Chương IV
Khoảng mươi mười lăm năm trước, nơi đây còn là một đồng nước úng. Mùa mưa nước dâng cao, tràn ra khỏi lòng hồ, ngập mênh mang những đồng đất xung quanh. Lau sậy, lác năn rậm rạp. Vừa mới qua khỏi mấy dãy phố, người ta đã lọt vào một không gian thoáng rộng như chốn đồng quê. Dế kêu ri ri. Ếch nhái uôm oạp suốt ngày đêm. Thế rồi hàng trăm hàng nghìn chuyến xe chở đất sầm sầm tiến vào bãi. Những bãi đất lấn dần đồng nước. Tốc độ xây dựng không thể gọi là nhanh, nhưng khoảng chục năm sau, những khối nhà năm tầng hình hộp đã khép hình cánh cung xung quanh hồ nước.
Nhìn ở mặt tiền, cũng như mặt hậu, các khối nhà giống nhau lạ lùng. Những cánh cửa chính, những cánh cửa sổ sơn xanh, cách nhau một khoảng đều đặn. Sự giống nhau ở bề mặt các căn hộ dễ gây cảm tưởng những người ở trong đó cũng giống nhau. Giống từ hoàn cảnh xuất thân, giống về tính cách, giống cả về nghề nghiệp.
Nhìn từ đằng trước, những cánh cửa sổ như những con mắt trẻ dại đều giống nhau. Nhìn ở đằng sau, những hàng dây phơi lùng nhùng quần áo đàn ông đàn bà trẻ con, đều giống nhau. Nhưng khi đóng cửa lại, mỗi gia đình một tâm sự, một lối sống, một nỗi lo toan khác nhau. Nhìn kỹ hơn nữa, mỗi thành viên trong gia đình lại có một nỗi niềm, chẳng ai giống ai.
Mục đích chính của Ban nhà không hẳn là đồng nhất niềm hạnh phúc và lo toan của các nhà lại. Họ cũng không bao giờ có ảo tưởng làm cái công việc nặng gánh mà cũng rất vô bổ ấy. Họ chỉ làm công việc của một tổng đài, quy tụ các mạch riêng rẽ với nhau. Thông báo cho mọi người nhiệm vụ cụ thể phải làm, một khi đã sống trong một khối nhà: sáng chủ nhật toàn thành phố làm tổng vệ sinh, lẽ nào khu nhà ta không thông cống rãnh và quét dọn rác? Bảo chúng tôi làm vệ sinh thì được. Dù có ở đâu khác cũng phải dọn dẹp làm vệ sinh thôi. Nhưng chớ nghĩ đến chuyện khuyến khích chúng tôi lập quan hệ mật thiết, một khi ai cũng đang quấn mình trong một cái kén dày và chắc.
Toàn không có một cái kén như vậy. Cánh cửa mở vào tâm hồn anh như làm bằng gỗ lim chắc nặng. Có lẽ ban đầu không có cánh cửa ấy, nhưng nhiều năm trôi qua, nó tự hình thành, mỗi ngày một vững chắc, mỗi ngày một to dày, nhiều lúc Toàn tự cảm thấy nó vững chãi như một cái cổng thành. Toàn lui về với cái thế giới một người bắt đầu từ những mất mát dồn dập. Cái chết của người cha khoét một lỗ hổng rất lớn trong tình cảm, tình phụ tử không một con người nào có thể thiếu được. Một người khác có thể đã khai vào lý lịch, bên dưới họ tên cha một dòng chữ: "hy sinh trong khi làm nhiệm vụ, vì bom Mỹ, ngày 24-12-1972". Toàn chỉ ghi đơn giản: "Đã mất". Ở mục bạn bè thân thiết có ảnh hưởng đến bản thân, Toàn để trống. Minh đã ở lại nước bạn làm luận án phó tiến sĩ, chắc đã lấy vợ người nước ngoài. Toàn đã mất Trang, thực ra chỉ có anh yêu thầm nhớ vụng, dù là tình yêu nhưng chưa có một lời ngỏ cùng nhau. Trang lấy Hiệp - một trong hai người bạn thân nhất của Toàn - họ đã đưa nhau tới một hòn đảo xa công tác và sinh sống. Hai người ấy vẫn là bạn, nhưng nhiều lúc Toàn cảm thấy đã mất họ. Dù có còn, Toàn vẫn cho rằng không cần thiết phải bộc bạch hết những quan hệ tình cảm của mình trong một quyển lý lịch. Không dối trá quanh co, thế là đủ. Nhưng trung thực không có nghĩa là nói hết mọi điều.
