Chương VII
Ngày nào cũng vậy. Bố để chuông báo thức lúc năm giờ rưỡi. Hai bố con Đức vùng dậy, xỏ giày, chạy một vòng quanh một cụm ba bốn khối nhà. Ban đầu chỉ có một mình bố Khôi chạy. Nhưng một hôm Khôi bất chợt nhận ra rằng một đứa con trai tám tuổi không còn bé nữa. Cu Đức đã lớn và cần một thể lực tốt, cần một tính cách rắn rỏi. Tối hôm đó, anh lấy từ trong tủ đôi giầy thể thao, đưa cho Đức và nói như hai bố con đã thỏa thuận xong:
- Từ sáng mai, bố con mình cùng chạy và tập thể dục nhé.
Đức cảm thấy mình lớn phổng. Sáng sớm chỉ có mấy anh thanh niên hoặc những người trạc tuổi bố Khôi chạy quanh khu nhà. Còn bọn trẻ, thậm chí hơn Đức năm sáu tuổi, chưa đứa nào được rủ tập luyện ngang hàng như thế bao giờ. Mới đến khu nhà này, Đức chưa có bạn. Nó chỉ có một người bạn duy nhất là bố Khôi. Ở gần một người bạn lớn tuổi như bố, nhiều khi Đức nghe những lời rất khó hiểu. Một hôm, bố Khôi giật mình vì Đức bật hỏi:
- Chỉ người mới bị chết. Hoặc gà, mèo, cây cỏ mới chết. Còn tình yêu như thế nào mà cũng chết được hả bố?
Bố Khôi phì cười, suýt nữa hỏi xem Đức nghe những lời cụ non ấy ở đâu, nhưng anh lập tức nhớ ra. Thôi chết, chắc là trong giấc ngủ chập chờn, Đức nghe được câu chuyện giữa bố Khôi và cô Tuyết mấy hôm trước. Cô Tuyết và bố Khôi quen nhau từ dạo ở nước ngoài. Cô thương Khôi, ái ngại trước cảnh gà trống nuôi con của anh, và muốn san sẻ. Đôi lúc cô ghé qua, đem cho bố con Khôi chút thực phẩm, nấu giúp bữa cơm. Lần khác là mấy quyển vở và tập tranh cho Đức. Cô hay ngồi bên giường Đức, kể chuyện cổ tích cho đến khi Đức ngủ quên mất. Nó hình dung ra mẹ, gương mặt như tấm ảnh đặt trên bàn, nhưng trong dáng vẻ của cô Tuyết. Mẹ cũng đến bên giường, kể chuyện và ru cho Đức ngủ. Rồi Đức nghe giọng bố trầm xuống, buồn bã thế nào ấy:
- Tuyết đừng nghĩ vậy. Tôi cũng có tình yêu chứ. Nhưng chỉ có một. Và tình yêu ấy chết rồi.
- Anh đừng tự làm khổ mình - Giọng cô Tuyết - Trong tự nhiên cũng có nhiều thứ có thể tái sinh, có thể sống lại...
Cô Tuyết bỏ lửng câu nói. Rõ ràng là cô nói vậy thôi, nhưng được nửa chừng chính cô cũng chưa nghĩ ra cái gì có thể sống lại. Bố Khôi chắc cũng chẳng biết được. Thành ra hai người không nói gì nữa.
Đức thắc mắc mãi về chuyện "tình yêu chết" và bắt đầu để ý tìm xem cái gì có thể sống lại. Người không sống lại được thì đã hẳn, mẹ Đức mất đã lâu mà có bao giờ về được nhà đâu. Bác Tường và bác Trâm thỉnh thoảng giết thịt một con gà trong chuồng, Đức tiếc nhớ mãi nhưng gà cũng không sống lại. Cây táo Thiện Phiến, anh Lợi xin được ở nhà một đứa bạn, hai anh em hì hục trồng cũng chết héo. Đúng là Đức chưa tìm ra một vật nào đã chết mà sống lại được.
Thế rồi chú Kha từ biên giới Hà Dân về. Cuộc sống buồn tẻ của Đức bắt đầu có những thay đổi đáng mừng. Chú Kha là em út của bác Tường và bố Khôi. Lần này chú được nghỉ phép sau gần hai năm căng thẳng ở vùng biên giới. Buổi tối hôm ấy, một chú bộ đội trạc tuổi ba mươi, đeo quân hàm thượng úy đột ngột đứng chắn ngay trước cửa. Chú chưa kịp cởi ba lô, bố Khôi đã vội vàng buông bút, chạy nhào tới:
- Kìa, Kha...
Chú Kha để nguyên mọi thứ trên vai, trên lưng, ôm chặt lấy người anh trai:
- Thế mà hơn bốn năm rồi đấy. Dạo anh đi, em không về tiễn được. Anh trắng hơn, nhưng chẳng béo lên mấy tý.
Chú vội buông người anh ra khi thấy đứa cháu đứng sau bố, đang thú vị nhìn ngắm hai người lớn. Chú Kha sải chân, chỉ một bước đã đến trước mặt Đức, khuỵu một chân xuống:
- Cu Đức lớn quá rồi. Có còn nhớ chú Kha không?
Đức bẽn lẽn định đáp, thì thấy cái rọ tre lúc lắc bên ba lô chú Kha bỗng sột soạt. Một con chim màu đen đập cánh, và từ cái rọ phát ra những tiếng trọ trẹ:
- Có người, có người.
Đức cuống quýt chạy vòng sang bên cạnh chú Kha:
- A, con sáo. Con sáo của ai hả chú Kha?
- Của cháu đấy - Chú Kha đáp, cứ như hai chú cháu đã viết thư báo trước cho nhau từ lâu.
Ngay sáng hôm sau, chú Kha và Đức đã ra ven hồ vồ chộp châu chấu trong những bụi cỏ. Chú Kha cầm từng con châu chấu, đút cho chim sáo. Con sáo cặp châu chấu vào giữa mỏ, hau háu nuốt. Vừa nuốt nó vừa gật gù ra chiều thích thú. Chú Kha nằm lăn ra bãi cỏ, kể lại chuyện con sáo đã đến với chú như thế nào. Ấy là một buổi sáng, chú Kha bỗng thấy một bóng chim xõa cánh, đỗ xuống trước cửa hầm. Chú không để ý, vì đang bận chờ chỉ thị của cấp trên qua điện thoại. Con chim không kêu. Chú Kha cũng quên mất con chim rồi, cho đến khi xong việc, chú bước ra cửa hầm. Con sáo, quả thật đó là một con sáo mỏ ngà, bộ lông đen tuyền, giật mình tránh sang bên cạnh. Lạ một điều là nó không bay vụt đi, cũng không chạy tránh xa. Chú Kha dừng lại, nhìn thật kỹ con chim có vẻ bơ phờ. Bộ lông nó xù lên, tơi tả. Cặp chân nhỏ có những vết xước rớm máu. Con sáo giống như một người tản cư tránh giặc sau nỗi chấn động kinh hoàng. Thôi đúng rồi, con sáo sống sót sau trận pháo kích của quân giặc vào thị trấn đêm qua. Hẳn là bản năng sống mãnh liệt, nó đã điên cuồng bẻ gãy lồng, trằn mình qua một khe hở nhỏ để ra khỏi lồng, bay thoát tới đây. Chú Kha thụp xuống, chìa tay về phía nó. Con sáo chỉ hơi rũ mình, lùi lại, rồi khập khiễng đi vòng sang bên cạnh để tránh, không có vẻ muốn bay đi chút nào. Có muốn bay cũng chẳng được, xem chừng con chim sắp rũ xuống. Chú Kha sực nhớ, bèn quay vào hầm, lấy ra một nắm cơm chưa kịp ăn. Chú bóp vụn mẩu cơm, rải nhẹ xuống trước mỏ chim sáo. Con sáo khuỵu xuống, xòa đôi cánh đã rã rời trên nền đất như hỗ trợ cho đôi chân run rẩy, bắt đầu khật khừ mổ từng hạt cơm. Được một lát, không gắng nổi nữa, nó rũ xuống. Mỏ lem nhem đất cát và hạt cơm chưa nuốt nổi. Chú Kha phải đỡ lấy nó trong lòng bàn tay. Con sáo không còn biết sợ, đành phó mặc số phận trong tay một người lạ. Chú Kha nhẹ nhàng bắt mỏ nó ra, nhỏ vào từng giọt nước mát. Đến chiều, con sáo dần dần hồi phục, thều thào mấy tiếng: "Có người... có người..." Phải rồi, nó đã gặp được người, gặp được chú Kha. Nó đã sống.
