← Quay lại trang sách

Mười hai bài tạp cảm 1. Tiêu sái như một dịch cúm

Theo “Từ hải”, “tiêu sái” được hiểu là “cởi mở, khoáng đạt, hào hoa, không gò bó gì”. Nhưng trong thực tế cuộc sống, chúng ta hiểu “tiêu sái” nếu so với cách giải thích của “Từ hải” rộng hơn rất nhiều. Sau khi bài hát chủ đề “Sao không tiêu sái ra đi” trong bộ phim truyền hình nhiều tập của Đài Loan “Bốn công tử kinh thành” được truyền tụng khắp Giang Nam, Giang Bắc thì “tiêu sái” trở thành từ ngữ treo ở cửa miệng mọi người, đặc biệt là với những người phát được một ít tài lộc, hoặc leo lên được một chức quan nho nhỏ, hoặc chộp đâu đó được một em thơm tho thì càng hô hào hào hoa khoáng đạt; ăn cũng khoáng đạt, hát cũng hào hoa, say cũng hào hoa khoáng đạt, tỉnh cũng hào hoa khoáng đạt. Trong một thời gian dài, người ta hào hoa khoáng đạt đến độ nghiêm trọng, chẳng khác nào một trận dịch cảm cúm. Nhưng rồi bất kỳ trào lưu nào cũng phải đến kỳ lụi tàn, mấy năm trở lại đây, người ta đã dần dần quên hào hoa khoáng đạt, ai ai cũng cố tạo gương mặt nghiêm trang đến độ trầm trọng. Điều đó cho thấy, những cái gì mà người ta gọi là hào hoa khoáng đạt vốn không phải là một thứ hào hoa khoáng đạt một cách đích thực.

Tôi nghĩ, hào hoa khoáng đạt kỳ thực cũng chỉ là một trạng thái tâm lý, một thái độ ứng xử trong cuộc sống, một phương thức giảm thiểu áp lực, ở một ý nghĩa nào đó có thể nói là một kiểu tinh thần AQ, có thể có một sự hào hoa khoáng đạt thật, nhưng không phải là nhiều. Thông qua bồi dưỡng hoặc bắt chước, dùng một phương thức nào đó để điều tiết cuộc sống tinh thần và vật chất của chính mình cũng có thể được xem là hào hoa khoáng đạt, cho dù nó không hề xuất phát từ bản thân ta nhưng vẫn có lợi cho cá nhân và xã hội. Từ đó mà suy, cho dù là ngụy trang nhưng kiểu hào hoa khoáng đạt ấy vẫn có chỗ hay, rất đáng phát huy. Đương nhiên cũng có rất nhiều điều đáng bàn nhưng kiểu hào hoa khoáng đạt ngụy trang này cũng có giá trị văn hóa nhất định, cũng là một cảnh giới tinh thần cần thiết. Không phải nhất thiết phải có tiền mới hòa hoa khoáng đạt hoặc chỉ cần có tiền là đã có sự hào hoa khoáng đạt, một số người không có đồng xu dính túi vẫn cứ là bậc thầy của sự hào hoa.

Được sự chỉ dẫn của một người bạn, tôi đã từng tiếp kiến một vị được mệnh danh là “người tiêu sái nhất kinh thành”. Nghiệp tích “tiêu sái” huy hoàng nhất của vị này là thi đấu đập vỡ những chai rượu ngoại đắt tiền với một người ngoại quốc trong nhà hàng ăn uống sang trọng - tất nhiên là loại rượu phải tính bằng hàng nghìn nhân dân tệ mỗi chai - từ tầng một lên đến tầng ba, cứ bước một bước thì đập một chai - đúng là “nhất bộ thiên kim”! Nghe đâu là tay người ngoại quốc kia lên đến tầng hai thì giơ tay đầu hàng. Đây có thể được xem là thắng lợi của cả một dân tộc, nhưng sau khi tiếp kiến với con người nổi danh “chơi đẹp” này, tôi chỉ thấy một cảm giác nhàm chán đến vô vị. Tục tằn, thô lỗ; ngay cả một chút “tiêu sái” ngụy trang cũng không hề có, cuối cùng cũng chỉ là một dạng tiểu nhân đắc chí! Nhưng những kẻ hầu hạ bên cạnh hắn ta thì cứ bô bô: Mạc tiên sinh à, hãy viết một bài thật hay về ông chủ chúng tôi đi. Ông ấy là người hào hoa, là người “tiêu sái” nhất thiên hạ đấy!

Có loại người “tiêu sái” chân chính không? Bây giờ thì không có nhiều đâu; thời cổ có nhiều nhưng hầu như là một sự “tiêu sái” triệt để. Thử đơn cử một vài minh chứng. Thời Tam Quốc, Đại đô đốc Đông Ngô là Chu Du vốn được xem là rất “tiêu sái”. Anh xem, lúc ông ta thiết kế để lừa Tưởng Cán trong Quần anh hội, đúng là cười cười nói nói như không, khoáng đạt tự nhiên, tửu hứng dâng trào cuồng ca vi vút, tuyệt đối “tiêu sái”. Sự tiêu sái của Chu Du rất phù hợp với phong độ của ông ta: Nghi dung đường đường, văn võ kiêm toàn, tinh thông âm luật. “Khúc hữu ngộ, Chu Lang cố - Khúc nhạc lệch âm, Chu Du ngoái đầu” vốn để ca tụng những con người tinh thông âm nhạc xưa nay. Chu Du vốn là loại hình “tiêu sái” kinh điển. Nhưng ông ta chỉ vì một Kinh Châu mà bao lần thổ huyết, xem ra đó không phải là con người tiêu sái chân chính. Chu có một người bạn vô cùng trung hậu là Lỗ Túc, đúng là một kẻ khảng khái đại độ. Chu Du mượn lương thực của Lỗ Túc, trong nhà chỉ còn hai cót, nhưng ông chẳng hề do dự chỉ vào một cót nói: Cót này thuộc về ông! Sự “tiêu sái” của Lỗ Túc về bản chất mà nói đó là kiểu “đại trí nhược ngu” của bậc trí giả, một kiểu “tiêu sái ngốc nghếch”, người bình thường khó lòng bắt chước được. Nhưng Lỗ Túc cũng bao phen đi đòi lại Kinh Châu trông rất đáng thương vì bị Gia Cát Lượng bày trò khỉ, xem ra Lỗ Túc cũng không phải là kẻ “tiêu sái” triệt để. Gia Cát Lượng đầu đội luân cân, tay phe phẩy quạt lông cùng với tiếng đàn du dương thánh thót, trông ra rất khoáng đạt, nhưng sự “tiêu sái” của bậc đại trí này xem ra chỉ là hình thức, biểu diễn là chính và có tính chất yêu ma quỷ quái. Cho nên Gia Cát Lượng không hề là con người cởi mở khoáng đạt. Lúc ẩn dật thì ngày ngày nghiên cứu thế lớn trong thiên hạ để chuẩn bị cho ngày rời khỏi Ngọa Long Cương, bắt Lưu Huyền Đức “tam cố thảo lư”, theo tôi chỉ là một trò ma mãnh. Sau khi theo Lưu thì cúc cung tận tụy, trung thành, chuyện lớn chuyện nhỏ đều phải qua tay, người khác làm thì Gia Cát không yên tâm, cuối cùng thì gục chết. Kiểu “tiêu sái” như thế là không đáng, cũng không nhất thiết phải như thế.

Ngay cả những con người trứ danh như Chu Du, Lỗ Túc, Gia Cát Lượng mà vẫn không “tiêu sái” triệt để, thế thì còn có ai xứng đáng được nhận danh hiệu này? Chuyện này hạ hồi phân giải.