Chính từ nỗi mất mát và những ý nghĩ này mà Toàn rút lui vào sau cánh cửa do chính mình dựng lên chăng? Có khi sự mất mát lại khiến cho con người thích lao vào chỗ đông người, thích nhảy vào những nơi ồn ào để bù lấp khoảng trống hụt hẫng của mình cơ mà? Nhưng với Toàn, nó đã cứa vào tim anh, để lại những đường răng không thôi ứa máu. Anh rất sợ có thêm những người làm cho anh thân thiết, làm cho anh yêu mến. Có thêm tức là nguy cơ đến lúc nào đó sẽ mất thêm . Toàn sợ nỗi đau phát sinh từ nỗi mất mát thêm ấy. Mỗi lần có một ánh mắt thiếu nữ làm cho anh xao xuyến, mỗi khi có một người làm cho anh thân quý, Toàn gần như phải huy động toàn bộ sức nặng nội tâm, toàn bộ sức mạnh tinh thần để đè nén và đè bẹp tình cảm đó. Anh vẫn tự ý thức làm như vậy là trái tự nhiên, nhưng lại tự bào chữa không muốn phải chịu thêm đau khổ.
Sự nén giữ phi tự nhiên gây ra nỗi dằn vặt đau đớn cho một con người mang nặng nội tâm. Anh từ chối đến những hội vui, đêm cười của thanh niên. Anh lảng tránh những lễ sinh nhật, lễ cưới của bạn bè. Giữa nơi đông đúc nhốn nháo, tất cả thiên về chúc tụng xã giao, Toàn buồn ghê gớm vì không thấy rõ một ai, không thấy rõ cả chính mình. Giữa đám đông mà cảm thấy đơn côi là vì thế.
Nhưng khi chỉ còn lại một mình, cả một thế giới lao xao ồn ào, đi lại, khóc cười xung quanh Toàn. Anh cảm thấy mình luôn có đôi. Một con người nữa ở trong anh luôn sẵn sàng trò chuyện, trả lời. Toàn yêu cái truyện "Hoàng tử nhỏ" là vì lẽ đó. Hoàng tử nhỏ cũng chính là Saint-Exupéry, cũng ở trong ông bước ra và trò chuyện với ông mà thôi.
Toàn đã viết những câu thơ về cái tâm trạng cô đơn mà không tẻ lạnh của mình:
Tôi chẳng cô đơn dù chỉ một phút thôi
Dù dạo bước một mình trên đường vắng
Dù trên chiếu một thân im lặng
Đó là khi tôi sống cuộc đời riêng
Toàn sống như thế, nghĩ như thế, viết như thế, nhưng không phải không thấy nỗi bất hạnh của mình. Cũng là hăm bảy tuổi, sao bạn bè được sống vui tươi, sống một cách bình thường? Toàn cho rằng hạnh phúc là được sống bình thường như mọi người. Trạng thái cuộc sống của Toàn mất thăng bằng là vì anh cảm thấy trong anh có một đứa trẻ, nhưng đứa trẻ thường đi lạc đâu đó. Anh tất tả ngược xuôi đi tìm đứa trẻ này.