Thế là Đức đã có bạn. Người bạn này gắn bó trung thành, lúc nào cũng ở bên Đức. Không phải như những người bạn học cùng lớp, ngày ngày gặp nhau ở lớp vào buổi sáng, có thể vui chơi với nhau chút ít vào buổi chiều, nhưng tối muộn thì ai về nhà nấy. Trong đầu óc luôn mơ tưởng của Đức, chim sáo không chỉ là một người bạn. Đức bị ám ảnh bởi chuyện cô Tấm hóa thành chim vàng anh, và văng vẳng tiếng hoàng tử: "Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo?" Đức thích thú vì mấy tiếng ấy được nó phổ cho một giai điệu, nghe như một câu hát ngồ ngộ lạ tai. Câu hát vừa dứt, Đức bàng hoàng phát hiện ra rằng hôm nọ cô Tuyết nói đúng. Vẫn có người chết rồi, mà sống lại được. Cô Tấm đấy chứ ai. Chết rồi, nhưng lại hóa thành vàng anh, bay đến với hoàng tử. Đức tin rằng mẹ cũng như cô Tấm, mẹ đã hóa thành chim sáo này. Thảo nào mỗi khi Đức để dành chuối cho sáo ăn, chim sáo lại nhìn Đức, ánh mắt biết ơn. Chim sáo đậu luôn lên vai Đức, kêu rất dễ thương. Đức buột miệng gọi:
- Mẹ.
Chim sáo bập bẹ nhắc lại.
Đức run lên. Bị cảm xúc bột khởi chi phối đến phát mê đi, Đức hổn hển lặp lại nhiều lần:
- Mẹ, mẹ ơi.
- Mẹ ơi - Chim sáo dụi đầu, áp mỏ vào má Đức mà kêu theo. Vành mắt bao quanh con ngươi như một hạt vừng đen bỗng đỏ hoe.
Một đứa trẻ mồ côi, một con chim thoát chết, lúc này như bị hút vào nhau, như đang thôi miên lẫn nhau, giao hòa trong một cảm xúc mãnh liệt. Tưởng như chỉ thái quá chút nữa, cả hai sẽ gục xuống vì kiệt sức.
Hôm sau bố Khôi sửng sốt khi bất chợt Đức hỏi:
- Sao dạo này cô Tuyết không đến nữa hả bố?
- Cô ấy đi hẳn rồi con ạ - Bố Khôi đáp - Đi công tác xa lắm.
Bố định hỏi vì sao Đức lại nhắc đến cô Tuyết. Nhưng tự thằng bé đã trả lời trước:
- Cô Tuyết nói đúng đấy bố ạ. Chết rồi, nhưng vẫn sống lại được chứ.
❖ ❖ ❖
Toàn mở cửa bước vào nhà. Một chiếc phong bì có con tem nước ngoài rơi trên nền gạch. Hẳn người đưa thư đã thuần thục với động tác lia cái thư qua khe cửa ở gần sát mặt đất, cho nên lá thư bắn khá sâu vào trong, không sợ gió bay mất, hoặc trẻ con nghịch ngợm khều ra. Đã đoán được thư của ai, Toàn không vội vàng. Anh dắt xe đạp vào khu vực công trình phụ, cởi bỏ quần áo ngoài, rồi mới nhặt thư lên. Mấy dòng chữ quen biết, một cái tên cũng rất quen biết ở góc trái: Lưu Quảng Minh.
Cũng không vội đọc, Toàn thở dài, đặt lá thư lên mặt bàn. Cái tên thân thiết như thế, quen thuộc như thế, giờ đây vang lên như tên một người nào từ thuở xa xưa. Mấy năm rồi, Toàn vào bộ đội, sau đó xuất ngũ, trở lại với công việc. Bao nhiêu biến động trong đời sống riêng, Toàn không phải cố gắng lắm cũng đã nhạt dần nỗi buồn về việc Minh đi xa hẳn. Cũng không ai nhắc đến Minh nữa. Hiệp và Trang ở xa, lâu lâu mới có thư từ thăm hỏi, nhưng biết tính Toàn, họ tránh nói về Minh.
Nghĩ đến đây, Toàn mới nhớ tháng trước, Toàn đến giúp bà Nhớn dọn nhà về khu Thành Công. Đang hì hục tháo cái giường đơn ra, xếp gọn lại, anh nghe bà Nhớn chép miệng:
- Thằng Minh học hành gì mà lâu thế, dễ đến chục năm ở nước ngoài rồi đấy nhỉ? Cái thằng đến là ráo mép và tháo vát đáo để.
Lúc ấy Toàn đang bận nên ậm ờ cho qua chuyện. Bây giờ nghĩ lại, Toàn hiểu lúc ấy bà Nhớn đang nhớ lại cái lần Toàn, Minh và Hiệp giúp bà bốc mộ và hỏa thiêu số hài cốt những người thân của bà.
Toàn bắt đầu quen Minh một năm trước trận bom B52 Mỹ trút xuống Hà Nội. Khi ấy Toàn vẫn còn thích nghe bà Nhớn kể chuyện âm dương, bóng quỉ, hồn ma. Điện thờ ở giữa nhà bà bao giờ cũng treo mấy bức tranh Thế mạng, hoặc tranh Đồng bóng . Nhiều lúc cao hứng, bà Nhớn còn cắt nghĩa rành rẽ cho Toàn hiểu những hình người trong bức tranh vẽ theo lối cổ là ai. Này đây là Ngọc Hoàng thượng đế. Bên dưới là Tam tòa thánh mẫu, Thượng thiên (tức là bà chúa Liễu Hạnh đấy), Thượng Ngàn, và Đức Mẫu Thoải. Dưới nữa là năm ông Hoàng và các cậu Quận... Ngay từ khi Toàn còn bé, những câu chuyện của bà đã đưa cậu bé vào một thế giới huyền bí. Vốn là một đứa trẻ hiếu động và can đảm, Toàn không vì thế mà sợ bóng vía ma quỉ. Nhưng chính vì thế mà cho đến bây giờ, Toàn vẫn cảm thấy mình có thể mở được cánh cửa ngăn cách giữa âm dương, có thể trò chuyện được với những người đã chết. Không những thế, Toàn còn trò chuyện trong ý nghĩ với những người ở xa như Trang và Hiệp, thậm chí đi xa hơn, đến một nước Đông Âu, nơi vợ chồng Minh đang sống.
Hôm ấy Toàn giúp bà Nhớn cắt những đường diềm hoa lá từ những tấm giấy màu. Bấy lâu bà Nhớn có thói quen mỗi sáng đặt một tách cà phê và một điếu thuốc lá đang tỏa khói lên bàn thờ chồng. Bà kể rằng dạo còn sống ông nghiện cà phê và rất thích thuốc Côtáp. Thời bây giờ chẳng kiếm ra Côtáp, đành phải thay bằng một điếu Tam Đảo bao bạc. Chắc ông cũng hài lòng, vì hôm nào điếu thuốc cũng cháy ngún, chỉ còn chừa lại một chút đầu mẩu. Mấy hôm vừa rồi, bà Nhớn vào Hà Đông thăm một người bà con. Bàn thờ lạnh hương khói, chắc ông về nhưng không có cà phê uống và thuốc hút, nên ông giận.
- Ông ấy chết trẻ, nên khỏe ma, thiêng lắm. Mới vài ba hôm không có người đèn nhang phục dịch, ông ấy đã vật vã hờn giận. Tao về đến nhà, ngó vào bàn thờ, thấy tấm ảnh ông ấy đã rơi úp sấp lên mặt bàn gỗ. Cái mặt kính bị nứt làm mấy đường thế kia kìa.
- Nhỡ có con chuột con mèo chạy qua làm rơi thì sao? - Toàn tỏ vẻ không tin.
- Nói nhảm nào - Bà Nhớn đe - Đầu óc chỉ toàn điều nghịch, hậu vận chẳng phát được đâu cháu ơi.
