← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV NGÔI NHÀ Ở SÀO HỒ

Hai cha con nàng Liễu Chi ở một nơi rất là yên tĩnh. Chị Bột là vú nuôi nàng Liễu Chi từ ngày nàng còn nhỏ cũng ở đó và giúp nàng trong công việc nội trợ. Họ ở Sào Hồ trong hai từng lầu của một tòa nhà lớn. Những người ở các từng lầu khác cũng là những người hiếu tính. Sau nhà có một cái sân nhỏ dưới bóng mát của một cay gồi lớn.

Cứ xem cách trang trí trong nhà cũng đủ biết là nàng Liễu Chi có Pháp tịch vì đồ trần thiết chẳng có gì mà nàng bày biện rất khéo léo. Đồ đạc rất giản dị nhưng được tô điểm thêm bằng nhiều đồ trang trí tỷ mẩn, kể về vật giá thì chẳng có là bao nhưng tế nhị và vui mắt. Cách xếp đặt các căn phòng cách dung hòa mầu sắc, sự thay đổi đi đôi với sự tương phản tỏ ra là nàng có óc nhận xét tinh tế và khiếu thẩm mỹ.

Tầng dưới có ba phòng: phòng khách, nơi đây nàng Liễu Chi để các lồng chim, hoa, sách, bàn viết và bàn làm việc, một phòng khác để bác sĩ tiếp bệnh nhân mà đồng thời cũng là phòng ăn; còn phòng thứ ba là phòng ngủ của bác sĩ - ở một góc phòng có một chiếc ghế dài của thợ đóng giầy vẫn thường dùng và các dụng cụ đóng giầy.

Nhờ được cô con gái yêu hết lòng, săn sóc nên thần trí và sức khoẻ của bác sĩ đã trở lại như xưa. Bây giờ trông bác sĩ tuấn tú, chưa hẳn đã hết độ thanh xuân. Chỉ còn bộ tóc bạc phơ là dấu hiệu của chuổi ngày đau khổ trong chốn lao tù. Gặp khi có sự gì nhắc nhở tới quãng đời khủng khiếp đó, tâm thần bác sĩ lại trở nên hôn mê mất một thời gian ngắn, nhưng nhờ có sự hiện diện của nàng Liễu Chi và một giọng nói dịu dàng của nàng, ông lại bình phục ngay. Khách thường lui tới ngôi nhà ở Sào Hồ có ông Lưu Kỳ, chàng Đạt Anh và luật sư Cát Tôn. Ông Lưu, vì là người độc thân, nên thường ngày đến uống trà vào những chiều Chủ nhật, hoặc có lúc đánh bài với bác sĩ. Đạt Anh đã thành người thân thiết với gia đình, duy Cát Tôn vẫn có một thái độ khó chịu. Chàng ta thường ngồi gần cửa sổ, suy nghĩ vơ vẩn, nghe mọi người nói chuyện mà mắt vẫn nhìn trộm Liễu Chi. Chàng ta là người có tài có trí nhưng không biết sử dụng tài trí của mình. Không còn năng lực để tìm tòi nghiên cứu, không kiên nhẫn, không có óc thực dụng mà cũng không còn tham vọng, chàng ta trở nên một người trác táng biếng lười. Từ ngày gặp Đạt Anh chàng không thể không nhận thấy sự tương phản giữa mình và chàng thanh niên Pháp có cái vẻ ngoài giống chàng như đúc ấy.

Một hôm hai người đang dùng cơm chiều tại một tửu quán, Cát Tôn lại giở thái độ kỳ quặc thường lệ: nói những lời châm biếm rồi phát bẳn. Khi Đạt Anh đứng dậy ra về thì thốt nhiên Cát Tôn lớn tiếng gây sự:

- Anh tưởng tôi say rồi sao?

- Tôi thấy anh đã uống nhiều rượu rồi đấy.

- Chính thế, và đây, tôi cho anh biết tại sao tôi uống rượu: Tôi là một người bất mãn anh ạ; tôi chẳng thèm để ý tới ai trên cõi đời này cũng chẳng ai thèm ngó ngàng tới tôi.

- Như thế thì thật đáng buồn, giả thử anh biết sử dụng tài năng của anh thì hay biết bao.

- Có lẽ. Thôi chào anh, chúc anh ngủ ngon.

Đạt Anh ra về và để mặc Cát Tôn ngồi lại một mình. Anh chàng ngồi thêm một lúc nữa rồi lấy một cây nến mang lại gần một cái gương đứng ngắm bóng mình. Chàng ta nói với bóng:

- Đồ bỏ! Mi đã đổi thay biết bao, mi đã thấy chưa? Mi chẳng còn có thể linh lợi, thành công trên đường đời và được mọi người yêu chuộng như Đạt Anh, mà lẽ ra mi được như thế mới phải! Lẽ ra mi phải là địch thủ của Đạt Anh trong việc cầu hôn nàng Liễu Chi. Mi yêu nàng quá đáng lẽ ra nàng cũng phải yêu mi chứ nhỉ?

Cát Tôn quay về căn phòng chật hẹp của chàng, ném mình xuống chiếc giường bừa bộn và chỉ một lát sau là chiếc gối của chàng đã ướt dầm những nước mắt.