Đúng là có tiếng một đứa trẻ vừa gõ vào cửa sổ vừa gọi nho nhỏ. Toàn mở cửa, thấy một thằng bé có cặp mắt to và ướt lạ lùng. Nó nói nhỏ nhẹ:
- Chú ơi, ông trưởng nhà nhắn chú xuống họp ạ.
- Ừ, chú sẽ xuống - Toàn gật đầu, mỉm cười với nó. Anh nhớ ra thằng bé này đã gọi anh đi họp mấy lần.
Toàn xuống đến phòng 116, vẫn thường được mượn làm nơi hội họp, căn phòng đã khá chật chỗ và cuộc họp đã bắt đầu một lúc. Một người đàn ông nhích vào trong, nhường cho Toàn một chỗ ngồi. Suốt ngày mệt mỏi với những công việc và những cuộc họp ở cơ quan, người ta rất ngại những cuộc họp sự vụ như thế này của khu nhà. Đều mới chuyển đến, người ta còn giữ kẽ thăm dò nhau, nên không có tiếng rì rầm trao đổi riêng. Người nào nói nhiều chẳng qua vì đang có chuyện và nói cho sướng mồm. Phải đến khi động đến những vấn đề thiết thực, người ta mới bắt đầu lao xao lên tiếng.
Một ông già trán hói chỉ còn ít tóc bạc trắng quanh hai vành tai đang phát biểu mà như cắt nghĩa cho ai đó về sự tiện lợi của khu nhà mới. Các đồng chí cứ đến khu Kim Liên, khu Nguyễn Trường Tộ, khu Nguyễn Công Trứ, sẽ thấy những nhà xây theo kiểu cũ vừa hẹp, vừa không có lối dắt xe ở giữa. Mà đặc điểm của dân Việt Nam mình là ai cũng có một cái "anh" xe đạp. Toàn đưa mắt khắp phòng, chỉ thấy có hai người quen: ông Khuynh, hai tay khoanh trước ngực, cố tạo dáng quan cách, nhưng ông trẻ hơn cái tuổi năm mươi nhiều quá, nên giống một gã trai đang cố học đòi. Còn Mỵ đang ngồi cạnh một bà già quàu quạu, chăm chú lắng nghe.
- Tôi lại thấy khu nhà này có rất nhiều điểm bất tiện - Một ông da ngăm đen, lưỡng quyền cao và mái tóc rễ tre dựng đứng vừa nói vừa đứng dậy - Xưa nay người ta vẫn đánh số phòng ở từng đơn nguyên, hết đơn nguyên này mới sang đơn nguyên khác. Đằng này lại đánh số theo mỗi tầng gác, thật là ấm ớ con mẹ hàng điếu. Khách đến chơi, dắt xe đạp leo tuốt lên tầng năm cầu thang bên kia mới biết bị nhầm. Thế là phải đi xuống, sang cầu thang bên này, rồi mới lại lên tầng năm. Tôi đề nghị ta làm như một số nhà bên khu Giảng Võ: ở chân cầu thang kẻ một cái sơ đồ các phòng từ tầng một đến tầng năm. Như vậy khách đến chân cầu thang, đọc sơ đồ là biết số phòng mình cần tìm có ở cầu thang này hay không.
Người phát biểu phần lớn là ông bà già, những người chủ gia đình, tự thấy có trách nhiệm không chỉ với gia đình mà với cả xã hội. Họ ở độ tuổi sắp về hưu, hoặc đã hưu trí, cuộc đời tưởng như đang khép lại mãn nguyện, nhưng vẫn còn bứt rứt thấy nhiều điều ngang chướng. Mỗi người ngồi họp đều theo đuổi một ý nghĩ riêng. Ai nói cứ nói. Nghe hay không là quyền mỗi người. Những người chủ hộ trẻ như Toàn và Mỵ hầu như chỉ ngồi im.
Sang đến chuyện điện nước, nhiều người không ngồi im được nữa.