Toàn không tin điều bà Nhớn nói, nhưng không cãi nữa. Cậu thu dọn chỗ giấy vụn và những mẩu tre nứa thừa, đem xuống bếp. Siêu nước sắp sôi, Toàn nán lại chờ để mang lên đổ vào phích. Nhìn thấy cái que cời sắt để cạnh bếp, Toàn dúi nó vào trong bếp. Một đứa bạn mách cho Toàn cách dùng que sắt nung đỏ dí vào cái mụn hạt cơm. Nó sẽ cháy, đóng vẩy, rồi sẽ lặn. Lâu nay Toàn bị mọc một cái mụn cơm ở mu bàn tay trái. Không đau đớn ngứa ngáy nhưng hễ chạm vào cái nốt sần ấy, hoặc nhìn thấy, thậm chí chỉ nghĩ đến thôi, đã cảm thấy thật khó chịu. Nó gây cảm giác bực bội dai dẳng như một giọt mực rơi vào cái áo trắng, mỗi lần giở ra mặc, lại phải nhìn thấy. Cái nốt sần canh cánh sự thừa dư bất hợp lý, một điểm chưa hoàn thiện của con người. Nhiều lần Toàn đã chữa trị bằng cách thắt chỉ, lấy dao gọt dần từng mẩu da, cho đến lúc bật máu... nhưng cái mụn hạt cơm mọc ra ở đâu thì vẫn ở nguyên đấy.
Toàn rút cái que sắt ra khỏi bếp lửa. Bặm môi dí vào cái mụn hạt cơm. Á á, Toàn buột miệng thét lên, cuống cuồng quẳng ngay cái que cời đi. Tia khói mới xì ra, tan ngay lập tức, nhưng cái đầu mụn cơm bỏng rát. Toàn chạy bổ lên nhà, bàn tay vẩy như vẩy nước.
- Làm sao mà nhảy choi choi như lên đồng thế hả Toàn?
Vẫn nhảy nhót xuýt xoa, Toàn chìa tay ra cho bà Nhớn thấy cái mụn cơm bị phồng rộp tím tái.
- Úi giời ơi, rõ nhớn xác mà dại hết đường dại - Bà lập tức tru tréo lên, rồi đổi giọng khổ não - Sao không nói trước với tao, tao bảo cho cách chữa? Này nhá, mồng Năm tháng Năm sắp đến rồi. Sáng tinh mơ, mày chạy vào trong ngõ, đến bên cây gạo. Nhớ là không để cho ai biết đấy...
Sáng sớm ngày "giết sâu bọ", Toàn chạy vào một cái ngõ sâu cùng phố. Đi vào chừng hai trăm mét, gặp một cái hồ. Bên hồ có một cây gạo, thân lúm chúm những núm gai. Nhìn trước nhìn sau, không có một bóng người, Toàn thụp xuống, tựa vào thân cây sần sùi. Trong lòng bàn tay vẫn cầm mấy hạt muối. Toàn lấy một hạt muối to, sắc cạnh, cẩn thận đặt lên đầu cái mụn hạt cơm, rồi khéo léo áp tay vào cây gạo. Hạt muối trắng óng ánh kẹp giữa cái vú gạo và cái mụn hạt cơm. Toàn nhắm mắt lại, lẩm bẩm thành tâm:
Hạt cơm hạt gạo, tao trả mày đây
Hạt cơm hạt gạo, tao trả mày đây
Toàn không mường tượng thấy có một đấng thiêng liêng nào ở trên cao xóa cho cậu cái vật dư thừa bất hợp lý. Cũng không thấy rõ ràng ranh giới giữa trời và đất. Tất cả nhập lại làm một. Một biển ánh sáng vàng trong suốt. Một con người là cậu ta, lươn lướt trong không gian đầy ánh sáng, khao khát được trút bỏ những gì chưa hoàn thiện.
Hạt cơm hạt gạo, tao trả mày đây
Hạt cơm hạt gạo, tao trả mày đây
Cảm thấy một luồng ánh sáng cứ xoi xói vào người mình, Toàn gượng không để ý, cố nhắm mắt như để giữ phép thiêng cho câu thần chú. Nhưng cậu vẫn cảm thấy thực sự có một bóng người trước mặt. Chịu không nổi nữa, Toàn mở choàng mắt. Một cậu con trai, cỡ cùng tuổi, đang đứng nhìn Toàn, vẻ lấy làm lạ. Cậu này mặt hoa da phấn, môi đỏ chót, xem chừng là một tay đỏm dáng.
- “Hạt cơm hạt gạo", chẳng hay nó là thứ vật phẩm gì trên cõi đời này, thưa đại huynh? - Cậu ta hỏi giọng giễu cợt và chạy nâng cao đầu gối tại chỗ.
Thế là cách chữa mẹo mất thiêng. Toàn thất vọng rút tay về, thả cho hạt muối rơi xuống. Quái quỷ nào lại xui cậu ta chạy thể dục buổi sáng qua đây nhỉ? Cùng lúc Toàn hơi ngượng vì bị cậu ta bắt gặp đúng lúc đang nhắm mắt lẩm bẩm như một kẻ mê tín dị đoan.
Họ biết nhau từ hôm ấy. Ở cùng một phố, hai cậu thỉnh thoảng lại chạm trán trên đường. Anh bạn kia có vẻ ăn diện nhất trong đám bạn bè cùng lứa, tóc lúc nào cũng chải mượt. Thấy Toàn, anh ta nháy mắt, cười như chế giễu. Còn Toàn, mỗi lần gặp anh ta là một lần ngường ngượng, nhớ lại việc chữa trị không thành. Phải hết mùa hè năm ấy, khi cả hai cùng vào một trường cấp ba, cùng học lớp 8D, Toàn mới quen Minh - anh chàng chải chuốt nọ. Không chỉ đỏm dáng mà thôi, Minh còn thích nói những lời hoa mỹ, hoặc những câu triết lý to tát, nhiều câu do Minh nghĩ ra, hoặc cải tiến từ những câu sẵn có. Một lần thầy giáo dạy văn dẫn một câu đại ý "Con người là hoa của đất". Thế là trên đường về, Minh ngửa cổ nhìn những đám mây trên trời, cao hứng thốt lên:
- Ôi chao, những đám mây là hoa của bầu trời.
- Thế còn mây đen? - Toàn láu lỉnh hỏi.
Minh chẳng hề lúng túng, đáp rất trơn tru:
- Có hoa cúc, hoa hồng, thì phải có cả những loại hoa tầm thường, xấu xí. Đúng, mây đen là hoa cứt lợn của bầu trời.
Toàn và Hiệp cười phá lên, trong đầu hiện ra một cảnh suy diễn: những "bông hoa xấu xí" kia tan thành mưa, trút xuống phố phường. Nhưng Minh thì cố giữ vẻ nghiêm nghị, tỏ ra tự đắc vì mới nghĩ được một câu thuộc loại "ý đẹp lời hay".
Quả thực Minh có một cuốn sổ tay, chép đầy những ý đẹp lời hay của các danh nhân thế giới. Nhưng những lời vàng ngọc đem ra khoa trương trước bạn bè là của chính Minh. Dựa vào câu: "Than là bánh mì của công nghiệp", Minh tung ra một câu: "Sách là bánh mì của tâm hồn". Chứ không ư? Tâm hồn mà không được nuôi dưỡng bằng "bánh mì" của nó - tức là sách - thì tâm hồn cũng chết tàn chết lụi. Đến mức ấy đám bạn bè vẫn có thể gật gù chịu được. Song những câu triết lý Minh nghĩ ra cũng thật tức cười vì sự bí hiểm. Trong cánh con trai lớp D đã có lần bùng nổ một cuộc tranh luận dữ dội xung quanh câu: "Mẫu số chung của cuộc đời là lòng nhân ái". Không bên nào thống nhất với bên nào xem tử số là cái gì, và bản thân phân số có phải là cuộc đời không, hay là một điều gì khác?
Dù sao có một triết gia hạng vườn láu lỉnh, một lớp trưởng đối đáp như chớp và tháo vát trong công tác như vậy là tăng thêm sinh khí cho lớp. Ở nhà cũng vậy, bố mẹ đều làm ở công ty bách hóa, đi vắng suốt ngày, nhưng dưới sự chỉ đạo của Minh, và hai đứa em gái thực hiện, công việc răm rắp đâu vào đấy. Một hôm ăn cơm xong, Minh cất lời ngon ngọt bảo hai đứa em gái đang ganh tị với nhau:
- Anh nhiều tuổi nhất nhà, bầu anh làm tổ trưởng nhé.