2. Kẻ ăn xin tiêu sái rước thần cùng khổ

Thế thì như thế nào mới đáng được gọi là “tiêu sái” một cách chân chính? Lần trước vẫn chưa nói được rõ ràng, bây giờ tiếp tục bàn thêm. Đại khái mà nói, “tiêu sái” chân chính là phải có cái nhìn bao quát thế thái nhân tình; phải biết là trái đất rất nhỏ mà vũ trụ thì bao la; cần nhận ra đời người là tạm bợ và ngắn ngủi chẳng khác nào giọt sương buổi sớm đậu trên ngọn cỏ; mắt phải nhìn, tai phải nghe, phải tự thân kinh lịch qua tất thảy… Nhưng phải nhớ rằng, tất cả đều là tạm bợ và ngắn ngủi hơn cả làn khói vút qua trước mắt. Đương nhiên, nếu đạt được cảnh giới ấy lại là một điều rất đáng sợ. Nếu là như vậy, lịch sử sẽ không hề phát triển, xã hội sẽ không thể tiến bộ, cuộc sống không có mục tiêu, con người kéo nhau xuất gia làm hòa thượng, ni cô… tất thảy. Nhưng làm hòa thượng ni cô cũng chưa hoàn toàn triệt để, bởi loại người này cũng cần phải có cái ăn. Nếu tất cả mọi người đều biến thành hòa thượng và ni cô, thế thì đành phải để cho họ kết hôn với nhau vậy, nếu không thì nhân chủng sẽ bị tuyệt diệt, thế thì còn gì để mà bàn về “tiêu sái” nữa! Do vậy, cho dù tôi đang nói về “chân tiêu sái” cũng chỉ là nói một cách tương đối, vừa phải mà thôi.

Muốn trở thành “tiêu sái tương đối” cũng không phải là chuyện dễ, nhưng cũng chẳng “khó hơn đường lên trời”. Dưới những tấm gương kiểu mẫu, chúng ta có thể tiến thêm một bước về phía trạng thái “tiêu sái”.

Tôi muốn đề cập đến hai tấm gương kiểu mẫu về “tiêu sái”, một là đại thi nhân đời Đường - Lý Bạch, một là đại văn nhân đời Tấn - Nguyễn Tịch. Những giai thoại về Lý Bạch thì ai cũng có thể kể được vài chuyện, cũng giống như ai cũng có thể đọc ra mấy câu thơ của ông vậy. Ban đầu, Lý Bạch chẳng có chút “tiêu sái” nào hết. Thời thanh niên, Lý Bạch ham mê con đường sĩ hoạn, nói hơi khó nghe một chút là rất thích làm quan. Mà con người một khi đã ham mê quan chức thì nhất định là không thể “tiêu sái” được nữa. Người muốn làm quan tất nhiên không cần mặt mũi, tất nhiên là phải vất đi lòng tự tôn và nhân cách, cũng giống như Lý Bạch nói: “Cớ gì phải cau mày khom lưng phụng sự bọn quyền quý, Khiến ta không thể nở được mặt mày tươi tỉnh”. Ông muốn nở mặt mày tươi tỉnh thì đừng có nghĩ đến chuyện làm quan, chuyện này như một lẽ tất nhiên, chẳng cần phải bàn luận gì thêm. Lý Bạch đã từng “cau mày khom lưng phụng sự quyền quý”, viết những câu thơ hạng bét đầy nhục thể kiểu như “Mây ngỡ là xiêm y, hoa ngỡ là dung nhan”, vỗ đùi vỗ đít Quý phi của Hoàng đế hòng kiếm được một chức quan. Tiếc thay, Hoàng đế không màng những lời tâng bốc của ông mà chỉ phong cho một chức Hàn lâm cung phụng không quyền không lực, chẳng khác nào một kẻ lộng thần kiểu Đông Phương Sóc! Việc này đã đi quá xa với những gì mà tiên sinh họ Lý ôm ấp trong lòng, khiến Lý “không thể nở được mặt mày tươi”, do vậy mà tâm phiền ý loạn để ngập ngụa trong rượu ở tất cả các tửu quán Trường An. Ban đầu chỉ là mượn rượu giải sầu, thứ nữa là giả điên giả ngốc, nhưng dần dần sa đà vào trong rượu và biến thành “tửu quỷ” không hề chiết khấu! Ban đầu thì bán chân bán giả nhưng sau đó thì biến giả thành chân, thành con sâu rượu, ngày nào không có rượu thì ngày ấy thê lương, thời gian say nhiều hơn thời gian tỉnh, từ đó mà nhập thần vào trạng thái “tiêu sái”, những bài thơ vĩ đại và bất hủ từ đó nên vần. Đương nhiên Lý Bạch cũng không say đến nỗi quên cả thế sự, quên cả đất trời. Đỗ Phủ có vẻ khoa trương khi tán tụng Lý Bạch: “Vua gọi đến thuyền không chịu tới, Tự xưng: Thần là tiên rượu đấy!”, kỳ thực là Lý Bạch không dám cuồng ngạo đến độ như thế. Nếu là thiên tử gọi thật, Lý Bạch không dám không xuống thuyền, trừ phi ông say đến độ đánh mất ý thức. Người đời nay chưa được ăn nho mà đã bảo nho chua, chỉ cần một tí thăng hoa là bảo mình đã cực kỳ khoáng đạt; quả là Lý Bạch cao vời hơn loại người này rất nhiều lần, bởi ông là một thiên tài.

Chuyện uống rượu giả điên giả dại thì Nguyễn Tịch còn xứng đáng là bậc thầy của Lý Bạch. Thời Ngụy Tấn, nền chính trị còn hắc ám hơn thời Thịnh Đường, do vậy mà trình độ cay độc trong những lời nói của Nguyễn Tịch lúc say hoặc giả say cay độc hơn Lý Bạch nhiều. Lỗ Tấn tiên sinh trong danh tác “Quan hệ giữa phong độ Ngụy Tấn với văn chương, rượu và thuốc độc” đã miêu tả một cách vô cùng tinh tế hành vi của Nguyễn Tịch, chẳng hạn một lần say là ba tháng không tỉnh, chẳng hạn mẫu thân chết mà mặt không hề biến sắc, cứ thế mà ăn thịt uống rượu nhưng đến khi những người phúng viếng về hết thì khóc lớn mấy tiếng, máu ộc ra cả đấu. Đương nhiên nói ba tháng không tỉnh nhưng kỳ thực là rất tỉnh, nói mặt không biến sắc nhưng trong lòng kỳ thực là rất đau, cho nên những cử chỉ “tiêu sái” ở đây chẳng qua là được ngụy trang cả thôi, nếu không như vậy đầu của tiên sinh sẽ bị tiện ngọt bất cứ lúc nào. Trong tình hình ấy, bảo vệ sinh mệnh trở thành yêu cầu cao nhất, do vậy mà Nguyễn Tịch tiên sinh không thèm theo đuổi hư vinh, cũng chẳng lao theo danh lợi. Từ góc độ này mà xét, “tiêu sái” cũng là do tình huống bức bách mà ra cả thôi.

Tôi nhớ lúc còn nhỏ đã từng nghe chuyện đêm giao thừa rước thần cùng khổ vào nhà. Đúng thời điểm ấy, tất cả mọi người đều mở cửa rước thần tài, nhưng lại có một người tên là Hoa Tử lại đón thần cùng khổ về nhà ăn tết. Anh ta nghĩ, mình đã nghèo đến độ đi ăn xin lang thang trên khắp ngả đường, “nghèo đến độ không có ăn thì không còn gì để gọi là nghèo nữa”, mọi người lo đón tiếp thần tài, để thần cùng khổ cô đơn tội nghiệp, thôi thì mình mời ông ta về ăn tết vậy. Nghĩ thế, bèn công khai đón tiếp thần cùng khổ về khiến người ta phải trợn mắt lên mà nhìn. Cũng chính từ đó, Hoa Tử đã bước vào cảnh giới “tiêu sái”. Cho nên, cũng có thể nói, mỗi một con người khi gặp phải một tình huống tận cùng nào đó trong cuộc đời thì cũng giống như có quá nhiều rận trong người thì không còn cảm thấy ngứa ngáy nữa, từ đó anh ta chỉ còn cách cảnh giới “tiêu sái” nửa bước chân.

3. Hai chân đạp hết hoa thành phố

Trong bài đầu tiên, tôi đã nêu tôn chỉ là: “Tiêu sái” là một trạng thái tinh thần, là một kiểu giác ngộ đối với nhân sinh và tự nhiên. Bài thứ hai tôi muốn nói rõ điều này: Có những kiểu “tiêu sái” là do bị bức bách mà ra, lúc này “tiêu sái” là chuyện không thể khác hơn được. Chúng ta có thể nêu lên rất nhiều minh chứng cổ kim về chuyện này. Nhưng liệu có một loại “tiêu sái bẩm sinh” không? Có!

