trùng khác, đến bây giờ tôi mới biết tên nó là bọ rùa vàng, vốn là ấu trùng của loài bọ dừa, to bằng hạt hạnh, toàn thân màu đen, láng bóng, ban đêm thường nhắm vào những ngọn đèn mà lao vào nên người quê tôi gọi là “bọ đui”. Loài côn trùng này thường kết thành đàn bám trên cành cây hoặc cọng cỏ thành từng chùm trông chẳng khác một chùm nho. Lợi dụng bóng đêm, chúng tôi cứ nhắm những cành cây cọng cỏ mà vuốt, mỗi đêm có khi được cả túi. “Bọ đui” được rang chín bốc lên mùi vị khác hẳn với châu chấu và dế. Còn phải kể đến loài sâu đậu, sau tết Trung thu thì nhả hết chất bẩn trong bụng. Sau khi nhả chất bẩn, bụng sâu đậu chỉ còn toàn mỡ màu trắng, là một chất protein cao cấp!
Mùa đông là thời kỳ ảm đạm nhất của chúng tôi. Ba mùa xuân hạ thu, chúng tôi có thể bằng cách này cách khác kiếm vỏ cây rễ củ và côn trùng cho vào miệng; mùa đông cây cỏ điêu linh, băng dày cả thước, cho dù dưới mặt đất có côn trùng nhưng làm sao phá vỡ nổi băng dày, cá dưới đầm dưới sông cũng không thể nổi trên mặt băng. Nhưng trí tuệ của con người là vô cùng vô hạn, đặc biệt là trong lĩnh vực tìm cái ăn. Mọi người nhanh chóng phát hiện, những vùng đất đã từng bị ngập nước trong đầm lúc này đã có một lớp rêu xanh dày xuất hiện, cong veo và bóc lên từng mảng như bánh khô, ngâm trong nước một thời gian ngắn, rồi lại bỏ vào trong nồi hong cho khô sẽ giòn như cơm cháy. Ăn hết rêu trên đầm thì quay sang bóc vỏ cây. Vỏ cây bóc về dùng chày đập cho giập nát ra, bỏ vào nồi ngâm rồi dùng đũa thật to khuấy thật lâu cho đến khi đông kết lại như hồ, nấu lên là có thể ăn. Những công đoạn đầu tiên cho việc ăn rễ cây giống như những công đoạn của việc làm giấy. Từ góc độ ăn mà nói, vỏ cây du được xem là thượng phẩm, kế đến là vỏ cây liễu, vỏ cây hòe… Rất nhanh, tất cả những cây có thể ăn được ở thôn trong thôn ngoài nhanh chóng bị lột sạch vỏ, trần truồng run rẩy trong những cơn gió rét mùa đông trông thật thê thảm. Trong lúc nguy ngập ấy, không biết Chính phủ điều từ đâu về một số lương thực cứu đói. Gọi là lương thực cứu đói nhưng tìm mãi vẫn không thấy hạt gạo sợi miến nào, chỉ thấy toàn một vật trông như lá củ cải ép lại thành từng kiện. Loại này ngày nay đem cho lợn, lợn cũng chẳng màng liếc mắt nhưng với chúng tôi ngày ấy, nó quý giá vô ngần. Khi nhận phân phối, mắt ai cũng đỏ kè trừng trừng nhìn vào chiếc cân, cán cân nhích lên một tí, hạ xuống một tí là không chịu được, so bì huyên náo. Khổ nỗi, vật này cũng không thể có mãi, chỉ đến khi mọi người đói đến độ không chịu thở nữa mới đem ra cứu tế, do đó mà biết, Nhà nước cũng khó khăn lắm, chẳng sung túc gì. Khi tiếng chiêng báo hiệu phát lương thực cứu tế vang lên, ngay cả những người đã chui vào quan tài cũng nhảy dựng dậy, đương nhiên nói như thế là hơi cường điệu, vì ngày ấy người chết quá nhiều, lấy đâu ra quan tài. Người