- Phải đấy - Hai đứa em bùi tai gật đầu như mổ thóc.
- Thế thì tổ trưởng cám ơn sự tín nhiệm của các đồng chí, và xin phân công như sau: Hương đi rửa bát, còn Thu đi giặt quần áo cho tổ trưởng.
- Tổ trưởng không phải làm gì à? - Một đứa thắc mắc.
Minh khoát tay:
- Chỉ nghĩ ra cách phân công hợp lý, sao cho Hương và Thu đều có việc làm, không ai phải làm nhiều hơn ai, chỉ thế thôi là lãnh đạo đã đau đầu lắm rồi. Nào, làm việc đi, lao động là vinh quang, hỡi các thần dân của trẫm.
Rốt cục, Minh không phải động tay động chân vào một công việc gì. Hai đứa em gái thường chỉ thắc mắc lẫn nhau. Một khi đã có công việc công bằng, chúng làm rất hăng hái.
Vào dịp ấy sau một thời gian chuẩn bị, bà Nhớn xem ngày lành tháng tốt để bốc mộ cho chồng và một bà cô chồng. Bà nhờ Toàn ướm lời với Minh và Hiệp đến giúp thêm một công. Chắc chắn là Hiệp sẽ nhận lời, anh chàng chịu khó và chất phác như con nhà nông. Nhưng anh chàng Minh áo đỏ áo xanh và mồm miệng đỡ chân tay cũng vui vẻ đồng ý.
Buổi sáng, ba người bạn theo sau bà Nhớn và bốn ông cải mả, kéo một cái xe cải tiến chở một can dầu, một cái làn mây đựng mấy chai rượu, hai cái bát hương, mấy gộc củi... Đi sâu vào trong cái ngõ ngoắt ngoéo hơn một cây số mới đến khu vườn cũ của nhà bà Nhớn, bây giờ một người cháu họ chăm nom. Ba cậu bạn tay mai tay xẻng giúp mấy ông cải mả đào hai cái mộ. Khi chạm đến áo quan, đứa nào cũng ngại, nên ngừng tay, đứng xem mấy ông thợ thao tác. Các ông này thành thạo bật nắp áo quan. Bên trong nước ngập lõng bõng, đen xỉn như nước cống. Minh chun mũi, đứng dịch ra sau. Hai ông thợ lội sang bên cạnh, thò tay vào trong khoắng từng cái xương. Họ cầm lên từng khúc xương ống chân, ống tay, kỳ cọ tỷ mỷ cho đến khi những cái xương lộ màu nghệ xỉn. Được chiếc nào, họ chuyền cho những ông thợ đứng ở trên, bỏ vào trong cái chảo gang cỡ lớn. Đây là bộ xương bà cô chồng bà Nhớn. Bà Nhớn đỡ lấy cái xương sọ, hai hàng mi nhoèm nước giật giật mấy cái. Rồi bà khóc òa lên:
- Đúng cô tôi đây rồi. Cô tôi ngồi bên thành xe khách, bị một cái xe nhà binh Tây đâm vào ở gần khách sạn Mêtrôpôn. Vết thương ở sọ vẫn còn đây mà. Cô ơi là cô ơi, ngày xưa cô đẹp như thánh mẫu Thượng Thiên...
Ngay lúc ấy ở dưới cái mộ bên cạnh, một ông thợ cầm cái xương sọ gõ vào thành gỗ. Nó nổ đánh bụp, bùn và nước trong hộp sọ bắn tóe lên mặt. Ông ta nhắm tịt mắt, quờ quạng bảo ông bạn đứng bên cạnh kéo vạt áo lau hộ.
Minh kéo tay Toàn và Hiệp, đi tìm mấy viên gạch, dựng một cái bếp lửa bên cạnh một ngôi mộ. Trong khi mấy ông cải mả đang dùng rượu rửa tay và uống vài ngụm, Minh lúi húi nhóm lửa, đẩy Toàn và Hiệp đi khiêng cái chảo đựng hai bộ xương. Họ rót dầu vào chảo cho ngập hết đám xương, rồi bắc lên bếp lửa. Hơi củi cháy, mùi khói bếp và mùi dầu nóng dần lên xua bớt cái tanh lợm của huyệt nước đen lõng bõng, của những tấm ván đen đúa lẫy nhẫy bùn. Ôi, con người khi sống là cả một bộ máy tinh xảo của thiên nhiên, cả một thế giới tâm hồn phong phú và tươi mới. Lúc nằm xuống chỉ còn là một nắm xương vô nghĩa giữa nơi nhuễ nhõa vậy ư? Cuộc sống nhiều khi hợp lý và công bằng, nhưng cũng thật trớ trêu và cay nghiệt làm sao.
Những cái bọt dầu bắt đầu sủi lên. Một ông thợ rút cái gộc củi, châm lửa lên mặt dầu đang bốc hơi. Xương ngập trong dầu cháy ngun ngún. Ngọn lửa xanh luồn lách trong các kẽ hở giữa những chiếc xương. Xương ngả dần thành màu đen, dần dần rục ra, có chỗ ngả màu bạc như tàn thuốc lá. Bà Nhớn bảo Toàn và Minh vần cái cối trên xe cải tiến xuống, lăn đến bên bếp lửa. Dầu trong chảo đã cháy hết. Họ bốc xương, bỏ vào cối, giã thản nhiên. Bịch bịch, lạo rạo, như giã cua.
Toàn bỗng rùng mình. Một năm sau cha Toàn mới chết, một năm sau Toàn mới trở thành kẻ sát nhân mà không ai biết. Nhưng lúc này cậu đã linh cảm thấy điều bất hạnh nào đó trong tương lai. Ngay từ bấy giờ, Toàn đã lờ mờ thấy sự nghiệt ngã của cái chết. Sau khi đất làm tròn nhiệm vụ phân hủy hết phần mềm trong cơ thể, đến lượt lửa và cối giã thực hiện công đoạn cuối cùng, để con người thực sự trở về làm một nắm tro bụi, để bà Nhớn run run bốc bỏ vào trong hai cái hũ đất nung con con. Giá như không phải chứng kiến cái cảnh ấy, chắc hẳn giờ đây trái tim Toàn bớt đau đớn dai dẳng mỗi lần nhớ đến không khí chết chóc tràn lên phố phường cuối năm 1972.
Ba người bạn ngủ một giấc li bì ở nhà Toàn, sau bữa rượu buổi trưa ở nhà bà Nhớn. Gần bốn giờ chiều, Minh tỉnh dậy, vừa vươn vai ngáp dài vừa nói:
- Đành rằng thái độ tôn kính đối với gia tộc cũng là nền tảng xây dựng nhân cách con người, nhưng tớ không ưa sự thờ phụng mê tín. Mê tín dị đoan là mẩu ruột thừa trên cơ thể xã hội.
Toàn cười thầm, đưa mắt nhìn sang Hiệp. Anh bạn này thật thà há miệng nghe Minh triết lý. Nhưng Toàn biết tỏng đấy là biến ngữ của nhà giáo dục Xô Viết Xukhômlinxki: "Ung nhọt trên cơ thể xã hội chúng ta là tệ nghiện rượu". Anh bạn ơi, thật không may là tớ đã đọc câu ấy. Cậu chỉ việc thay "tệ nghiện rượu" bằng "mê tín dị đoan", "ung nhọt" bằng "mẩu ruột thừa" thôi mà.
❖ ❖ ❖
Xích lô dựng ngang ngốn chật cả sân. Trên chiếc nào cũng chất năm sáu thùng bia rỗng. Chủ của chúng tụ tập trong căn phòng khoảng ba chục mét vuông của tổ hợp tác. Ngay dưới ngọn đèn điện đùng đục màu đỏ đồng, một nhóm vây quanh mấy ông chơi "ba cây". Những tiếng xuýt xoa vì bị lẻ mất bộ "mười ông cụ", những tiếng vỗ đùi đánh đét khoái trá, những cái ngáp dài ngán ngẩm. Ở góc bên kia, chốc chốc lại có người mới đến, giằng giật nhau tờ giấy ghi tên xếp hàng. Những người đạp xích lô đến trụ sở hợp tác vào lúc chín mười giờ đêm chủ yếu để làm công việc ghi tên. Sau đó họ ngồi lại, chơi hay ngủ tùy ý, nhưng phải có mặt để giữ không cho người mới đến xáo trộn thứ tự. Nếu tờ giấy chi chít tên người, không còn chỗ ghi thêm, phải thay bằng tờ khác thì phải luôn luôn để mắt. Lơi lỏng một tý là trong danh sách mới không có tên mình. Cho nên cuộc cãi cọ thường xoay quanh tờ giấy ghi tên họ.