Những năm đầu Dân Quốc, ngay ở làng tôi đã xuất hiện một nhân vật đúng loại “tiêu sái bẩm sinh” này. Ông ta lại là người bà con xa với tôi, xuất thân trong một gia đình nông dân thuần túy, không biết lấy một chữ đại tự, nhưng ông ta lại có một tâm thế yên tĩnh và một trí tuệ siêu việt - không bẩm sinh. Ông nội tôi rất thân thiết với con người này cho nên những gì mà tôi biết về ông ta cũng như những câu chuyện có liên quan đến sự “tiêu sái” của ông ta, tôi đều nghe từ miệng ông nội tôi kể lại. Ông nội nói: Vương Đại Hóa không phải là người. Không phải là người thì là cái gì? Là thần! Ông nội kể, có một lần Vương Đại Hóa đi chợ, mua một chiếc chậu rất to vác trên lưng. Đi đến chiếc cầu cách nhà không xa, có một thằng nhỏ tinh nghịch không biết vô tình hay cố ý đụng đầu vào chiếc chậu. Một tiếng cộp khô giòn, chiếc chậu rơi xuống cầu đá và vỡ thành trăm mảnh. Mọi người cảm thấy bất bình thay cho Vương Đại Hóa, đồng loạt kêu lớn đòi bắt thằng nhỏ lại đánh cho một trận khiến nó sợ hãi, mặt xanh như tàu lá. Nhưng riêng Vương Đại Hóa thì vẫn cứ đi như chẳng có gì xảy ra, ngay cả không thèm ngoái đầu nhìn lại, hình như chẳng có chuyện gì đang xảy ra sau lưng. Có người gọi: Vương Đại Hóa! Chiếc chậu của ông vỡ rồi! Ông ta vẫn không ngoái đầu. Ông nội nói, sau khi chuyện ấy xảy ra, có người hỏi Vương Đại Hóa rằng ông ta có biết chiếc chậu sau lưng đã rơi xuống và vỡ tan tành không, ông ta trả lời là có biết. Người ấy có vẻ lạ lùng hỏi: Biết mà sao không quay đầu nhìn? Vương Đại Hóa nói: Biết là vỡ rồi thì nhìn để làm gì?

Còn có một nhân vật “tiêu sái” khác nữa, cũng là người thời Dân Quốc sơ kỳ. Ông ta tên là Vương Tứ Phạm, tên tự là Kiếm Tam, người đương thời xưng là Kiếm Tam tiên sinh. Người này cũng có chút quan hệ dây mơ rễ má với nhà tôi, ông nội tôi gọi ông ta vào hàng chú họ. Anh trai ông nội tôi lên mười chín tuổi đã từng ở nhà Kiếm Tam tiên sinh làm chuyện lặt vặt nên đã từng chứng kiến tận mắt những chuyện có liên quan đến sự khoáng đạt của ông ta. Những chuyện do anh trai ông nội tôi kể lại đều được tôi nhớ như in trong đầu, thành tài sản của riêng tôi. Tôi đã từng dùng hình mẫu Kiếm Tam tiên sinh để viết nên truyện “Thần điếm” đăng tải trên tạp chí “Liên hợp Văn học” ở Đài Loan.

Chuyện kể rằng, tết năm ấy, Kiếm Tam tiên sinh vốn lâu nay không hề quan tâm đến nữ sắc bỗng nhiên rung động lòng phàm nên đã sai thuộc hạ đi tìm gái giang hồ. Bọn thuộc hạ hỏi là cần tìm mấy cô, Kiếm Tam tiên sinh bèn bảo có bao nhiêu gái làng chơi trong thành phố đều dẫn hết về nhà cho ông. Bọn thuộc hạ nhìn thân thể gầy gò nhu nhược của Kiếm Tam tiên sinh bấm bụng cười thầm. Rồi chúng nháo nhào tỏa về các hang cùng ngõ hẻm, tìm đến tất cả những nơi buôn phấn bán hương, không kể già trẻ xấu đẹp, đưa hai mươi tám cô gái làng chơi toàn thành phố lên xe kéo về đến tận nhà. Đang lúc toàn thành phố đang hương đèn nghi ngút cúng bái ông bà tổ tiên thì trong phòng khách của Kiếm Tam tiên sinh, hơn mười cây nến đỏ to bằng bắp tay được đốt lên sáng hơn cả ban ngày, nền gạch của phòng khách được phủ thảm đỏ, bốn góc phòng đặt bốn lò sưởi bằng than đỏ rực, căn phòng ấm áp vô cùng. Tất cả các cô đều đã được ăn no uống say, trang điểm diễm lệ ngồi chờ để phục vụ Kiếm Tam tiên sinh. Bọn thuộc hạ thì đang dỏng tai trợn mắt chờ xem Kiếm Tam tiên sinh hành lạc, trong lòng mỗi người, ai cũng có những phỏng đoán riêng, liệu tiên sinh dùng phương thức nào để “yêu” cùng một lúc hai tám cô gái? Kiếm Tam tiên sinh đang uống rượu ngâm thơ trong thư phòng, hình như đã quên phắt chuyện ấy. Đêm đã về khuya, những tiếng pháo đón giao thừa đã lác đác vang lên trong thành phố, các cô gái đã ngáp ngắn ngáp dài, bọn thuộc hạ cũng không còn hào hứng gì nữa. Có một thuộc hạ đến thư phòng hỏi Kiếm Tam tiên sinh giải quyết hai tám cô gái như thế nào, tiên sinh bảo, cứ bảo bọn họ cởi quần áo ra mà chờ. Tất cả các cô gái đều cười vang lên, rất vui vẻ rồi lần lượt trút bỏ toàn bộ y phục trên người. Hai mươi tám thân hình lõa lồ nằm la liệt thành một dãy trong phòng khách. Đúng lúc ấy, Kiếm Tam tiên sinh cầm một cốc rượu cực to, xiêu xiêu đi từ nhà trong ra. Ông cởi giày và trên đôi bàn chân không, ông ta dẫm trên bụng hai mươi tám cô gái và đi một vòng. Xong bảo thuộc hạ: Cho mỗi đứa mấy đồng tiền Đại Dương rồi đưa họ về!

Đây là một trong những phương thức đối đãi với phụ nữ rất Trung Quốc, rất điển hình, có khí độ khoáng đạt của bậc tiên phong đạo cốt, nhưng tất nhiên cũng sẽ còn có những cách giải thích và đánh giá khác nhau.

4. Áo rộng vung tay tự phong lưu

Nghĩ một cách thô thiển, “tiêu sái” vốn là một khái niệm chuyên dụng của nam giới, còn đối với phụ nữ, những từ ngữ để xưng tụng thường phải là: đẹp, dịu dàng, tình cảm… Lại nghĩ, từ “tiêu sái” lại có liên quan mật thiết với cách ăn mặc. Một gã đàn ông cho dù là cường tráng, đẹp trai… như thế nào mà cứ trần truồng dưới bể tắm thì cũng rất khó phát hiện ra sự hào hoa khoáng đạt của anh ta như thế nào. Lại nghĩ, “tiêu sái” với những bộ veston của người Tây hình như rất khó phù hợp. Veston cứng cáp, thẳng đuột, chỉ có thể mang lại ấn tượng chỉn chu, nghiêm túc; từ “khoáng đạt” hình như không có chỗ đứng bên cạnh những bộ quần áo Tây này. “Tiêu sái” và “phiêu dật - hoạt bát phóng khoáng” và “khoan tùng - thư thái” có quan hệ mật thiết với nhau. “Tiêu sái” có thể là cây liễu nhưng quyết không thể là cây tùng. Phóng khoáng và thư thái lại có quan hệ rất mật thiết với chiếc áo dài đàn ông Trung Quốc. Do vậy mà tôi chợt nghĩ đến những con người thời kỳ Ngũ Tứ như Uất Đạt Phu, Đới Vọng Thư… cho dù họ cũng đã từng mặc qua Âu phục. Ngoài ra, có lẽ “tiêu sái” còn gợi đến một thân hình cao nhã, một gương mặt thanh tú; một người đàn ông với chiếc bụng tròn trịa khó có thể gọi là “tiêu sái” được. Trong xã hội hiện đại, những người đàn ông đáng được gọi là phóng khoáng thanh cao càng ngày càng ít đi, điều này liệu có liên quan gì đến việc thay đổi cách ăn mặc hay không?

