← Quay lại trang sách

Giấc mơ đại học của tôi

Những năm đầu thập niên sáu mươi, khi tôi mới bước chân vào tiểu học thì anh cả tôi đã thi đỗ vào Trường Đại học Sư phạm Hoa Đông với điểm số rất cao, trở thành cậu sinh viên đầu tiên của vùng Đông Bắc Cao Mật. Việc anh đỗ vào đại học đã mang lại vinh dự lớn lao cho gia đình, cũng kích thích giấc mơ đại học của tôi. Nhưng ngay sau đó, “Đại Cách mạng văn hóa” bộc phát, tôi lại vì chuyện viết báo cho một tờ báo nhỏ “Quả tật lê tạo phản” nên đã đắc tội với thầy hiệu trưởng, do vậy mà tôi bị đuổi khỏi trường khi đang còn học dở lớp năm.

Tờ “Quả tật lê tạo phản” chỉ ra mắt được một kỳ thì đã bị các thầy buộc phải đình bản. Tôi nhớ trên tờ báo có “bài thơ” - tác phẩm đầu tay của tôi, đại khái là: Tạo phản tạo phản cần tạo phản, Mao Chủ tịch hiệu triệu tạo phản! Đập nát đập nát đập nát hết. Đập nát nền giáo dục tư bản! Kỳ thực thì thầy hiệu trưởng đương quyền đã tạo phản, ông ấy cũng đập phá cả, nhưng quan điểm của ông ấy với tôi không hoàn toàn giống nhau, do vậy mà tôi đã đắc tội với ông ấy.

Sau khi mất học, tôi mới thấm thía được nỗi thống khổ theo kiểu của Cao Ngọc Bảo. Sau khi các trường mở cửa trở lại, tuyệt đại bộ phận bạn cùng lớp của tôi đều chuyển đến học ở trường trung học Nông nghiệp ngay trước mặt nhà tôi. Cho dù chuyện đi học lúc ấy được xem như một trò đùa, nhưng dù sao đi học vẫn cứ là đi học. Mỗi lần dắt dê dắt trâu, lưng đeo sọt cỏ đi ngang qua con đường nhỏ trước cửa lớp học, nghe thấy tiếng ồn ào của những bạn học ngày xưa, lòng tôi xốn xang vô cùng. Không chỉ mộng đại học đã bị tắt ngấm, ngay cả tấm bằng trung học cũng lấy không xong. Thành phần gia đình phú nông, tham gia bộ đội cũng không phải là chuyện dễ, làm công nhân cũng chẳng có chút hy vọng gì, xem ra cả đời tôi phải bán mặt cho đất bán lưng cho trời mất thôi. Trong cơn tuyệt vọng, tôi lục lọi những quyển sách giảng văn của anh cả khi còn đang học trung học ra, đọc đi đọc lại một cách say mê đến khi thuộc thì thôi, đầu tiên là đọc những truyện ngắn và những đoạn trích tiểu thuyết trong ấy rồi đến tản văn, ngay cả những bài viết của Trần Bá Đạt, Mao Trạch Đông tôi cũng thuộc làu làu.