- Thằng Toàn hôm nào cũng đến sớm, tên ghi đầu bảng, bao giờ cũng lấy được bia chuyến đầu. Làm như trâu để kiếm cái thẻ mất sức vì lao lực hả mày?
- Đừng có vừa ghi tên vừa nói chuyện, thiếu mất tên tao rồi kìa. Ghi vào đi: Đỗ Văn Xích. Mẹ kiếp, ông bà bô đặt tên gì mà xích với xiềng, khéo lại vào Hỏa Lò sớm.
- Xích ghi tên hộ tao với, bài đang đẹp quá.
Ở một góc nhà, Toàn đang ngồi trên một chiếc ghế đẩu, tựa đầu vào tường ngủ lơ mơ. Ngủ thế, nhưng lúc nào có người định thay tờ danh sách, Toàn đều biết. Cậu choàng mắt, ngồi thẳng dậy, đánh tiếng cho bọn láu cá định chen ngang lên đầu biết mình đang tỉnh táo. Những lúc ngủ chập chờn như vậy, Toàn thấy mình mở được cánh cửa ngăn cách âm - dương, đang trò chuyện với những người chết. Từ sau cái đêm chui ra khỏi đống đổ nát, đã gần hai năm rồi, ở Toàn xuất hiện một triệu chứng giống như tâm thần. Lúc bình thường cậu vẫn hòa vào đám bạn bè, học hành, sinh hoạt như mọi người. Nhưng khi chỉ có một mình, trong đầu Toàn lao xao như sân trường giờ nghỉ. Những người đã chết, hoặc những người ở xa, đi lại, nói cười bằng điệu bộ và chất giọng của chính họ, có thể phân biệt rõ mồn một. Cũng có thể bởi Toàn có một khả năng tưởng tượng phi thường chăng?
- Ái chà - Một người trong đám đánh bài vò đầu tắc lưỡi - Chỉ có "chín cửu sừng" thôi.
- Xem nào, con bốn nhép, con sáu cơ, con chín rô. Đúng là "chín cửu sừng" thật. Thế thì tẩu đi cho sớm. Của anh mày là "mười nhà quê" cơ em ạ.
Đám đánh bài cười vỡ ra. Có chuyện gì mà cười lâu thế? Toàn mở mắt nhìn họ rồi đưa mắt ra cửa. Minh vừa mới bước vào, đang ngơ ngác tìm xem Toàn ngồi ở chỗ nào. Nhận ra Toàn, cậu ta xô tới:
- Toàn, đi về - Minh vồ lấy tay Toàn, giọng rung lên đầy hưng phấn.
- Sao lại về? - Toàn hỏi lại, mặc dù đã phấp phỏng đoán ra.
Minh kéo tay Toàn dậy, lôi đi theo ra sân. Cậu ta thấp giọng hổn hển:
- Đỗ rồi, thưa cậu tú. Cái đích vinh quang sau một chặng đường gập ghềnh khúc khuỷu đã hiện rõ trong tầm mắt. Cậu được 20,5 điểm, còn mình 24...
Đám người trong nhà bỗng vỗ tay reo hò ầm ĩ. Chắc vừa có một cú diệt nhau đích đáng. Toàn lặng người đi, bóp chặt cổ tay Minh trong bàn tay đầy chai của mình. Tin tưởng sẽ đỗ đại học, Toàn vẫn cảm thấy bàng hoàng khi cái tin ấy vang lên một cách chính thức, trong cái sân chập choạng ngổn ngang xích lô này.
- Về thôi - Mắt Minh phát ra những tia sáng chóa lóa, gương mặt đầy khích động - Phải tự cho phép mình được thả lỏng vài ngày chứ.
Vừa nói, Minh vừa lăng xăng chạy tới đẩy những chiếc xích lô dúi vào một bên, lấy lối cho Toàn đẩy xe ra. Mấy cái xích lô xô vào nhau lổng chổng.
- Đứa nào thế? - Một người chạy ra quát hỏi. Nhưng hai người bạn đã vù ra đường.
Đêm ấy gần rằm trung thu. Vầng trăng chưa tròn đầy, nhưng đã là một lời hứa hẹn đáng tin cậy rằng nó sẽ hoàn thiện. Đấy là Minh vừa ngửa cổ nhìn trăng vừa thao thao lý sự. Minh cứ nói, và Toàn cứ nghĩ. Đúng hơn Toàn nghĩ ít, mà tự nhìn thấy cái cảnh hai người bạn phóng đi dưới trăng nhiều hơn. Đầu tiên Minh chạy theo xe. Một lát sau cậu ta nói một cách văn hoa rằng chạy theo xe là một hành vi không mấy xứng đáng với một chàng sinh viên tương lai, và đòi ngồi lên trên mấy thùng bia. Toàn bật cười. Anh chàng Minh chồm chỗm như một con cóc cụ trên đống thùng han gỉ, đôi lúc phải bám vội vào thành xe vì suýt tuột xuống. Trong tư thế ấy trông anh chàng thích tạo dáng càng buồn cười hơn. Hôm nay Minh tự cho mình cái quyền được thả lỏng, nên không cần giữ ý, không thấy ngượng ngùng.
- Cậu được hăm bốn điểm, chắc chắn sẽ được đi du học - Toàn bồi hồi, như sắp phải xa Minh.
- Mình sẽ gửi cho cậu một cái xích lô máy để tiếp tục hành nghề - Minh nói thản nhiên, như thể đó là một cam kết từ trước giữa hai người.
- Không cần đâu - Toàn cười - Mình vào đại học, một tháng được mười tám đồng học bổng là đủ sống. Không cần phải chở bia nữa.
Gần đến ngã tư đường, Toàn đưa tay lần tìm cái chuông làm từ vỏ bom bi treo bên thành xe, lắc lanh canh. Minh ớ một tiếng, cùng lúc Toàn nhận ra hai người đang kéo một cái xe cải tiến đầy xỉ than ở phía trước. Hiệp cầm càng cần mẫn. Trang cắm cúi đẩy đằng sau. Toàn không có ý định gọi họ, nhưng Minh vẫn quay lại, xua tay ra hiệu đừng lên tiếng. Cậu ta khoát tay, bảo Toàn rẽ sang đường khác.
- Quả là hạnh phúc nảy sinh trong lao động - Minh gật gù, không rõ nghiêm túc hay giễu cợt. Rồi cậu đổi giọng chê bai - Hiệp sẽ thành một tay culắc căn cơ thu vén cho mà xem. Chẳng chơi bời gì, suốt ngày tối mắt lại vì xỉ than, rồi đóng gạch. Cậu ấy định xây nhà cưới vợ chắc?
Về chuyện làm nhà, Toàn thông cảm với Hiệp hơn. Sau mười hai ngày đêm bom Mỹ ném xuống Hà Nội, nhà Toàn chỉ bị bay ngói, đã lợp lại được. Nhưng nhà Hiệp bị đánh sập hoàn toàn. Sau Tết Nguyên đán, bà con ngoại thành gửi vào thành phố những căn nhà lá ghép bằng phên tre nứa. Căn nhà Hiệp đang ở nằm trong số những căn nhà tình nghĩa ấy. Đã hai năm qua, giờ đây bố mẹ Hiệp có ý định gom góp dần để xây lại căn nhà. Chiều chiều Hiệp kéo cái xe cải tiến đến cơ quan mẹ làm cấp dưỡng, xin xỉ than để đóng gạch. Thỉnh thoảng Toàn vẫn đến giúp bạn mấy chuyến. Bất ngờ một hôm, trên đường đi, Toàn thấy Trang đang hào hứng đẩy xe cho Hiệp. Choáng váng vì bất ngờ, Toàn quay xe bỏ về. Hôm nay lại gặp họ đi chở xỉ cả vào buổi tối. Quan hệ giữa Hiệp và Trang đã tới độ gắn bó như vậy sao? Minh thường công khai chế giễu cái tính chất phác tận tụy với bạn bè của Hiệp là quê kệch. Tính cần cù bị chê là ham tích cóp làm giàu, đầu óc không thoáng. Thế hệ thanh niên này đi qua chiến tranh và chịu nhiều mất mát, sớm phải bước vào cuộc đời lao động, sớm phải tự lo cho mình và cho mọi người. Tuổi xuân thiệt thòi, không có nhiều thời gian vui chơi giải trí, họ đâu được vô tư lự như Minh. Toàn thầm bênh vực Hiệp trước sự bẻ bai của Minh. Nhưng cậu không gạt được nỗi ưu tư đang cộm lên như một viên sỏi trong lồng ngực. Trang hợp với Toàn hơn chứ. Chưa kể Toàn là người đầu tiên quen Trang, rồi làm cầu nối cho cả nhóm. Thế mà những lời lẽ văn hoa và cử chỉ tao nhã của Minh không hấp dẫn đối với Trang. Cả tình cảm nồng nhiệt nén giữ trong lòng Toàn, Trang cũng chẳng cảm thấy. Trang đã chọn anh chàng Hiệp cù mì và chắc chắn kia. Oái oăm thay, Toàn cũng rất quý Hiệp.