Thời kỳ Mãn Thanh, rất khó tìm thấy những người đàn ông phóng khoáng hoạt bát. Anh cứ xem quan phục của họ, chiếc áo vốn đã chẳng rộng gì nhưng bên ngoài lại có thêm một chiếc áo khoác bó chẽn, ống tay áo lại hình móng ngựa, trên đầu lại là một chiếc mũ úp xuống, trên mũ lại có một nhúm lông gà vểnh lên phất phơ, đúng là một cách trang điểm của những con rối điển hình. Bó thân trong những bộ quan phục như vậy, cho dù có những linh hồn khoáng đạt đến mấy cũng bị cầm tù thôi, chỉ có thể cúi đầu khom lưng để biểu hiện dáng vẻ nô tài, ngay cả Lâm Tắc Từ cũng khó lòng biểu lộ vẻ khoáng đạt ra bên ngoài.

Phục trang đời Minh có lẽ hào hoa khoáng đạt hơn so với đời Thanh, do vậy mà xuất hiện nhiều nhân vật phóng khoáng hào hoa hơn. Người phóng khoáng hào hoa đầu tiên phải kể đến là Chu Nguyên Chương - Hoàng đế khai quốc của nhà Minh. Những bài thơ do ông ta làm phá bỏ những thường quy, không câu không thúc, có thể xem là thiên hạ đệ nhất: “Một phiến hai phiến ba bốn phiến, Năm phiến sáu phiến bảy tám phiến. Trời đất mang mang một phiến to, Phong tuyết mai hoa đều bất kiến”. Trong công cuộc khai quốc vĩ đại, ông ta đã từng nói với những công thần: Các người hãy nhớ, ta vốn là một kẻ thừa gió bẻ măng, không ngờ chuyện đùa chơi mà hóa ra thật! Nhân cao hứng mà ông ta ngâm sang sảng bài thơ trên và kết quả là đem tính nghiêm túc của thơ ca triệt tiêu hoàn toàn; chỉ tùy tiện buột miệng nói chơi mà đã đem sự nghiệp đế vương thần thánh phủ định hoàn toàn. Đường Bá Hổ cũng là người được xem rất phóng khoáng hào hoa dưới thời Minh. Ông này thích họa đàn bà đẹp và những người đàn bà xuất hiện dưới ngòi bút ông ta đều rất đầy đặn mỡ màng. Đây là quan niệm thẩm mỹ thời Thịnh Đường lưu lại. Ông ta trốn tại hốc núi Đào Hoa để vẽ đàn bà đẹp nhưng hầu như không bao giờ thưởng thức một chút da thịt thơm nức của đàn bà. Nếu nhục thân Đường Bá Hổ thưởng thức đàn bà giống như trong ý thức nghệ thuật, ngay lập tức ông ta sẽ biến thành phàm phu tục tử thôi.

Trong lịch sử, thời đại được xem là phóng khoáng hào hoa nhất phải kể đến thời Ngụy Tấn. Thời ấy, quần áo rộng rãi lắm, mọi người chỉ cần khoác một mảnh áo bào, bên trong không mặc bất kỳ nội y nào hết, khi đi ngủ cũng chẳng cần cởi ra. Căn cứ cách nói của Lỗ Tấn tiên sinh, người thời Ngụy Tấn thích mặc quần áo thênh thang là vì họ uống rất nhiều thuốc tiên có nhiệt lượng rất lớn khiến cho da thịt lúc nào cũng nóng hầm hập và phát ngứa ngáy, quần áo mà chật một tí thì mỗi lần ngứa là khó gãi vô cùng. Lại nữa, do quần áo không bao giờ được giặt giũ nên sinh chấy rận, mà quần áo đã có chấy rận thì người bị hút máu và mất ngủ, do vậy mà thường gầy, mà gầy thì hợp với khoáng đạt hào hoa! Đương nhiên, chuyện khoáng đạt hào hoa của văn nhân thi sĩ thời Ngụy Tấn có liên quan đến nền chính trị vô cùng hắc ám thời ấy nhưng không thể phủ nhận rằng, nó có liên quan với chuyện mặc quần áo.

Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, khoáng đạt hào hoa nhất vẫn là người nước Sở. Anh cứ nhìn vào những di chỉ khảo cổ về các bức tượng đàn ông nước Sở, đúng là áo rộng thắt lưng mỏng, ống tay áo lại căng phồng lên như một chiếc buồm no gió. Mặc những bộ quần áo này, đàn ông như muốn phiêu diêu lên cõi tiên, bất kỳ lúc nào cũng có thể hóa thành một cánh chim bay thẳng lên đầu non Quần Ngọc mà đánh một giấc ngon lành. Khuất Nguyên còn cho rằng, quần áo như thế vẫn chưa đủ để gọi là phóng khoáng hào hoa mà cho rằng, quần áo phóng khoáng hào hoa phải là: “Hái sen súng cắt manh áo đẹp, Cắt phù dung may nếp xiêm dài.”, không những rộng rãi mà còn hào phóng; không những mát mẻ mà còn thơm tho. Mặc quần áo có cốt cách thần tiên như thế, anh không muốn phóng khoáng hào hoa cũng buộc phải phóng khoáng hào hoa.

Đương nhiên, “tiêu sái” cũng cần phải có khí chất nội tại. Cứ buộc một kẻ bụng gà lòng chó mặc bộ quần áo của Khuất Nguyên liệu anh ta có phóng khoáng hào hoa nổi không? Nhưng tôi tin tưởng rằng, khi anh ta mặc bộ quần áo của Khuất Nguyên vào, nhất định anh ta sẽ hào hoa phóng khoáng hơn một tí nếu so với lúc anh ta mặc bộ quần áo bó chặt trong người. Tôi phát hiện một điều, phàm là những ai thích phóng khoáng tự nhiên thường không bao giờ mặc quần áo bó sát người mà hầu hết đều mặc quần áo rộng rãi, đơn sơ. Nhục thể vĩ đại của họ cũng giống như linh hồn vĩ đại của họ vậy, không bao giờ tự nguyện chấp nhận sự gò bó trói buộc nào. Giống như Einstein mặc áo ngủ đi giữa đường phố, Mao Trạch Đông cũng đã từng mặc chiếc áo bông to sụ, vừa lật chéo áo lên để bắt rận vừa bàn luận chuyện thế lớn trong thiên hạ với những phóng viên người Mỹ.

5. Dáng anh hùng ăn như hùm sói

Ăn là chuyện cực kỳ bản năng và cũng cực kỳ thấp hèn trong thế giới loài người. Để được ăn, con người phải lao tâm khổ tứ, nỗ lực làm việc; cũng vì cái ăn, kẻ nô lệ mới dằn lòng cam chịu những ngọn roi vút xuống thân xác mình. Trong quá trình duy trì cái sinh mệnh bé nhỏ của mình, chuyện ăn và hào hoa khoáng đạt hầu như không có liên hệ gì. Muốn đạt đến phong độ ăn một cách hào hoa phóng khoáng, trước tiên là bụng anh cơ bản không đói - ngoại trừ anh hùng. Con người hiện đại, đặc biệt con người sống trong những xã hội phát triển, tương đối giàu có, chuyện ăn của họ không phải là nhằm giải quyết cái đói mà là một thói quen, đồng thời cũng là một phương thức giao thiệp. Ý nghĩa của việc uống rượu đâu phải là ở rượu, ý nghĩa của việc ăn cơm đâu phải là ở cơm, do vậy mà những bữa cơm của các quý ông quý bà hiện đại phần nhiều đượm sắc thái biểu diễn và sắc thái kinh doanh.

Có hai kiểu ăn phóng khoáng hào hoa, một là ăn kiểu võ, hai là ăn kiểu văn. Ăn kiểu võ thì phóng khoáng hào hoa theo kiểu võ; ăn kiểu văn thì phóng khoáng hào hoa theo kiểu văn.