Ông trưởng nhà, một ông giáo về hưu, thái độ nghiêm túc mà cởi mở, vừa nói vừa đập nhịp quyển sổ cầm trong tay như đang đứng trước học sinh:
- Cuộc họp này cũng nhằm bàn kỹ một chút về vấn đề nước sinh hoạt đấy ạ. Thưa bà con, tôi ở tầng một, ở chính căn phòng 116 bà con đang ngồi đây, nhưng cũng hiểu nỗi vất vả của những nhà ở tầng trên, phải thao thức đêm hôm để xách từng xô nước. Như ý kiến bác đây vừa nêu ra, tôi đề nghị bà con ở tầng một dùng nước tiết kiệm, lưu ý khóa máy nước đúng lúc. Nhưng làm như vậy thì nước mới chỉ chảy đến tầng ba thôi, hai tầng trên vẫn không có. Cho nên đề nghị bà con từ tầng ba trở lên đóng thêm tiền để thù lao cho mấy cậu phụ trách hệ thống nước. Họ sẽ bơm nước lên cho ta.
- Đã đóng mười đồng rồi đấy thôi?
- Thưa bà con - Ông trưởng nhà vẫn nhã nhặn và kiên nhẫn như giải một bài toán khó - Mười đồng không phải là một đại lượng cố định. Cái lim của nó, tức là giới hạn của nó, chỉ đủ cho một tháng. Vậy bà con vui lòng đóng tiếp mỗi tháng mười đồng.
- "Tiêu cực phí" à?
- Vâng thì coi như "tiêu cực phí" cũng được.
Một ông có cặp mắt lươn, bộ mặt nung núc, đứng vụt dậy nói như sừng sộ:
- Tôi phản đối. Cuộc sống còn đầy rẫy chuyện tiêu cực bởi vì còn có người dung túng và nuôi dưỡng nó. Bây giờ những người tốt chúng ta, muôn người như một đồng lòng đấu tranh, buộc mỗi người làm hết trách nhiệm của mình. Được như vậy chắc cuộc sống của chúng ta sẽ khá lên - Gương mặt ông bất chợt nhuốm một vẻ giễu cợt sinh động - Tôi có một ông bạn, căn phòng chỉ có mười lăm mét vuông nên sách vở nhét đầy gầm giường, trên giá gỗ, trong tủ, làm hang ổ cho chuột. Chuột cắn sách dữ quá. Ông ấy làm bẫy, nhưng lũ chuột cũng ranh, không con nào sa bẫy cả. Cuối cùng mỗi buổi tối, trước khi đi ngủ, ông ấy đành đặt một bát cơm ở góc nhà để nuôi lũ chuột, cho chúng khỏi cắn sách. Ông ấy không dám trộn thuốc chuột vào, sợ rằng chỉ chết một vài con, sau đó những con khác không động đến bát cơm, mà chỉ cắn sách... Các đồng chí thấy chưa, mười đồng "tiêu cực phí" cũng là một thứ cơm để nuôi chuột. Vậy chúng ta phải tìm mọi biện pháp để chủ động tấn công "lũ chuột" ấy chứ.
Lại ồn lên: Phải đấy, phải có biện pháp tích cực. Ông có biện pháp tích cực gì nói thử xem nào? Rồi xem, chả làm gì được nó, mà chính mình lại phải xách nước méo mặt nhăn răng ra chứ đùa à? Thôi thôi, nộp quách cho nó mười đồng, hai mươi đồng cũng được, là xong chuyện. Toàn lại nhìn Mỵ, thấy cô quay nhìn hết người này sang người khác, nghe họ tranh cãi, vẻ thú vị của một cô bé con. Cô gái này gây một cảm tưởng trong trẻo nhẹ nhõm giữa đám người ồn ào xô bồ kia. Anh chàng Khắc nhận xét đúng thật.