Đến gần cửa hàng bia, Minh nhảy phốc qua thành xe, làm Toàn phanh không kịp, phóng qua một đoạn mới dừng lại.
- Chúng mình thử làm những kẻ nghiện ngập một đêm, xem thử cái "ung nhọt của xã hội" nó mưng mủ như thế nào?
Câu ví von cầu kỳ của Minh hóa ra lại rất mất vệ sinh.
Dựng xe trước cửa, Toàn bước thẳng đến quầy vé, mua được ngay. Toàn đưa bia về đây thường xuyên nên được ưu tiên. Toàn chỉ mua bốn vé, nhưng cô bán hàng rót cho sáu vại bia, còn cho thêm mấy gói lạc. Hai người bạn mang bia đến ngồi bên một cái bàn đã ướt nhuễ nhõa vì bia sánh ra.
- Chúc bác du học thành công, mang về trình anh em một cái bằng đỏ.
- Hễ uống bia là tôi có thể phát khóc. Tôi đi sáu bảy năm, lúc trở về biết đâu bác lại vừa mới Tây du. Bác sẽ đi nước ngoài như đi chợ. Thế đấy, trước mắt chúc bác làm ăn phát tài trong đoàn xe ba bánh.
- Chúc bác đi một chuyến tàu liên vận an toàn.
Bia sánh ra miệng cốc. Vỏ lạc lép nhép trên mặt bàn. Hai chàng thanh niên chúc tụng nhau, vẻ trịnh trọng đùa cợt. Đằng sau nó lấp ló nỗi xúc động của con trai, có chiều hướng sẽ lộ dần ra. Khi đã bén chút hơi men, người ta không giấu giếm tình cảm thật, không e ngại sẽ bị cười chê. Sang vại bia thứ ba, Minh đột ngột đặt tay lên bàn tay Toàn để trên mặt bàn:
- Mình thích cậu, ngay từ cái hôm cậu ngồi bên cây gạo lảm nhảm như một thằng lẩm cẩm: "Hạt cơm hạt gạo, tao trả mày đây". Mình chẳng hiểu nó là cái quái gì. Lúc ấy mình chỉ nghĩ, thằng này mặt mũi sáng sủa, không dở hơi một chút nào đâu. Rồi mình thích, thế thôi.
Toàn nhìn hai quầng mắt đỏ hồng của Minh, hỏi đùa:
- Bây giờ chuyển sang mục "Tâm sự" của chị Thanh Tâm hả?
- Không, đây là cam kết giữa hoàng đế của hai vương quốc có hàng triệu hồng cầu - Minh gật đầu quả quyết và nhắc lại - Đúng, chúng mình nên có một cam kết: dù có hiểu nhầm, có xích mích, thì cũng không bao giờ xa lánh nhau, hơn thế, phải thường xuyên có trách nhiệm với nhau...
- Vậy thì trong sáu năm tới, cậu sẽ là người thiệt thòi - Toàn vẫn đùa.
Minh tròn mắt, rướn tới. Anh chàng láu lỉnh khi chuếnh choáng lại hóa ra khờ khạo, tưởng Toàn nói thật:
- Cậu điên rồi. Một khi đã là bạn, lại có cả cam kết, trong từ điển của chúng ta không bao giờ có từ hơn kém, thua thiệt nữa. Đồng ý bỏ phiếu thuận không nào?
- Đồng ý - Toàn cười, nhấc tay lên cho Minh nắm trọn.
Minh đưa tay kia lên gõ gõ vào trán, như sực nhớ ra một sai sót. Cậu ta nhăn nhó nhìn quanh quất, muốn tìm một cách thức thay thế. Đoạn, Minh lắc đầu, thở dài sườn sượt:
- Ôi chà, giá mà cậu biết xăm. Chúng mình sẽ thích lên bả vai nhau một chữ...
Toàn khoái chí cười rộ:
- Làm như bọn du đãng ấy à?
- Một người lương thiện cũng nên có một phút du đãng, có điều chỉ du đãng với chính mình thôi, không làm hại ai cả.
Cuối cùng anh chàng "du đãng với chính mình" kéo ghế đứng dậy, khoát tay ra hiệu cho Toàn cùng ra khỏi cửa hàng. Gần mười giờ đêm. Góc phố này điện yếu, thành ra trăng càng sáng. Có tiếng lùng tùng của một chiếc trống con ở phía xa và thấp thoáng vài cái đèn ông sao đốt nến. Đã có dấu hiệu báo trước một đêm trung thu rồi đây.
- Để mình làm xế lô một đoạn - Minh gạt Toàn ra, nhảy lên xe. Sau mấy mét đường loạng choạng như rắn lượn, Minh đạp quen dần. Cậu bắt đầu phóng như lửa cháy sau lưng.
Đạp xe chán, Minh bảo Toàn thay, và trèo lên ngồi trên thùng bia như lúc rời trụ sở Hợp tác. Toàn định đạp thẳng xe về nhà để đi ngủ, nhưng Minh dứt khoát không cho. Có chút bia vào, anh chàng đang hăng máu. Ngồi trên những thùng bia trơn tuột, thỉnh thoảng suýt ngã nhào vì xe nảy lên ở những chỗ xóc, Minh láng cháng giữ thăng bằng như một anh hề xiếc. Nhưng lúc hai bánh xe chồm lên trên một cái nắp cống cập kênh, mấy cái thùng bia lăn xuống đường, thì Minh không cưỡng được. Cái thùng Minh đang ngồi trôi xuống, lăn qua càng xe. Minh hấp tấp bám vào cái thùng ở phía sau. Cái thùng này cũng lăn xuống đường nốt. Minh ngã xoài ra giữa đường. Những thùng bia lăn ầm ầm xung quanh, như một đàn lợn sổng chuồng. Toàn định chạy đến xem Minh có làm sao không, đã thấy cậu ta lồm cồm bò dậy, nhanh nhẹn lăn những cái thùng trở lại, chất lên xe.
Hai người bạn đạp xe đi lung tung đến hơn một giờ sáng. Gặp ai Minh cũng trêu. Từ mấy chị công nhân đi làm ca đêm cho đến ông bán bánh khúc nóng đạp xe đi rao. Cái trò trêu những người bán hàng rong, Minh đã thành tinh. Có dạo, thấy một bà gánh hàng đi trong khu tập thể miệng rao: "Ai bánh trôi bánh chay", Minh rao theo: "Ai lấy tôi lấy ngay". Một bà khác rao: "Bánh dầy giò chả", Minh liền cao giọng: "Thánh đầy mồ mả"... Nhớ lại những trò tếu táo của Minh, Toàn bật cười một mình. Đêm khuya cỗ xe trôi trên đường phố vắng rải đầy ánh trăng. Trên xe có hai chàng trai say trong niềm vui, và khao khát...
❖ ❖ ❖
Minh đi một mạch bảy năm. Trong thời gian ấy có những đổi thay to lớn: đất nước hoàn toàn thống nhất. Cả nước hân hoan bắt đầu thời kỳ xây dựng mới với niềm tin vào một tương lai đầy hứa hẹn. Nhưng bắt đầu những khó khăn đầu tiên, dễ thấy nhất là trong đời sống vật chất của người lao động. Như để chứng thực cho lời người xưa: "Họa vô đơn chí", những cuộc xung đột ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc nổ bùng ra. Thần kinh xã hội căng thẳng tột độ.