Trước tiên là nói về ăn kiểu võ. Thời Tây Hán, Tư Mã Thiên tiên sinh trong danh tác “Sử ký” của mình đã viết: Hạng Vũ thết tiệc Hồng Môn, muốn nhân cơ hội này mà giết Lưu Bang. Đang trong lúc nguy cấp, Phàn Khoái xách kiếm mang thuẫn tiến thẳng vào cửa, vừa vào đến nơi đã trừng mắt nhìn Hạng Vũ, tóc tai dựng đứng, mi mắt tóe máu. Hạng Vũ chống kiếm thẳng lưng dậy, thất kinh hỏi: Ngươi đang giữ chức gì vậy? Trương Lương nói: Anh ta là Tham tướng của Bái Công, họ Phàn tên Khoái. Hạng Vũ nói: Tráng sĩ! Thưởng cho một nậm rượu! Thủ hạ của Hạng Vũ mang đến một nậm rượu thật to, nghĩ nhân cơ hội này mà dằn mặt anh ta. Phàn Khoái cúi người tạ ơn Hạng Vũ, một tay cầm lấy nậm rượu, ngửa cổ uống cạn một hơi. Hạng Vũ bảo cho anh ta một chiếc đùi lợn, bọn thuộc hạ lại cố tình chọn một đùi lợn còn chưa chín hẳn đem đến trước mặt Phàn Khoái. Anh ta đặt chiếc thuẫn xuống đất, đón lấy chiếc đùi lợn đặt lên trên, dùng kiếm xẻo thịt mà ăn như hùm như sói. Trong nháy mắt, chiếc đùi lợn chỉ còn trơ lại xương. Thoạt nhìn Phàn Khoái như chăm chú vào việc ăn thịt, nhưng thực ra chỉ là cố ý mượn việc ăn thịt để thị uy. Lưu Bang có thể bảo toàn được sinh mệnh ở bữa tiệc Hồng Môn phần lớn dựa vào bữa ăn thịt như lang như hổ của Phàn Khoái.

Hảo hán Võ Tòng trong “Thủy hử” trước khi đến Cảnh Dương Cang đả hổ đã ăn hết ba góc thịt bò, uống mười tám bát rượu Thấu Bình Hương. Nếu không có bữa ăn bữa uống kinh hoàng ấy, e rằng anh ta đã bị hổ ăn thịt mất. Võ Tòng cùng với những anh em đồng bọn như Lỗ Trí Thâm, Lý Quỳ… đều là hình mẫu của ăn kiểu võ. Lỗ Trí Thâm đại náo sơn môn, một mình ăn hết nửa con chó. Lý Quỳ càng man rợ hơn, chỉ một lần ăn đã ngốn hết hai chân của gã Lý Quỳ giả. Loại người này ăn theo kiểu thô lỗ cục cằn, ăn như lang như hổ không để ý gì đến lịch sự văn minh, chỉ cần động vào việc ăn của họ là ngay lập tức họ đập bàn đánh người. Nhưng tại sao chúng ta lại không ghét bỏ họ, thậm chí lại yêu thích họ nữa? Đáp án rất đơn giản: bởi vì họ là những anh hùng. Ăn thịt uống rượu là một trong những biểu hiện quan trọng cái khí độ anh hùng của họ, không có nó, họ mất đi một phần bản sắc anh hùng. Người thường mà ăn uống như vậy thì bị xem là hạ lưu, anh hùng ăn uống như vậy thì được xem là “tiêu sái”.

Lại nói về ăn kiểu văn. Hành vi ăn kiểu văn chủ yếu phát sinh ở những quý bà quý tiểu thư danh gia vọng tộc. Như Lâm Đại Ngọc trong “Hồng lâu mộng”, mỗi bữa chỉ ăn một chiếc càng cua, lại thêm một cọng giá đậu đã no. Đương nhiên Lâm Đại Ngọc là nhân vật của tiểu thuyết, không phải là nhân vật thật ngoài đời nhưng chúng ta tin tưởng rằng trong cuộc sống cũng có không ít những kiều nữ theo “kiểu Lâm Đại Ngọc” như vậy. Lại như một nhà văn có tiếng tăm Trung Quốc khác, tự tuyên bố rằng mình mỗi ngày chỉ ăn mấy hạt tùng, uống vài ngụm nước suối, thế thì chuyện ăn của vị này có khác gì chim sẻ? Lâm Đại Ngọc là đại diện cho phái nữ trong việc ăn kiểu văn, vị tác gia này là đại diện cho phái nữ trong việc ăn kiểu văn. Các vương tôn công tử mà ăn như thế thì được gọi là “tiêu sái”, còn con nhà bình dân nghèo rớt mồng tơi mà ăn như vậy thì bị cho là ngụy trang, làm điệu.

Lại còn một kiểu ăn nửa văn nửa võ nữa. Chẳng hạn nhà đại thư pháp đời Tấn - Vương Hy Chi, những người anh em của ông đều muốn được Tể tướng đương triều tuyển làm rể nên đều trang điểm đến độ lòe loẹt, người thì xem sách, người thì viết chữ… Riêng Vương Hy Chi nằm khểnh trên giường ở phía đông mà ăn bánh nướng. Đôi mắt Tể tướng quả là thần thông, chỉ vừa nhìn thấy Vương Hy Chi là đã biết chắc đây là một thiên tài.

6. Đêm mưa đồng sàng với tiểu hồ ly

Trong cuộc sống của mỗi người, một nửa thời gian trôi qua trong những giấc ngủ. Có người ngủ nhiều một chút, cũng có người ngủ ít đi một tí, nhưng nói chung, ngủ cũng như ăn là vấn đề, là nội dung quan trọng trong đời sống con người. Có thể ngủ đạt đến độ “tiêu sái” là hạnh phúc tột cùng của mỗi người, mất ngủ là nỗi đau khổ lớn nhất của mỗi người. Nói ngủ đạt đến độ “tiêu sái” tức là ngủ thật say, ngủ thật ngon, ngủ thật sâu, cho dù có bom rền sấm giật vẫn không tỉnh.

Con người muốn ngủ say, ngon và sâu, thứ nhất là đầu óc phải đơn giản và thanh thản. Anh xem, những đứa bé mới sinh ăn no xong là lăn ra ngủ, ngủ dậy lại ăn, ăn no xong lại ngủ, tại sao lại được như vậy? Bởi trong đầu óc chúng không hề vương vấn những chuyện loạn xị bát nháo của cuộc đời. Lúc nhỏ, chúng ta đều như thế cả, đều đã được tận hưởng những tháng ngày “tiêu sái” trong khi ngủ. Nhưng rồi chúng ta đã trưởng thành, nếu như một đứa bé không thèm suy nghĩ gì hết, hóa ra chúng ta lại là kẻ thiểu năng. Không suy nghĩ là không thể được nhưng để có những giấc ngủ ngon, chúng ta hãy cố gắng bớt đi những nghĩ suy trước khi đi ngủ.

Muốn ngủ say, ngon và sâu, điều cần thiết thứ hai là đừng làm những chuyện trái với lương tâm. Tục ngữ nói rất hay: Trong lòng không chuyện phiền, không sợ quỷ gõ cửa. Ở đây, “chuyện phiền” tức là những chuyện trái với lương tâm. Câu tục ngữ này chắc chẳng tác dụng gì đến những kẻ như cường đạo, lưu manh, gian thương… Bọn này được Thượng đế phái xuống trần gian để làm chuyện xấu, do vậy mà “chức nghiệp” của chúng là phá hoại xã hội, điểm xuyết cho xã hội, hình thành một lực lượng đối sánh với người tốt, cũng giống như trong “Thủy hử truyện”, Thiên sát tinh Lý Quỳ là được Thượng đế phái xuống để giết người vậy. Nếu bọn người này mà mất ngủ, lý do mất ngủ của chúng chắc chắn không phải vì làm chuyện xấu mà có lẽ là vì chúng đã làm một việc tốt nào đó. Mao Trạch Đông có một đoạn “Ngữ lục” rất nổi tiếng: “Một người làm được một việc tốt là không khó, khó là ở chỗ cả đời làm việc tốt mà không bao giờ làm việc xấu”. Câu này nếu nói ngược lại hình như vẫn có ý nghĩa: Một người làm một việc xấu là không khó, khó là ở chỗ cả đời làm việc xấu mà không bao giờ làm việc tốt. Người tốt thi thoảng làm việc xấu, chỉ cần đó không phải là cố ý, chỉ cần cố ý sửa đổi thì không nhất thiết phải cứ tâm tâm niệm niệm về chuyện xấu ấy mà không rứt ra được, ảnh hưởng đến giấc ngủ ngon của mình.