chết à, ban ngày lôi ra ngoài đồng đào đất vùi qua loa, tối bị chó lôi lên ăn, mặc kệ. Những năm ấy là thời kỳ hoàng kim tột đỉnh của loài chó, ăn thịt người chết đã thành quen, trông thấy người còn đang sống chúng cũng nhào đến. Có thể có ai đó sẽ nói: Tại sao các vị không giết chó mà ăn? Thịt chó có rất nhiều dinh dưỡng, lại ngon vô cùng? Anh hỏi rất hay. Suy nghĩ của anh đã từng được chúng tôi nghĩ đến từ rất sớm, nhưng chân giò của tất cả chúng tôi đều đã bị phù thũng, sưng to lên như chân voi và mọng nước, đi hai bước đã thở phì phò, do vậy mà nói chúng tôi không phải là đối thủ của chó. Cho nên bảo chúng tôi giết chó, chi bằng bảo chúng tôi đến trước mắt chúng để tăng thêm khẩu phần cho chúng. Nếu có một khẩu súng, có lẽ sẽ có người còn chút sức cuối sùng để vác súng lên vai, còn chút sức để ngoéo cò. Nhưng trong tình hình ấy, trong tay bách tính chúng tôi mà có khẩu súng, chuyện gì mà chúng tôi chẳng dám làm, bắn chó làm quái gì? Bí thư công xã và công an viên công xã trong tay có súng, nhưng bụng họ đâu có đói, bắn chó để làm gì. Họ chê chó mà ăn thịt người chết là bẩn, xách súng đi bắn thỏ hoang, bắn nhạn, bắn vịt trời… còn thú vị hơn nhiều.
Có lẽ đó là một ngày tết âm lịch năm 1961, chính quyền phân phối cho mỗi gia đình nửa cân bánh đậu để ăn tết. Không khí ở nơi nhận quà phân phối hoan hỉ đến tột cùng. Có người dùng áo để gói bánh, vừa chạy về nhà vừa đưa bánh lên miệng cắn cắn nhai nhai. Hàng xóm của tôi - ông Tôn người chưa về đến nhà mà nửa cân bánh đậu đã hết veo, vừa bước chân vào nhà thì đã bị vợ và con cái vây lấy, vừa khóc vừa chửi. Khóc thì cứ khóc, chửi thì cứ chửi nhưng bánh thì đã hết, chỉ còn nước mổ bụng ông Tôn ra mà lấy thôi, cho thấy tình yêu thương trong lúc nhân quần đang đói phải chiết khấu đi phần lớn. Ông Tôn nằm trên đất, sắc mặt xám như tro tàn, nước mắt lưng tròng, một tiếng kêu cũng không hề có, chịu đựng những cú đá cú đánh của vợ con, ngay trong đêm ấy không từ biệt mà chết. Ông ta ăn bánh đậu quá nhiều nên khát nước, uống hết một thùng nước, bánh đậu nở ra, bụng trương phềnh lên mà chết. Thời ấy, dạ dày của chúng tôi mỏng như tờ giấy, chỉ cần nong to lên một tí là bục ngay. Ông Tôn chết nhưng vợ con ông ta chẳng sa một giọt nước mắt. Rất nhiều năm sau nhắc lại chuyện này, bà Tôn vẫn nghiến răng ken két, chửi lão già chết tiệt chỉ biết hưởng phúc một mình, không thèm để ý đến nhân tình, chết không đáng tiếc! Lần phát bánh đậu này đã hại chết mười bảy người trong thôn, những bài học về chuyện này là vô cùng sâu sắc cho những người còn sống như chúng tôi. Về sau, tôi làm việc trong trại chăn nuôi của đại đội sản xuất chuyên cho trâu ăn, khi ăn lén những bánh đậu dành cho trâu tôi luôn luôn tự chế ngự cái tính thèm ăn của mình vì cái gương của ông Tôn và mười mấy người nữa vẫn còn nhãn tiền.