Mấy ông bà già vẫn tranh luận sôi nổi. Vẫn chuyện "Tiêu cực phí", nuôi chuột hay nuôi mèo gì đó. Và như thường thấy trong một lớp kịch, cảnh quần chúng xôn xao bị chìm dần về phía sau, rồi một nhân vật tách khỏi đám đông tiến ra tiền đài. Nhân vật nổi lên trong ánh sáng của tiền đài lúc này là bà già cau có ngồi cạnh Mỵ. Bà không đứng dậy, cứ ngồi mà nói:
- Tôi không chịu nổi cái cảnh nhà tập thể nuôi lợn nuôi gà, phân tiểu tắc ứ rãnh nước phía sau. Hễ mở cửa là mùi xông nồng nặc. Lại còn nuôi chim nữa. Tôi mà vớ được con sáo ấy, tôi cứ băm cho một nhát dao. Ai đời suốt buổi sáng giặt bợt cả tay mới được chậu tã lót cho con bé cháu, ấy vậy mà con sáo đậu lên dây phơi ỉa vung ỉa vãi, phải đem giặt lại. Ban Nhà phải có ý kiến chứ, cái thằng bé gì ở phòng 119 ấy nhỉ?
- À vâng, cháu Đức - Ông trưởng nhà hơi bối rối, như thể ông là người ủng hộ việc nuôi con sáo.
Cũng như đoạn cuối lớp kịch đã nói ở trên, sau cùng ánh đèn chiếu vào nhân vật chính cũng tắt nốt. Đám quần chúng đứng im làm nền ở phía sau rã ra từng người một, rút vào hậu trường. Cuộc họp kết thúc mà chưa một việc nào ngã ngũ rõ ràng.
❖ ❖ ❖
Nếu chỉ nhờ hồi ức, Đức không nhớ nổi mẹ nó. Mẹ Đức mất vì chứng xuất huyết não khi thằng bé mới hơn ba tuổi. Hiện tại Đức ở với bố, một cán bộ của Viện Khoa học, vừa mới đi nghiên cứu ở châu Âu về.
Đức lên năm tuổi, bố đi nước ngoài làm luận án phó tiến sĩ, gửi con ở nhà ông anh ruột. Bác Tường của Đức chỉ có một thằng con trai lên bảy, nghịch như quỉ sứ. Đức mới đến ở buổi sáng, buổi chiều đã nghe bác gái vừa đi làm về mách bác Tường:
- Anh ra chỗ máy nước mà xem. Em đang đạp xe đi, linh tính thế nào, ngẩng đầu lên thấy ngay thằng cu Lợi vắt vẻo trên ngọn cây sấu, đang gỡ cái diều bị mắc vào cành cây. Em suýt kêu lên, nhưng kìm được. Cũng không dám gọi. Sợ nó giật mình ngã...
Bác Tường giận điên người, nhưng không đi tìm Lợi ngay. Bác đùng đùng đi ra đi vào, cáu kỉnh với bác Trâm - bác gái - rằng cô cứ nuông chiều, cứ ngon ngọt với nó cho lắm, sao cũng có ngày ôm mặt mà khóc. Yêu cho roi cho vọt, các cụ đã dạy thế, cứ thế mà làm.
Lợi không biết gì, thản nhiên cầm cái diều đi vào cửa trước. Trống ngực Đức khua thình thình, lo cho anh họ sắp bị đòn đến nơi. Bác Tường không nhảy xổ tới, không gầm lên mà ngồi im nhìn thằng con một lát, như dò xét.
- Lợi - Cuối cùng bác Tường gọi, giọng khô khốc - Đem cái diều lại đây.
Cảm thấy ngay nguy cơ bị đòn, Lợi ngập ngừng đi tới, đưa cái diều cho bố. Một chân vẫn choãi ra sau như sẵn sàng nhảy tránh.
- Mày giỏi - Giọng bác Tường lúc này nghe lạnh thấu tận xương. Bác giật phắt cái diều làm rất công phu, ném xuống đất, chân giẫm lên. Cái khung tre gẫy rắc - Đứa nào vừa trèo lên cây sấu để gỡ diều?