Mấy năm trôi qua, một nhân vật danh tiếng là Trương Thiết Sinh đã xuất hiện. Cho dù con người này chẳng tốt lành gì, nhưng những cách thức của anh ta đã gợi ý cho tôi và từ trong tăm tối, tôi đã nhìn thấy một luồng ánh sáng. Té ra chỉ cần dựa vào một phong thư mà đã đường đường chính chính bước vào cánh cổng đại học! Tôi học theo cách thức của Trương Thiết Sinh viết một phong thư gửi cho Bộ trưởng Bộ Giáo dục Quốc gia lúc ấy là Chu Vinh Kim, biểu đạt nguyện vọng được học đại học một cách điên cuồng của tôi. Thư đi được nửa tháng, đêm ấy tôi đang giúp mẹ đốt lò, bố tôi có việc đi ra ngoài quay trở về, trên tay ông có một phong thư màu xám. Như có một tiếng nổ lớn vang lên bên tai, linh cảm mách bảo rằng, đó là hồi âm cho lá thư của tôi. Tôi vừa kích động vừa lo lắng, không biết là phúc hay họa đang chờ mình. Bố tôi giơ phong thư lên, tay ông cũng đang run nhưng cũng không vội vàng gì đưa nó cho tôi, đôi mắt ông nhìn tôi dài dại, buồn buồn - cái nhìn mà đến nay tôi vẫn chưa quên. Cuối cùng thì ông cũng nói được một câu: Con nghĩ như thế nào? Hỏi xong thì đưa phong thư cho tôi. Tờ giấy bên trong màu hồng, có mười mấy dòng chữ viết bằng bút chì, nội dung đại khái là: Tôi đã nhận được thư của anh. Nguyện vọng muốn học đại học của anh là rất tốt, hy vọng anh tiếp tục phấn đấu lao động, chờ đợi sự tiến cử của bần hạ trung nông. Đúng là lời lẽ của quan chức, nhưng lúc ấy tôi cảm động đến độ muốn phát khóc. Đây chính là thư hồi âm của Bộ trưởng Bộ Giáo dục

Quốc gia! Đêm ấy, tôi nghe bố mẹ thì thầm với nhau, bố nói: Thằng nhỏ này ra đời nếu mà hanh thông thì biết đâu sẽ làm nên chuyện, không may thì gieo họa cho tổ tông thôi! Mẹ thở dài nói: Cũng uổng phí cho con lắm, có đầu óc như vậy mà ngày nào cũng quanh quẩn với con trâu con dê!

Hồi âm của Bộ trưởng khiến cho mộng đại học của tôi ngày càng trở nên điên cuồng hơn. Nhưng tôi vẫn đủ tỉnh táo để biết rằng, nếu tôi có khổ hơn cả một con trâu cũng chẳng trông chờ gì vào sự tiến cử của bần hạ trung nông để vào đại học. Lúc ấy, chuyện cử tuyển theo đề nghị của bần hạ trung nông chẳng qua là những lời nói suông, mỗi năm được phân cho mấy chỉ tiêu phân phối thì làm sao lọt qua tay của con em cán bộ lãnh đạo công xã, hạnh phúc ấy căn bản chẳng đến phận của con em nông dân, đừng nói là kẻ như tôi vốn xuất thân từ tầng lớp phú nông, ngay cả tiểu học mà không tốt nghiệp nổi nữa là. Do vậy mà tôi nghĩ đến chuyện đi bộ đội. Trong quân đội, chỉ cần làm việc cho thật tốt là có thể được cử tuyển vào đại học. Cho dù không vào được đại học, làm một cán bộ quản lý cũng là một con đường tươi sáng vô cùng.