Muốn ngủ một cách “tiêu sái”, thứ ba là phải đổ sức lực, đổ mồ hôi. Rất ít nghe nói những người phu kéo xe bị mất ngủ, rất ít nghe nói những công nhân khai thác mỏ mất ngủ, cũng rất ít nghe nói những nông dân ban ngày vung mồ hôi như mưa trên đồng lại không ngủ được vào ban đêm. Tôi chưa bao giờ làm phu kéo xe thành phố nhưng đã rất nhiều năm tôi là một nông dân đúng nghĩa ở quê nhà, biết rất rõ rằng sau một ngày cật lực trên đồng, trời vừa sập tối là đã lăn lên giường ngáy khò khò. Thế nào là trước khi ngủ phải rửa chân, đánh răng…, trong từ điển của nông dân hầu như không có những khái niệm này. Thế nào là muỗi, thế nào là chấy rận… nào có để ý gì. Vất bát xuống đất, mò lên giường, chỉ vừa nhắm mắt là đã chìm vào giấc ngủ mật ngọt, ngay cả một giấc mộng cũng không có. Người ở thành phố bây giờ ít khi có cơ hội đổ mồ hôi, nhưng lao lực nhiều lên một tí cũng rất có lợi cho giấc ngủ.

Thứ tư là phải có chút tinh thần của AQ, nói cách khác là hãy cố gắng học tập AQ. Lão AQ mỗi lần nhận phải những điều uất ức ở bên ngoài, quay về đến Thổ Cốc trăn qua trở lại không dỗ được giấc ngủ thì dang tay tát thẳng vào mặt mình. Nếu bị người khác đánh thì bảo đó là con đánh cha; nếu bị kẻ giàu có làm nhục thì tự nhủ tổ tiên nhà tao giàu gấp mấy nhà mày…, sau đó thì thu được những thắng lợi về mặt tinh thần và thế là lão chìm trong giấc ngủ rất ngon. Phép thắng lợi tinh thần này hầu như không có tác dụng với những ai hiển đạt, nhưng với những người thấp cổ bé họng chúng ta cũng là một loại pháp bảo bất khả ly thân.

Ngoài bốn cách như đã trình bày ở trên, nhất định sẽ còn rất nhiều cách để dỗ con người ta vào giấc ngủ. Chính trị gia chủ yếu dựa vào thuốc an thần, văn nhân thường dựa vào rượu ngon, nghe đâu là những người phụ nữ cô độc thường dựa vào việc tự an ủi… Trong mắt tôi, hoàn cảnh đẹp nhất để có giấc ngủ ngon là: đêm khuya thanh vắng, mưa thu se sắt hay mưa xuân rào rào đập vào cành lá cành hoa bên khung cửa sổ. Gần thì tiếng mưa rả rích ngoài khung cửa, xa hơn thì có tiếng chó sủa văng vẳng mông lung, trên giường chăn chiếu vừa mới phơi thoang thoảng mùi nắng, trên bàn có một ngọn nến lung linh mờ tỏ soi rọi cuốn sách để mở. Lúc vừa cảm thấy mệt mỏi, thân thể và tâm hồn đang phiêu diêu thì một hồ ly tinh phả ra mùi hương sực nức dâng lên một bình Hoàng tửu Thiệu Hưng, lại thêm một đĩa lạc rang và một đĩa đậu phụ. Sau khi thưởng thức cái đẹp mắt sáng răng trong từ hồ ly tinh, trong trạng thái vô tri vô giác uống cạn bình rượu, men nồng ngất ngây vin vào hồ ly tinh leo lên giường, trong cái se lạnh của mùa thu cùng giúp nhau thoát y và sau đó là một trận điên loan đảo phượng, mưa móc chan hòa… Cuối cùng hai thân thể ép sát vào nhau và giấc ngủ sẽ đến trong trạng thái rã rời thân xác.

Chuyện này chỉ có thể có trong “Liêu Trai chí dị” và tôi cũng đã đọc từ trong ấy mà chép ra. Nhưng trong cuộc đời này nếu có hạnh ngộ như thế thì cũng không tiếc là đã sống được cả một đời người!

7. Trạng chửi Phan Kim Liên

Con người vì sao phải chửi người khác? Vấn đề này thoạt nhìn thì không thành vấn đề, nhưng để trả lời một cách chính xác thì thật không dễ dàng gì, nhưng nếu trả lời một cách đại khái thì có thể được. Theo tôi, sở dĩ người ta thường thích chửi người khác không ngoài việc trong lòng đang giận dữ, hoặc trong đầu óc oán hận đang tích tụ, không nôn ra được thì không chịu nổi. Chửi người khác là một cách phát tiết, là một cách tự vệ, là một phương thức làm giảm bớt áp lực tâm lý, như là một hoạt động bản năng. Trẻ con học nói, những câu nghiêm túc đứng đắn thường có một quá trình rất dài lâu mới nhập tâm, nhưng những câu chửi thì chúng học rất nhanh, không ai dạy mà tự biết, đúng là “không thầy chúng mày đều nên”. Chửi người không phải là chuyện hay ho gì, nhưng trong cả một đời người, vô luận là thánh hiền hay hào kiệt, có ai chưa từng chửi người, chưa từng nói một câu bẩn không? Chắc là không! Khổng Phu Tử có chửi người không, tôi không có cách gì để khảo sát được, nhưng những điều mà học trò ngài ghi chép có liên quan đến ngôn ngữ và hành vi của ngài trong sách vở, chúng ta biết là tính khí của ngài cũng chẳng dịu dàng gì, thường hay nổi giận trước những việc làm và lời nói sai trái của học trò, những lúc ấy khó lòng kìm giữ những lời chửi phát ra. Do vậy tôi nghĩ, thánh nhân như Khổng Phu Tử cũng đã từng chửi người khác. Cổ nhân chửi người bằng những phương pháp gì, chúng ta cũng có thể nhận ra. Khổng Phu Tử đã từng “chửi” một học trò của ngài là “cây mục không thể chạm khắc, tường phân không thể trét vôi”, cách “chửi” của ngài là dùng phương thức “tỉ” cũng có thể là “hứng” của thơ ca, tuyệt đối không liên quan tới sinh thực khí hoặc những hoạt động tính dục. Trong “Sử ký”, Tư Mã Thiên tiên sinh cũng không hề ghi chép câu nào có ý nghĩa chửi người như con người thời hiện đại. Phạm Tăng bị Hạng Vũ làm cho tức giận đến hôn mê bất tỉnh cũng chỉ phát tiết uất ức bằng câu: “Thằng nhãi này không đủ mưu trí!”. Cách gọi “thằng nhãi” hay là “tiểu tử” trên cái nhìn hiện đại không phải là chửi, thậm chí nó còn bao hàm một ý nghĩa thân thiết nào đó. Nhưng căn cứ vào khẩu khí và hoàn cảnh của Phạm Tăng lúc ấy, đó có thể là một câu chửi rất nặng nề trong thời kỳ ấy. Trong đời sống Trung Quốc hiện đại, những câu chửi nặng nề nhất nhìn chung đều có liên quan đến sinh thực khí, cho nên tôi đâm ra nghi ngờ rằng “thằng nhãi” hay “tiểu tử” liệu có cách giải nghĩa nào khác hay không?