Trong những năm ấy, mẹ tôi thường kể cho anh em tôi nghe về một giấc mơ của bà. Mẹ kể rằng trong mơ khi đứng trước phần mộ của ông ngoại, mẹ đã trông thấy ông ngoại. Ông ngoại bảo, ông chưa chết, ông chỉ đang tạm trú trong phần mộ mà thôi. Mẹ hỏi ông ngoại ăn gì, ông bảo: Ăn áo bông, sợi bông trong áo bông. Nuốt vào rồi lại lôi ra thành từng xâu, rửa sạch rồi lại ăn tiếp, lại lôi ra, rửa sạch… Kể xong, mẹ có vẻ nghi ngờ hỏi chúng tôi: Có lẽ nào bông lại có thể ăn được?
Vượt qua những năm đầu tiên của thập niên sáu mươi, những năm tiếp theo vẫn cứ khổ, nhưng so ra đã đỡ hơn rất nhiều. Trong những tháng năm của Cách mạng văn hóa, trong thôn thường tổ chức những cuộc vận động “nhớ về những ngày khổ ải để cảm thụ những ngày sung sướng”, mỗi khi nhớ về những ngày khổ ải, không ai bảo ai mà mọi người đều nhớ về năm 1960. Chỉ cần nhắc đến năm ấy, cán bộ lãnh đạo đã nhảy dựng lên trên ghế hô khẩu hiệu, một là đả đảo Liên Xô, hai là đả đảo Lưu Đặng. Cán bộ lãnh đạo nói, năm sáu mươi chúng ta khổ là do Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình cấu kết với Liên Xô để siết cổ nhân dân Trung Quốc. Chúng tôi vẫn biết thừa đó là nói láo, nhưng có ai dám bày tỏ lòng không tin tưởng?
Đến những năm giữa của thập niên bảy mươi, chúng tôi vẫn chưa thể được ăn no, nhưng nếu so với năm 1960 thì đã tốt gấp bội. Từ nhỏ, sức ăn của tôi đã làm nhiều người kinh ngạc, miệng tôi là một cửa động không đáy, do vậy tôi đã trở thành một món nợ lớn của gia đình. Không những tôi ăn nhiều mà còn rất tham ăn, mỗi bữa ăn sau khi vội vàng ngốn xong phần mình, tôi nhìn phần còn lại trong bát của người khác mà gào khóc. Mẹ thường san phần trong bát mình cho tôi, tôi ăn xong vẫn cứ khóc, vừa khóc vừa ngang nhiên cướp phần ăn của cô em gái con ông chú. Những ngày ấy, chúng tôi là một đại gia đình, chưa hề phân ra ở riêng, tính hết lớn nhỏ trong nhà phải đến hơn ba mươi miệng ăn. Trong một đại gia đình như thế, mẹ tôi là con dâu trưởng, chỉ biết cúi đầu nhận trách nhiệm cai quản gia đình, cuộc sống đã khốn khó lại thêm tôi quá vô lại khiến cuộc sống của mẹ chẳng có lấy một ngày vui. Cướp thức ăn của em gái mà ăn, đúng là quá đỗi lưu manh, mặt thím tôi trông thật khó coi, mỗi câu nói của thím như một bát thuốc độc hắt vào mặt mẹ tôi. Mẹ tôi chỉ biết chửi con mình và xin lỗi thím. Đây là hành vi tồi tệ nhất trong cuộc đời tôi cho đến lúc này, tôi không bao giờ tha thứ cho mình. Sau khi lớn lên, tôi có nhắc lại chuyện này với cô em gái, nó cười rất bình thản và nói là đã quên từ lâu rồi.