- Không phải con - Lợi sợ sệt chối.
- Không phải con - Bác Tường dằn giọng nhắc lại, rồi lớn tiếng hỏi bác Trâm đang ở dưới bếp - Thế thì đứa nào ngồi trên ngọn cây sấu hả mẹ thằng Lợi?
- Còn ai vào đấy nữa - Bác gái chép miệng rồi hoảng lên thấy chồng đánh con bôm bốp - Ối giời, đánh vào đít nó chứ? Sao lại nhè đầu mà đánh?
Bác Tường xăm xăm xuống bếp, rút một con dao. Bác ấn cu Lợi nằm trên giường, tóm lấy một cẳng chân có mấy vết gai cào đã đóng vẩy:
- Tao phải chặt cái chân cho mày què cụt, mày tàn phế. Để chân cho mày, rồi mày cũng hóa thành thân tàn ma dại thôi.
Bác Trâm xông vào, giật phắt được cái chân ra, đúng lúc cái dao chém phập xuống mặt chiếu. Khủng khiếp quá, thân người Đức giật bắn. Nó loạng choạng lùi vào góc nhà, nép sát vào tường. Không biết rằng nhát dao của bác Tường chỉ là giả vờ và đã được tính toán rất chính xác, cả hai đứa trẻ đều tin rằng chỉ chậm chân một chút Lợi đã không còn chân.
Cuối cùng bác Tường bật lửa, đốt cái diều đã bị giẫm bẹp. Bác cố tình để cái diều cháy giữa nhà cho thằng cu Lợi đang mếu máo khóc nhìn vào đấy mà ghi nhớ mãi mãi rằng bố mẹ rất ghét những trò nghịch ngợm vô bổ của nó. Đức nhìn ngọn lửa phừng phừng liếm dần cái diều giấy, tiếc vô kể công ai đã tỉ mẩn làm cho Lợi một thứ đồ chơi đẹp thế. Một thời gian dài, hễ nhìn thấy ngọn lửa trên bếp củi cũng như bếp dầu, Đức lại nhớ đến cái diều bị đốt. Sau ngọn lửa cháy bập bùng là bộ mặt dữ tợn của bác Tường.
Sau trận đòn vì cái diều, khá lâu Lợi không bị bố động tới. Đức cho rằng cả bác Trâm và bác Tường đều tốt, nhưng bác Tường dữ tính quá. Cái nhìn dữ dằn của bác gây ra trong tâm hồn trẻ thơ đa cảm của Đức một vết đau nhức, mỗi khi nhớ lại những trận bác đánh đòn anh Lợi.
- Ông ấy ác lắm đấy - Có buổi Lợi thì thầm kể với Đức. Trong nhà chỉ còn hai anh em, Lợi vẫn phải lấm lét nhìn ngó xung quanh, sợ bố bất thần xuất hiện - Hôm nọ anh chỉ trêu con chó Nhật của nhà chú Tuấn có một lúc mà ông ấy đánh anh suýt chết. Chỉ tại chú Tuấn. Chú ấy sang mách là anh bắt chước điệu bộ vừa dứ vừa đấm liên tiếp của các võ sĩ quyền Anh ở trên ti vi, nhưng lại đấm về phía con chó, làm nó sủa lồng lộn như phát điên cả ngày hôm ấy. Thế là bố anh cầm con dao sáng loáng ra. Tao chặt tay xem mày còn đấm quyền Anh được với con chó nữa hay không. Úi giời ơi, mẹ không rút tay anh ra kịp thì anh cụt tay rồi. Ông này ác lắm, mình có mọc được chân tay, cũng không đủ cho ông ấy chặt đâu.