Thời Tam Quốc, chửi là một cách thể hiện khí độ của người quân tử. Nễ Chính Bình cởi quần áo chửi Tào Tháo với hàng ngàn câu độc địa khiến Tào Tháo tiên sinh toát mồ hôi đầy sống lưng, nhưng tuyệt đối không có câu nào liên quan đến sinh thực khí và hoạt động tính dục. Câu ác nhất cũng chỉ nói thuộc hạ của Tào “bị thịt”, “thùng rượu”, “túi cơm”… cho nên cũng không hề là những câu chửi “chân chính”. Bị Gia Cát Lượng chửi, Vương Lãng uất ức mà chết nhưng về cơ bản, những câu chửi của Gia Cát Lượng đều nhằm vào vấn đề chính trị. Đây chỉ là những lời của nhà tiểu thuyết, không phải là lịch sử. Thiết nghĩ, Gia Cát Lượng và Vương Lãng đều là những chính trị gia, trong hoàn cảnh xã hội hỗn loạn lúc ấy họ không thể không ý thức được cái đạo lý thành ắt là vương hầu, bại ắt là đạo tặc. Thiên hạ nhà Hán của ngươi, há không phải là giành từ tay người khác về sao? Dùng những câu nói thừa thãi ấy, sao lại có thể làm cho Vương Lãng chết được? Nếu trong lịch sử mà có chuyện ấy thật, tôi đoán là Vương Lãng đáng chết, không cần chửi ông ta cũng chết; hay là Gia Cát Lượng dùng những lời chửi của con người hiện đại như “Đ. mẹ mày”, “Đ. mẹ tổ tông nhà mày”…? Nhưng con người nho nhã phong lưu như Gia Cát, nhất định sẽ không dùng những câu chửi tục tĩu ấy, do vậy chuyện này chắc là La Quán Trung ngụy tạo ra mà thôi. Nhưng kể gì chân giả, “Tam Quốc diễn nghĩa” đã cung cấp cho chúng ta những cách chửi rất “tiêu sái” của người xưa. Kỳ thực, hai trận chửi nổi tiếng của Nễ Chính Bình và Gia Cát Lượng đối với ngày nay mà nói, nó chẳng khác nào chuyện chúng ta tổ chức cho học sinh sinh viên tranh luận trên đài truyền hình, hai bên đều dùng những lời lẽ đắc nhất để giành phần thắng về mình, cho dù trong thâm tâm chưa chắc họ đã tự đồng ý với những lý lẽ mà họ đưa ra.

Xét trên phương diện sách vở mà nói, cách chửi người gần gũi nhất với thời hiện đại có thể thấy được từ thời “Kim Bình Mai”. Có thể phong cho Phan Kim Liên làm Trạng chửi. Cô nàng này chẳng khách khí gì với anh đâu, hễ mở miệng là đi ngay vào cái vật dưới đũng quần con người. Những lời này rõ ràng là chẳng hay ho gì nhưng nếu không có chúng thì không thể hiện được bản lĩnh Phan Kim Liên, đương nhiên cô nàng này cũng chưa phải là cao thủ lão luyện nhất trong những chiêu thức này. Khi còn đang lao động ở quê nhà, tôi thích nhất là được nghe mấy người đàn bà bên cạnh nhà đánh nhau. Nói là đánh nhau nhưng ít khi thấy họ động chân động tay, chủ yếu là đánh theo kiểu “văn”, tức là chửi nhau. Ngày ấy, nhà nào cũng có một khoảnh mái bằng để phơi lương thực. Những người đàn bà thường đứng trên cái sân khấu rất cao ấy, trong ánh sáng rực rỡ của hoàng hôn và đấu khẩu với nhau, nội dung của những câu chửi đương nhiên cũng xoay quanh sinh thực khí. Thiên tài ở chỗ, họ đứng đó và chửi nhau liên tục cả tiếng đồng hồ mà không hề có câu nào trùng lắp. Nếu ai đó lỡ miệng nói lại câu đã chửi, kẻ ấy cam chịu thất bại. Lúc ấy tôi mới hiểu rằng, té ra trong Hán ngữ cũng có rất nhiều từ dùng để tu sức cho sinh thực khí của con người.

Đến Bắc Kinh, tôi vẫn nghĩ đây là kinh đô văn hóa, con người ở đây lịch sự, không biết chửi người. Nhưng ngay lập tức tôi thấy mình đã hoàn toàn nhầm lẫn. Không ít người Bắc Kinh vừa mở miệng ra đã “con c.”, “đ. mẹ”… Khi chửi nhau, mấy từ ấy cứ lặp đi lặp lại, bẩn thỉu, mất vệ sinh vô cùng và tất nhiên là không có một chút văn hóa nào; nói thậm tệ một tí, họ còn thua xa những người đàn bà ít học ở quê tôi về mặt phẩm hạnh, tất nhiên cũng không bằng Phan Kim Liên.

Tự nhiên thành thói quen, nghe mãi những lời nhơ bẩn của người Bắc Kinh rồi cuối cùng cũng chẳng thấy nó bẩn nữa; cũng giống như chính những người phát ngôn ra những lời ấy, họ đâu có cảm thấy bẩn mồm.

Đem chuyện tính giao với những người đàn bà là trưởng bối của kẻ bị chửi ra mà nói là một cách sỉ nhục đau đớn nhất. Nghe đâu rằng đây chính là đặc sắc trong văn hóa chửi của người Trung Quốc, người nước ngoài có chuyện này không, tôi không thể khảo sát được. Chuyện này thoạt nghe thì có vẻ đơn giản nhưng kỳ thực là rất phức tạp vì nó có liên quan đến đạo đức và văn hóa, có liên quan đến lịch sử và cũng liên quan đến hiện thực, quan hệ đến tâm lý nhưng cũng quan hệ đến sinh lý. Thiết nghĩ, đến lúc nào đó người ta không còn đem chuyện tính giao với trưởng bối ra làm vũ khí để làm nhục người khác nữa, lúc đó xã hội chúng ta đã có một bước tiến bộ rất dài.

8. Để nở nụ cười, thế nhân khó gặp

Cả một đời người, ai có thể không cười nào? Ngay cả những người bị bệnh DAO cũng có điệu cười ngô nghê; ngay cả những kẻ ngu xuẩn cũng có cái cười ngốc nghếch; ngay cả gian tặc cũng có điệu cười gian xảo; ngay cả kỹ nữ cũng có nụ cười lẳng lơ… Ngoài ra còn đủ các kiểu cười: cười to, cười nhỏ, cười khổ, cười dâm, cười nửa miệng, da cười mà thịt không cười… Nụ cười đáng giá ngàn vàng, cười một cái trẻ đến mười tuổi, lại có kiểu bên ngoài cười vui nhưng bên trong hiểm ác, dao sắc ẩn trong nụ cười. Nụ cười luôn nở trên mặt Phật Di Lặc. Đại anh hùng tiếu ngạo giang hồ, đại văn hào cười cười nói nói trở thành văn chương… Không có nụ cười là không có cuộc sống, không có nụ cười cũng không có văn học.

Khi nhỏ xem sách “Thuyết Đường”, biết được rằng Trình Giảo Kim cười to ba tiếng mà chết, cũng là một chuyện thú vị.

Đọc “Tam Quốc diễn nghĩa”, Tào Tháo đại bại nơi Xích Bích, dẫn tàn binh bại tướng chạy đến rừng Ô Lâm, thấy cây cối um tùm, vách núi cheo leo bèn ngửa mặt cả cười, quân sĩ không biết cớ gì. Tháo nói: Ta không cười ai khác, chỉ cười Chu Du vô mưu, Gia Cát Lượng kém trí. Nếu là ta, nhất định ta sẽ cho một đạo quân mai phục nơi đây, thì sẽ ra sao nhỉ? Lời chưa dứt thì một tiếng pháo đã nổ đùng, một đạo nhân mã xông ra, đi đầu chính là Thường Sơn Triệu Tử Long. Một trận chém giết tơi bời, Tháo bỏ chạy thục mạng. Tiếp tục chạy về trước một đoạn nữa, Tào Tháo lại ngửa mặt cười lớn. Các tướng hỏi: Thừa tướng lại cười gì nữa thế? Tháo nói: Ta cười Gia Cát Lượng, Chu Du mưu trí kém cỏi. Nếu ta dùng binh, ta sẽ phục sẵn một đạo quân ở chỗ này, lấy nhàn nhã chờ mệt mỏi, tính mạng của chúng ta có giữ được nhất định cũng phải bị trọng thương. Bọn họ không tính được nước này nên ta cười đó thôi! Lời chưa kịp dứt thì đột nhiên khói lửa nổi lên mù trời, một đội người ngựa đứng chắn giữa đường, đứng đầu là một viên đại tướng, chính là Trương Dực Đức nước Yên. Lại một trận chém giết tơi bời, Tháo tế ngựa chạy thoát. Chạy đến đường Hoa Dung, Tháo lại cười lớn lên một lần nữa, chư tướng bảo Thừa tướng chớ có cười nữa, Tháo bảo: Nếu là ta dùng binh, phục sẵn ở đây một đạo nhân mã, chúng ta hết đường sống! Một tiếng pháo nổ vang, Quan Vân Trường đã đến!