Mẹ thường phê bình tôi rằng, tôi là thằng không có chí khí, tôi cũng đã từng nhiều lần hạ quyết tâm là mình phải trở thành một con người có chí khí, nhưng chỉ cần trông thấy cái ăn thì mọi chí khí đều hóa thành bong bóng xà phòng. Không kể đạo lý, không có lương tâm, không biết sỉ nhục, đúng là một con chó không hơn không kém. Trên đường có ai bán thịt chó là tôi vươn tay chụp lấy, suýt tí nữa là đã bị con dao của người đứng bán thịt tiện ngọt một cánh tay. Cán bộ thôn đang chặt thịt một con chồn hương, tôi thò tay bốc một nắm, bị cán bộ cho một đá chúi mũi vào đống thịt, mỡ huyết dính bết trên đầu trên tóc. Trong những năm ấy, cái miệng của tôi đã làm cho con người tôi trở nên đáng ghét với tất cả mọi người, dưới mắt họ tôi không bằng một đống cứt chó! Khi no bụng, tôi vẫn nhủ lòng cần phải thay đổi chính mình, nhưng chỉ cần nhìn thấy món gì ngon, lập tức tôi đã quay về với nguyên dạng của mình. Khi lớn lên, tôi trông thấy trên truyền hình hình ảnh xấu xí đến độ đáng ghét của những con cá sấu vừa ăn vừa chảy nước mắt, tôi liên tưởng ngay đến mình. Tôi có khác nào cá sấu, cũng vừa rơi lệ vừa ngốn thức ăn. Trong nhà đã như vậy, ra đường cũng chẳng khác. Tôi lén nhổ củ cải nhà người, bị bắt, đứng trước mấy trăm người, hướng mặt về ảnh Mao Chủ tịch nhận tội. Tôi còn lẻn đến những khoảnh đất tỉa đậu lạc của đại đội, dùng tay bới đất lên tìm những hạt đậu vừa mới gieo xuống để ăn, trúng phải đậu đã tẩm qua thuốc độc chống sâu bọ và kiến, suýt nữa vong mạng. Còn chuyện trộm dưa hái bí là bình thường, có lúc cũng bị bắt, có lúc người ta phát hiện ra nhưng không bắt được tôi. Bị bắt tất nhiên là nhận đòn, không bị bắt là thắng lợi. Có một lần tôi vặt trộm dưa nhà hàng xóm, bị người ta phát hiện, chủ dưa đốt một quả pháo, tiếng nổ kinh thiên động địa vặt sạch một vạt ngô, tôi sợ đến độ bò lăn trên đất, cứt đái tuồn ra ngoài. Muốn chạy nhưng chân nhấc không lên, bị người ta tóm gọn trói lại và điệu đến trường học, trở thành một tin thời sự nóng hổi cho cả làng. Những chuyện xấu có liên quan đến ăn của tôi có đẵn hết trúc trong rừng cũng không ghi hết được. Mấy năm nay rời xa quê hương, thi thoảng vẫn có thể vênh váo với người đời, nhưng mỗi lần bước chân về đến đầu làng, ngay lập tức tôi biến thành một con chó bị đánh đau, kẹp đuôi khép chân vì sợ mình vểnh đuôi lên sẽ nhận lấy những cái nhìn phản cảm của bà con và chắc chắn họ sẽ lôi hết những chuyện xấu thời trẻ con ra mà nhìn nhận tôi khi tôi đã làm người lớn.
Có người hùng hồn tuyên bố rằng tôi chẳng có cảm tình gì với quân đội, chuyện này tôi không thể chấp nhận được. Những tình cảm đeo trên miệng thường chỉ là thứ tình cảm giả, tàng trong tim mới là thứ tình cảm thật. Sau ngày nhập ngũ, cái bụng của tôi mới thực sự có những bữa no, con người tôi cũng có vẻ tôn nghiêm lên một tí trước mắt mọi người. Chỉ riêng hai điểm này thôi, tôi đã không thể không có cảm tình với quân đội. Trước ngày lên đường nhập ngũ, một vài anh bộ đội phục viên trong làng đã dạy cho tôi những kinh nghiệm quý báu mà họ tích lũy được trong quá trình tại ngũ. Họ bảo: Nếu là ăn miến thì bát đầu tiên chỉ nên múc nửa bát, miến nguội nhanh do vậy mà ăn cũng nhanh. Ăn xong nửa bát ấy thì múc lấy một bát thật đầy, đầy có ngọn càng tốt, từ từ mà ăn. Nếu bát thứ nhất mà anh múc quá đầy, ăn xong và muốn múc bát khác, anh chỉ có thể múc được những thìa nước trong vắt dưới đáy nồi. Nếu ăn cơm thì chớ có nhai, lính phương Bắc mà nhai cơm sẽ bị lính phương Nam cười vào mũi. Khi vào quân ngũ, tôi mới biết những lời của các anh bộ đội phục viên l?