Trong tình hình ấy, có thêm một người nóng nảy, thiếu bình tĩnh, tức là thêm một trận gió nóng giữa mùa hè ngột ngạt. Những đổi thay bất ngờ với những chấn động dữ dội, những mảng màu chói gắt, đến mức những người trong cuộc còn bàng hoàng, chưa nhận thức được một cách biện chứng, chưa xử lý được một cách sáng suốt. Chưa nói gì đến những người ở xa Tổ quốc, chỉ biết tình hình qua báo chí đến chậm, qua những nguồn tin từ một góc độ khác, kèm thêm những đánh giá vội vã. Những chàng sinh viên như Minh, rời đất nước mới mười bảy mười tám tuổi, nhận thức về lịch sử tổ tông, về điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị của đất nước còn non nớt. Nhân cách chưa ổn định. Bản lĩnh và ý chí chưa được tôi luyện qua thực tế đất nước. Họ còn thiếu nhiều quá, thế mà lại phải tiếp nhận một loạt biến cố phi thường, một loạt đổi thay theo chiều hướng nhiều năm sau vẫn sẽ còn gây tranh cãi, lại là sự tiếp nhận gián tiếp, cách bức như thế.
Ban đầu thư từ trao đổi giữa Minh và Toàn chỉ đơn thuần những chuyện riêng tư. Toàn kể chuyện học hành, nhà cửa, sinh hoạt phố phường. Minh viết rất dài về những danh lam thắng cảnh ở nước bạn, về những người bạn mới, những chuyện vui do sự giao tiếp lúng túng ban đầu... Dần dà động chạm tình hình đất nước. Toàn kinh ngạc thấy người bạn có những ý kiến chủ quan, cay nghiệt và nóng vội. Toàn hiểu những lời kêu ca, phàn nàn, đôi khi chế giễu kia, xuất phát từ dụng ý tốt, muốn cho Tổ quốc mình vươn lên bằng người. Nhưng mới có mấy năm sống ở nước bạn, Minh đã có nếp nghĩ đặc sệt ngoại quốc và trở nên rất cực đoan. Đọc những lời nhận xét của Toàn (Toàn cũng viết trong một cơn bực bội bột phát), Minh lập tức ném trả thẳng thừng: "Cậu hãy cẩn thận, kẻo sắp thở thành một tay bảo hoàng hơn vua, một tay giáo điều cứng nhắc rồi đấy".
Toàn coi đó là một lời nói vượt quá ranh giới tình bạn, một lời xúc phạm thiếu suy nghĩ. Anh không trả lời hai lá thư sau đó của Minh. Sự im lặng căng thẳng kéo dài hơn một năm. Cuối cùng, Minh phải viết: "Mình vẫn nhớ rất rõ câu thần chú của cậu buổi sáng hôm ấy: "Hạt cơm hạt gạo, trả cho mày đây". Đó là khát vọng của con người muốn tiêu bỏ những gì bất hợp lý, để đạt tới hoàn thiện. Con đường vươn tới sự hoàn thiện bao giờ cũng phải có sai lầm. Có thể chúng ta cùng nhầm lẫn một cái gì đó chăng? Cậu trả lời mình đi chứ? Chẳng nhẽ vì những cuộc tranh luận để hướng tới sự hoàn thiện, chúng mình lại gây ra một lỗ hổng rất lớn trong cuộc đời: đó là thiếu tình bạn?"
Toàn rất sợ để mất tình bạn. Thôi dẫu có thế nào, dẫu Minh có là ai đi nữa, Minh vẫn là bạn. Anh bạn dạo trước thường làm Toàn khó chịu về sự hoa mỹ và làm đỏm, nhưng cũng là người thành thật đề nghị một cam kết và xăm lên vai, để làm “du đãng của chính mình". Toàn viết thư trả lời, coi như không có chuyện trục trặc nào. Bức thư sau, Toàn đã giật mình đọc thấy dòng chữ: "Ngày 18-7-1981, cậu thu xếp ra sân bay đón mình". Thời gian trôi nhanh khủng khiếp, thế là đã hết bảy năm rồi ư?
Nhưng đúng ngày Minh hẹn đi đón, Toàn bận làm việc với một đoàn khách nước ngoài. Lẽ ra Toàn đã được nghỉ, chuẩn bị nửa tháng nữa lên đường nhập ngũ. Cơ quan đã nhận được giấy báo, nhưng Vụ đang thiếu người, Toàn đành nhận làm thêm vài ngày. Trước hôm Minh về, bố Minh gọi điện thoại cho Toàn, hẹn sáng hôm sau cùng cả gia đình đi lên sân bay. Không thể bỏ việc mà đi được, Toàn viết mấy dòng, nhờ ông bố đưa cho Minh ngay khi anh xuống đến sân bay:
Minh thân
Mừng cậu đã trở về. Mình rất tiếc vì không thể đi đón cậu được, công việc mà. Ngày mai mình sẽ đến. Chắc sẽ có rất nhiều chuyện để nói.
Toàn của cậu
Sáng hôm sau, Toàn chưa kịp đi, Minh đã tìm đến rất sớm. Anh chàng Minh đã thành một người cao lớn, không kém gì Toàn. Ngày xưa hai người thuộc loại có dáng vóc nhất lớp. Tóc chải ngôi giữa, da dẻ trắng lạ lùng, áo quần bảnh bao như một chàng công tử bột. Minh ôm choàng lấy bạn, tay đấm đấm vào lưng Toàn như thử xem độ dầy mỏng của tấm thân.
- Không thấy cậu ra đón, mình hơi buồn. Vẫn còn giận hả?
Toàn ngạc nhiên:
- Thế không ai đưa thư của mình cho cậu sao? Mình đã xin lỗi vì bận việc, mãi đến mười giờ đêm hôm qua mới xong đấy.
- Ô la la, chẳng ai nói gì với mình cả - Minh hiểu ra, bực bội phẩy tay - Họ cứ bâu lấy mình, xoay mình đến chóng mặt. Toàn những người lúc thường chẳng thấy mặt đâu, đến khi có một thằng đi Tây về lập tức đổ xô đến. Đúng là trăm ông thày cúng đánh hơi được một cái xác chết.
Nhiều lúc Toàn cũng gợn nghĩ như vậy. Nhưng bây giờ Minh nói một cách lạnh lùng, lại là những câu đầu tiên sau bao năm xa cách.
Toàn cùng đến nhà Minh, ngày đầu tiên trở về Minh đã vắng nhà thì không tiện. Minh rất khó chịu với khách khứa ồn ào. Để mặc cho bố mẹ tiếp khách, anh kéo Toàn vào phòng trong, đóng chặt cửa, tiếp tục hàn huyên. Chuyện trò một ngày, sự xung khắc về quan điểm dần dần lộ rõ. Toàn cho biết Hiệp và Trang tốt nghiệp đại học, ra đảo Cát Bạc công tác đã hai năm. Thực ra người ta chỉ phân công Hiệp đi một mình. Nhưng họ đã làm lễ cưới, và Trang tình nguyện đi cùng chồng.
- Chúng nó dại - Minh độp luôn - Định ôm mộng đi khai hóa văn minh cho cái hòn đảo heo hút ấy à? Khai hóa đâu chẳng thấy, khéo mà con cái lớn lên, bị dân đảo "đồng hóa" lại.
Minh có vẻ đắc ý vì hễ lên tiếng là vạch ra được một sự thật nghiệt ngã. Đang lim dim phả khói thuốc, Minh bỗng dúi điếu thuốc vào gạt tàn như dí chết một con sâu, rồi ngồi thẳng dậy, hào hứng kể:
- Hôm qua trên đường từ sân bay về nhà, mình nghe ông chú kể một chuyện tiếu lâm thế này: buổi tập trung đầu tiên của lớp một, cô giáo hỏi từng học sinh: "Bố em làm gì?" Một đứa đứng dậy trả lời: "Thưa cô, bố em là phó mộc ạ", "Tốt lắm, còn bố em?". "Thưa cô, bố em là phó may". "Được, thế còn bố em kia?" Thằng nhóc này đứng dậy ấp úng: "Thưa cô, bố em là phó..." "Phó gì?" "Dạ, bố em là phó... phó... tiến sĩ ạ". Cả lớp cười rộ lên. Thế là cô giáo đập thước kẻ lên mặt bàn hét: "Trật tự, không được cười người nghèo."