Ba lần cười của Tào Tháo, đúng là những tiếng cười của một anh hùng chân chính. Ông ta đã xem chiến tranh như là một thứ nghệ thuật. Tuy ông ta đã thua, nhưng vẫn tiếc nuối vì những chỗ chưa được hoàn mỹ của đối thủ, cho đến khi ba lần cười là ba lần bị truy sát, bấy giờ ông ta mới thôi tiếc nuối. Thất bại trong quân sự và chính trị nhưng Tào Tháo đã kịp thưởng thức tác phẩm hoàn mỹ của địch, nếu không phải là anh hùng thì không thể có những biểu hiện tinh tế đến độ “tiêu sái” như thế.

Những năm cuối cùng của thập niên bảy mươi, văn hóa đại lục bắt đầu mở cửa, bộ phim “Ba lần cười” của Hồng Kông được chiếu rộng rãi. Bộ phim nói về chuyện Đường Bá Hổ và Thu Hương khiến tôi say đến độ mê muội, xem đi xem lại đến ba lần, ngay cả những lời thoại trong phim tôi cũng đã thuộc làu. Ba lần cười của Thu Hương đúng là quá sức tuyệt vời khiến người ta mê muội. Những nụ cười ấy lưu lại dấu ấn sâu đậm trong lòng tôi đến nay chưa phai. Té ra nụ cười của đàn bà lại làm người ta mê muội, lại đẹp đến độ mê hồn như thế sao?

Nụ cười tiếp theo phải kể đến “Anh Ninh” của Bồ Tùng Linh đời Thanh. Cô tiểu yêu tinh này nghiện cười, động một tí là cười đến độ cong người, không thể kềm chế được. Nàng cười mà không cần phải có căn nguyên, không cần phải cố tình làm vẻ; một tấm thiên chân, thuần khiết vô cùng. Những nụ cười với âm thanh trong vắt của nàng lúc nào cũng ẩn hiện trước mắt tôi. Suy cho cùng, Anh Ninh cười cái gì? Cười những điều đáng cười của thế nhân, cười những con người đáng cười của thế nhân?

Mao Trạch Đông nói: “Để nở nụ cười, thế nhân khó gặp. Ra biên cương tôi anh đều giương cung”.

Lý Bạch nói: “Ngửa mặt cả cười ra khỏi cửa. Cả đời ta há phải sống nơi lều tranh”.

Cười nói chuyện trò vui vẻ là phong thái của cổ nhân. Sau khi bước vào giai đoạn hiện đại, mỗi ngày người ta bộn bề với bao nhiêu lo toan đời thường, những nụ cười càng ngày càng ít đi trên mặt. Những nụ cười phát xuất từ tâm hồn, những nụ cười thiên chân vô tà, những nụ cười khoáng đạt phong lưu dần dần đã bị thay thế bởi những nụ cười méo xệch, giả tạo, khô khốc và chua chát. Đàn ông không nên cười một cách tùy tiện, đàn bà cười đừng bao giờ hở răng là một thứ chuẩn mực mới. Ngoài ra, nụ cười còn có thể đem ra trao đổi mua bán. Ánh sáng phát ra từ kim tiền đã che lấp ánh sáng của nụ cười. Thiết nghĩ, không cần phải nhiều tiền đến như thế, không cần phải cứ đấu tranh mãi với nhau như thế, không nhất thiết phải có nhiều quy định như thế, không cần thiết phải theo đuổi khoa học mãi như thế, không cần phải quá nhiều văn minh, cứ để cho mọi người khôi phục nụ cười, để mọi người cười một cách thỏa thuê, cười cho khoái trá, không bị cấm kỵ gì mà cười, cười một cách chân thành, cười thật sự phóng khoáng,… thế giới này nhất định sẽ thay đổi và so với bây giờ, đẹp hơn rất nhiều.

9. Khoái lạc rửa chân

Trong bộ phim nổi tiếng “Đèn lồng đỏ treo cao”, Trương Nghệ Mưu đã làm một áng văn bất hủ cùng với Củng Lợi. Chắc người xem còn nhớ, những người đàn bà được diễm phúc hầu hạ lão gia qua đêm, trước tiên là đều được hưởng thụ xoa bóp bàn chân. Những công việc có liên quan đến bàn chân như thế, không nghi ngờ gì nữa, là một bước chuẩn bị cho người đàn bà trước khi làm chuyện gối chăn với đàn ông. Trong bộ phim này, đôi bàn chân được xây dựng thành một hình ảnh có tính tượng trưng.

Trong danh tác “Thủy hử truyện” của văn học cổ điển, hai tên sai nha Đổng Siêu và Tiết Bá áp giải Lâm Xung đi Thương Châu đã nhận tiền hối lộ của kẻ khác nên trên đường đi đã hành hạ Lâm Xung đủ điều, trong đó hành vi độc ác nhất là dùng nước sôi rửa chân cho Lâm Xung, nóng đến độ Lâm Xung ngửa mặt lên trời kêu khổ, bàn chân phồng rộp lên, mọng nước. Sáng hôm sau, chúng lại cố ý bắt Lâm Xung mang đôi giày cỏ mới làm cho những chỗ bỏng vỡ toét ra, máu chảy dầm dề. Rửa chân kiểu này chính là một trong những khổ nạn đau đớn nhất.

Trong nhật ký của đại văn hào Lỗ Tấn có những ghi chép có liên quan đến chuyện rửa chân như “rửa chân buổi trưa” hoặc “rửa chân buổi tối”… Những chuyên gia chuyên nghiên cứu về Lỗ Tấn, có ai là không đặt vấn đề nghi vấn về chỗ này. Trong suy nghĩ của họ, rửa chân là rửa chân, chẳng có ý nghĩa gì khác. Nhà phê bình rất thận trọng là Lý Khánh Tư lại từ điểm này mà phát hiện ra điều kỳ lạ. Nhật ký của Lỗ Tấn tiên sinh đâu phải là sổ ghi chép cơ động, những việc quan trọng hơn rửa chân nhiều tại sao tiên sinh không ghi mà lại ghi về một chuyện không đâu vào đâu như thế này? Mà nếu đã ghi thì phải ghi mỗi ngày chứ, cớ gì cứ cách mười ngày nửa tháng mới ghi một lần? Lẽ nào nửa tháng tiên sinh mới rửa chân một lần? Tại sao nghỉ trưa cũng cần phải rửa chân? Khi nghiên cứu đến cuộc sống đời thường của tiên sinh, Lý Khánh Tư mới phát hiện một điều lý thú rằng, trong nhật ký tiên sinh ghi “rửa chân” là một cách nói ẩn ngữ của hoạt động tình dục!

Trước đây không lâu, tôi đến Trường Xuân để tham gia hội chợ sách toàn quốc. Hội chợ đầy người khiến đầu tôi choáng, mắt tôi hoa, uống mấy viên thuốc giảm đau mà vẫn không giảm, nằm vật vã trên giường, ngay cả cơm tối cũng bỏ nốt.

Sau khi ăn tối, một người bạn bảo: Đi rửa chân. Rửa chân xong, đầu cậu sẽ hết đau ngay, tôi bảo đảm.

Một đoàn bốn người, chúng tôi vẫy một chiếc taxi, bảo lái xe là chở chúng tôi đến một địa điểm rửa chân nào đó. Lái xe cười một cách tinh quái: Các sếp cứ yên tâm!

Thái độ của lái xe khiến tôi lo lắng. Với cái mặt chưa hề nghĩ đến hai chữ thể diện là gì của tôi đây, lúc nào cũng nghĩ đến chuyện vui vẻ, nhưng chỉ nghĩ thôi và tán dóc với bạn bè thôi, đến lúc làm thật thì lại không đủ can đảm. Lái xe đưa chúng tôi đến một con hẻm, trên cao trời mưa lất phất, dưới thấp đất bùn sền sệt, bánh xe làm bùn văng tung tóe. Ở thành phố này, lái xe taxi chạy ẩu kinh khủng, chiếc xe phóng như một con chuột mù, lúc ngoặt sang đông lúc đánh sang tây. Lái xe không có thái độ gì song những người ngồi trên xe thì được một phen thất kinh hồn vía. Đêm tối như thế, con hẻm như thế, ngồi chiếc taxi như thế, con người không ai không nghĩ đến những chuyện lung tung?

Trước một căn nhà tồi tàn, lái xe nói: Đến rồi, đây là chỗ tốt nhất trong thành phố này! Chúng tôi líu ríu kéo nhau đi vào. Trong một hành la