Chỉ mấy ngày sau, bác Tường đã chứng thực câu nói về việc mọc chân tay của cu Lợi. Một buổi tối, bác Trâm tìm mãi không thấy thỏi son Pháp. Bác dỗ dành Lợi có nhỡ lấy, giấu ở đâu thì trả lại. Lợi bảo không thấy. Đức cũng không thấy. Vậy ai vào nhà lấy cái thỏi son cơ chứ. Bác Tường để cho ba mẹ con, bác cháu nhốn nháo một hồi, rồi mới thủng thẳng:
- Thằng Lợi chứ còn ai vào đấy? Em không nhớ dạo trước nó lấy cái khăn mùi xoa Tiệp của em, đem cho con bé cùng lớp à? Mày trót lấy thì nói ngay, không có chết đòn.
Lợi kêu lên một tiếng. Oan ức quá, nhưng bố đã lập luận không thể chối cãi được. Chuyện lấy cái mùi xoa đem cho cô bạn Châu dễ thương là có thật. Nhưng sao bố lại suy ra một chuyện mà nó không hề làm? Thằng bé dứt khoát không nhận. Một trận mưa đấm tát. Kết thúc bằng nhát dao chém xuống. Lần này không có ai lao vào rút cái tay ra, nhưng thật may mắn, nhát dao chém trượt, băm vào bên cạnh mấy đầu ngón tay run rẩy của cu Lợi.
Đức đã đứng ngoài xem cái trò chặt chân tay này mấy lần. Nó lờ mờ cảm thấy có chút gì không thật trong những nhát chém. Tuy vậy nó vẫn sợ, vì thái độ giông bão, vì tiếng gầm thét của bác Tường.
Thấy cu Lợi khóc lóc thảm thiết nhưng vẫn chối một mực, bác Trâm đâm ra hoang mang. Bác đành quay ra dỗ dành Đức:
- Hay là cháu trót lấy, cháu nói thật cho bác biết, bác khỏi mất công tìm thôi mà.
Đức có bao giờ động đến thỏi son của bác đâu. Đáng lẽ chối phắt thì nó chỉ ngập ngừng lắc đầu. Anh Lợi khóc não lòng quá, Đức thương anh, cũng suýt khóc theo.
- Cháu nói thật đi. Cháu mà nói dối, bác buồn, bác chết mất.
Giọng nói thủ thỉ buồn mủi của bác Trâm làm Đức rơi nước mắt. Nó hình dung thấy bác Trâm nằm héo hắt trên cái giường tối, mắt nhắm như ngủ, nhưng chẳng bao giờ dậy nữa. Hai anh em nó và bác Tường đứng khóc xung quanh... Không chịu nổi cái cảnh do chính mình tưởng tượng ra, Đức òa lên khóc:
- Bác ơi... cháu lấy... cháu lấy...
- Cháu để đâu rồi? - Bác Trâm cuống cuồng hỏi.
- Cháu... đánh rơi... xuống cống rồi...
Trận đòn và cuộc truy tìm chấm dứt. Nhưng Đức khóc suốt đêm ấy. Hai anh em ngủ ở phòng trong. Lợi nằm sấp, cằm tỳ lên hai bàn tay chắp trên chiếc gối, dỗ cho em thôi khóc, rồi nó hỏi:
- Sao em không lấy, mà lại nhận?
- Tại anh bị đánh - Đức vẫn còn nấc - Với lại bác Trâm sẽ chết mất...
Lợi thở dài, quay nằm nghiêng, ôm ngang lưng Đức. Bất chợt nó vùng dậy, nhìn cái hộp nữ trang của mẹ đặt trên mặt tủ lệch, mắt sáng lên. Một lát, Lợi rón rén xuống đất, đóng cánh cửa ngăn giữa hai phòng lại.
- Nhỡ thỏi son rơi xuống gầm tủ hoặc gầm giường thì sao? - Lợi thì thầm, kéo tay Đức cùng xuống - Anh em mình thử tìm xem.