Sau bốn năm liên tục nỗ lực, khi tròn 21 tuổi tôi được gọi nhập ngũ. Đó là một ngày tháng 2 năm 1976. Trong quân ngũ, tôi làm việc cật lực đến độ không thiết gì đến bản thân. Dọn cầu tiêu, đào phân lợn, “phản kích hữu khuynh”. Có một lần tôi được điều động đến nông trường tham gia gặt lúa, khối lượng công việc hoàn thành của mình tôi so với tất cả anh em còn lại có khi còn nhiều hơn. Với những thành tích ấy, tôi giành được sự tán thưởng và cảm tình của toàn đơn vị từ cao xuống thấp. Khi viết đơn xin nhập ngũ, hầu như ai cũng khai thấp tuổi xuống và khai nâng trình độ văn hóa, đương nhiên tôi cũng không phải là một ngoại lệ - vì chuyện đó mà tôi cảm thấy lo lắng trong một thời gian rất dài - Tuy chưa hề tốt nghiệp tiểu học nhưng tôi lại cả gan khai là đã học hết lớp mười! Cuối năm 1977, lãnh đạo đơn vị bảo tôi hãy lo ôn tập bài vở, chuẩn bị mùa hè năm sau đến Bắc Kinh dự thi, nơi đăng ký dự thi là Học viện Kỹ thuật công trình vốn do quân đội quản lý. Tôi vừa phấn khởi vừa sợ hãi. Phấn khởi vì cơ hội cuối cùng cũng đã đến, sợ là vì một chút kiến thức về toán lý hóa cũng không hề có, ngay cả việc cộng trừ nhân chia còn không nắm chắc. Mấy ngày liền tôi nuốt không nổi cơm, không chợp được mắt, muốn tìm đến thủ trưởng để thú nhận chân tình nhưng lại sợ mắc vào cái tội khai man lý lịch để lừa tổ chức. Sau đó tôi nghiến răng quyết định: Được rồi, liều chết, cố thôi! Viết thư nhờ người nhà gửi tất cả những sách vở của anh cả đến rồi dưới sự phụ đạo của một anh bạn trong đơn vị, bắt đầu quá trình tự học gian khổ kinh hoàng. Trong vòng nửa năm, trong một gian kho cất giữ công cụ lao động, tôi đã thức trắng những đêm dài, liên tục từ đêm này sang đêm khác đánh vật với những phân số, phức số…, một cuốn hóa học, hai cuốn vật lý. Kỳ thi sắp đến, trong lòng tôi càng lo sợ phập phồng. Ai ai trông thấy tôi cần mẫn như vậy đều nói tôi nhất định sẽ đỗ, nhưng tự tôi nhìn nhận mình một cách rõ ràng nhất, trong vòng nửa năm, tôi chỉ có thể học thuộc làu một số công thức, định lý, còn vận dụng nó để giải toán thì tất nhiên là chẳng ra gì, nhất định tôi không thể đỗ được. Trong lúc nguy cấp nhất, cấp trên lại gọi điện đến bảo, danh sách dự thi không có tên tôi, do vậy tôi không cần phải đến Bắc Kinh nữa. Nghe được tin này, tảng đá nghìn cân như được cởi bỏ nhưng trong lòng tôi lại vừa vui vừa buồn.

Qua một phen lao đao, mộng đại học của tôi về cơ bản đã tan vỡ. Không lâu sau, tôi được điều động về một đơn vị mới, đảm nhiệm chức vụ giáo viên chính trị kiêm nhân viên quản lý thư viện. Để có thể lên lớp, tôi chúi mũi vào đọc những cuốn sách về lý luận chính trị, lại lợi dụng chức danh, đọc ngốn ngấu rất nhiều sách văn học nghệ thuật. Những năm đầu thập niên 80, trong những lúc nhàn rỗi, tôi bắt đầu tập tành sáng tác. Trong lúc mộng đại học không còn thấp thoáng trong đầu nữa thì cánh cổng đại học đột nhiên lại mở toang trước mắt tôi. Đó là một ngày hè vô cùng nóng bức, tôi nghe loáng thoáng rằng Khoa Văn học của Học viện Nghệ thuật Quân đội thông báo chiêu sinh. Lúc ấy, việc đăng ký dự thi đã kết thúc nhưng có lẽ là do mệnh vận xui khiến và chỉ đạo, tôi vác tác phẩm của mình xông thẳng vào cổng học viện. Ân sư Từ Hoài Trung tiên sinh đọc xong tác phẩm của tôi bèn nói với chuyên viên Lưu Nghị Nhiên trong khoa: Cậu học sinh này, nếu thi văn hóa mà không đạt điểm đỗ thì chúng ta cũng sẽ đặc cách cho đỗ! Lại là một sự dẫn dắt nữa của mệnh vận, điểm thi văn hóa của tôi lại rất cao. Ngày 1 tháng 9 năm 1984, tôi vác ba lô rời đơn vị để đến với giảng đường đại học.

Tháng 10 - 1997