Hai đứa nằm bẹp trên nền gạch hoa, thò tay vào gầm tủ, lôi ra một cái hộp đựng kìm, búa, clê, mỏ lết, và một số dụng cụ bác Tường vẫn dùng để chữa xe đạp. Ánh sáng ngọn đèn ngủ hơi tối, chúng vẫn cố căng mắt để tìm.
Tay Lợi dài hơn, vươn đến tận chân tường. Nó chạm tay vào một cuộn len nhỏ, và bên cạnh... một vật trơn trơn, dài như cái nắp bút.
- Đây rồi - Lợi sướng quá reo ầm lên. Nó chồm dậy đẩy tung cửa, chạy ra phòng ngoài - Mẹ ơi, thấy rồi, thấy son rồi.
Bác Tường và bác Trâm vừa mới thiu thiu ngủ, giật mình tỉnh dậy, thấy thằng con nhảy như điên bên ngoài màn. Hai bác bật đèn, chui ra, cùng lúc Đức khép nép từ phòng trong ra theo.
- Thấy cái gì? - Bác Tường hỏi giọng đe dọa.
- Thấy thỏi son ạ - Lợi sung sướng chìa ra cái vật vừa tìm thấy.
Bác Trâm trố mắt nhìn:
- Con điên à? Đây là thỏi mica chặn giấy của bố đấy chứ.
Lợi tái người nhìn lại. Một thỏi mica trong suốt lóng lánh xanh đỏ kẹp giữa mấy ngón tay của nó, không phải thỏi son. Đức đã phát hiện ra điều đó, nhưng không kịp ngăn thằng anh quáng quàng lao ra phòng ngoài. Nhận ra mình nhầm, lại vào lúc đêm hôm, Lợi xịu xuống, sợ bố ghê gớm.
- Khoan đã - Bác Trâm sực nhớ ra, liền quay sang Đức - Sao cháu bảo đánh rơi xuống cống, còn tìm làm gì nữa?
- Không ạ, cháu nói dối... Cháu và anh Lợi đều không biết thỏi son ở đâu cả - Đức cúi đầu xuống.
Mấy năm sau, mọi người đều quên chuyện thỏi son. Riêng với Đức, lần đứng ra nói dối ấy gieo vào lòng nó một cảm xúc u ám. Tại vì bác Tường nó dữ đòn quá. Cũng tại anh Lợi và bác Trâm nó đáng thương quá. Thành ra nó bị mang tiếng đã đánh mất thỏi son. Mặc dù sau cái đêm anh em nó lục cục tìm kiếm, hai bác đều biết không phải Đức lấy, và bác Trâm bảo có thể bác đã để quên ở đâu đó, Đức vẫn cảm thấy nặng nề. Đến bây giờ bác vẫn chưa tìm thấy thỏi son cơ mà.
Ba năm đến ở nhà bác, Đức có một người để mà sợ, mà lo ngay ngáy quanh năm, đó là bác Tường. Bù lại, nó được sống với một người anh, yêu thương nhau kỳ lạ. Hai đứa gắn bó như một trong lúc vui sướng, có miếng ngon thì nhường nhịn nhau, và cả trong lúc đau khổ, chịu oan uổng. Tuy nhiên bóng tối mà bác Tường gây ra đã sớm che nặng một góc tâm hồn trong sáng của Đức.
Bố Đức tốt nghiệp, về nước, hai bố con đổi nhà cũ lấy một căn hộ ở khu tập thể này. Ở đây người lớn xa lánh nhau, thành ra hình như trẻ con cũng lạnh nhạt. Không có bạn, Đức toàn thơ thẩn một mình quanh cây xà cừ nhỏ đằng trước nhà. Thằng bé nhớ Lợi da diết, thỉnh thoảng vẫn tự tìm đến chơi với anh.
Đức cứ sống cô độc như thế, cho đến khi chú Kha từ biên giới Hà Dân về, mang theo một con sáo biết nói.