Câu chuyện này luẩn quẩn trong đầu Minh suốt từ hôm qua. Vậy mà nghe chính mình kể lại, Minh vẫn không nhịn cười được. Anh cười rung toàn thân, đến mức ho sù sụ, mặt đỏ bừng.
- Chỉ một câu chuyện nhỏ đủ nói lên chính xác tình trạng nhếch nhác và địa vị thấp kém của trí thức bây giờ. Thằng cha nào nghĩ ra câu chuyện ấy quả là sâu sắc.
Có phải Toàn không biết chuyện này đâu. Mới là ngày đầu tiên, Toàn tự bảo, Minh đang mất thăng bằng vì sự thay đổi vị trí địa lý quá nhanh. Chờ ít lâu nữa, sự thăng bằng sẽ trở lại.
Không đọc được những ý nghĩ của Toàn, Minh lập tức lật ngửa một cái cốc đang úp:
- Nói vậy thôi, phó tiến sĩ chỉ đi nước ngoài một chuyến thì không thể xếp vào loại người nghèo được. Chúng nó làm ăn thân lươn chẳng quản lấm đầu. Nó tha thẩn ở các cửa hàng, ở chợ giời. Nó may quần bò rởm và làm đủ mọi việc để kiếm tiền. Nhiều khi thấy các đồng hương từ xa, khoác cả một dây xoong nhôm trên vai, phải ba chân bốn cẳng chạy cho xa. Ê mặt lắm.
- Mình cũng từng gặp mấy người như vậy ở nước ngoài - Cuối cùng Toàn cũng phải lên tiếng, vẫn giữ giọng nhẹ nhàng - Nhưng đừng nghĩ là mọi người đều thế.
- Mình có bảo tất cả đâu. Nhưng chúng nó đông lắm. Khéo mà đến lúc không còn chỗ thở với bọn này.
Ngày gặp nhau đầu tiên kết thúc trong tâm trạng bức bối nhưng còn đang nén giữ của Toàn. Ngang qua nhà bà Nhớn, nghe bà hỏi Minh được về chơi hay về hẳn. Toàn cau mặt:
- Cháu không biết.
Lạ nhỉ, bà Nhớn hỏi ân cần, sao Toàn bực tức? Toàn không bực gì bà Nhớn. Chẳng qua anh chưa xua được cái dư vị đăng đắng của buổi chuyện trò với Minh. Bà Nhớn hỏi, Toàn mới nhớ đã nghe thoang thoáng bố mẹ Minh nói với khách là Minh chỉ về chơi. Có nghĩa là Minh sẽ được trở lại nước bạn làm nghiên cứu sinh hay sao? Nếu vậy, Toàn mừng cho cái kết quả học tập tốt của Minh.
Những ngày sau, mỗi lúc Toàn càng ý thức rõ rệt hơn về sự cay cú trong giọng Minh. Cả thời tuổi thơ lẫn khi bước sang tuổi thanh niên, Minh sống đầy đủ, mọi thứ đều được thỏa mãn. Vậy có điều gì khiến Minh không hài lòng?
Một hôm Minh vừa đẩy xe vào trong sân, chẳng nói chẳng rằng chạy ngay ra vòi nước. Toàn ra theo, thấy Minh đang gột một vết bẩn ở quần, chỗ đầu gối.
- Thật là quá quắt - Minh vừa dùng cái mùi xoa ướt chải chỗ quần bẩn vừa kể - Đến ngã tư Quang Trung - Trần Hưng Đạo, mình đã vòng qua bục chỉ đường hẳn hoi. Bất thần có hai thằng phóng vun vút, rẽ tắt đường, cắt chéo đường và đâm sầm vào mình. Cả ba đều ngã lăn ra giữa đường. Mình bò dậy, phủi quần áo, tức tối lẩm bẩm: "Không có mắt à?" Hai thằng kia đều kiu kiu cả, khoảng mười sáu tuổi thôi. Cả hai đứa sấn lại, trật mũ cối ra cầm tay, mắt long lên: "Mày bảo ai không có mắt? Bảo ai mù? Các bố mày rút ruột ra bây giờ?" Trông mặt, biết ngay là chúng nó dám làm. Mình lên xe biến ngay. Biết các anh rồi, xin vái các anh.
Vào nhà rồi, chốc chốc Minh lại xoa chỗ quần mới chải sạch, còn ướt nước, trông như một miếng vá. Sự cố vừa xảy ra làm mồi cho Minh than thở:
- Con người bây giờ sống không còn tình nghĩa. Hôm qua, mình ngồi ở quán cà phê đường Trần Hưng Đạo với một thằng bạn. Ngay trước mắt mình một bà quệt bánh xe vào bánh sau của người khác. Xe đổ, bà ta ngã ngửa ra đường. Thế là vùng ngay dậy, bỏ cái xe đấy hẵng, phăm phăm lao theo, lôi poocbaga người kia lại. Quay lại xem hỏng hóc ra sao để đòi bồi thường đã. Tồi tệ thế đấy, hễ xảy ra chuyện gì là vật mình vật mẩy ăn vạ, tính ngay đến chuyện đòi bồi thường. Ngày xưa cậu có thấy con người cay nghiệt như thế không?
Toàn chưa kịp trả lời, Minh đã đổi hướng câu chuyện:
- Cái thằng đâm vào người khác, rồi cắm cổ phóng chạy cũng là loại mạt hạng. Nó định chạy làng, giũ bỏ trách nhiệm, người ta sống chết ra sao, mặc xác.
Dần dần Toàn nắm bắt được một đặc điểm mới của Minh: đấy là tự lật ngược những vấn đề chính mình đưa ra. Như một nhà ảo thuật, Minh bê ra giữa sân khấu một cái hòm gỗ, bằng mọi cách cho người ta biết đâu trên đâu dưới. Sau đó chính anh ta lật ngược cái hòm gỗ lên và lại thuyết phục mọi người rằng chiều trên và dưới như bây giờ mới đúng. Thế thì Minh muốn khẳng định điều gì?
Minh có một ít đô la đổi từ nước ngoài chưa tiêu hết, đã làm tờ khai lúc nhập cảnh, nên mang vào Inter-shop để mua hàng. Toàn đi cùng bạn. Hai người tận mắt thấy cô bán hàng mặt cong như cái lưỡi cày, xun xoe giới thiệu mặt hàng với hai nhân viên công vụ của một sứ quán, bằng một thứ tiếng Anh không trọng âm và sai bét văn phạm. Hai người kia đi khỏi, biết chỉ một mình Minh có đô la, cô ta quay sang đuổi Toàn:
- Anh kia, đi ra. Lảng vảng gì ở đây?
Lẽ ra người bị xúc phạm và tức giận tỏ thái độ phải là Toàn. Nhưng Toàn chưa kịp phản ứng, đã thấy mắt Minh lóe lên:
- Cô nhắc lại tôi nghe nào?
Cô bán hàng giật mình quay sang Minh:
- Cái gì cơ?
- Tôi yêu cầu cô nhắc lại câu vừa nói - Minh dằn giọng.
Cô ta hơi chợn trước thái độ đầy đe dọa của Minh, nhưng cái tính đáo để vẫn nổ bùng ra:
- Anh mua hàng thì mua đi, không thì thôi. Việc gì anh phải bắt bẻ? Cửa hàng chúng tôi chỉ phục vụ người nước ngoài.
- Cho nên với người Việt Nam, cô tự cho mình cái quyền được ăn nói xấc xược và xua đuổi phải không? - Minh cười khẩy, đổi giọng gay gắt - Thối nhất là trò nịnh Tây. Một thằng bồi bàn của Tây, thì xun xoe nịnh bợ, mang tiếng là phục vụ mà như hầu hạ nó. Còn dân mình thì xem như rác.
Cuối cùng, nghe to tiếng, bà cửa hàng trưởng phải xuất hiện. Nếu bà ta không chịu xuống nước xin lỗi, chắc Minh sẵn sàng gây căng thẳng với toàn bộ số nhân viên trong cửa hàng. Không mua bán nữa, Minh hầm hầm bỏ đi.
- Góp ý với họ là đúng. Nhưng cậu nói chuyện rác rưởi là cũng hơi quá đáng - Về đến nhà, Toàn bảo Minh.
Minh liền trút nỗi cáu giận xuống đầu Toàn:
- Chứ không à? Chúng nó có hề tôn trọng cậu đâu. Đáng lẽ cậu được đi học nước ngoài, chúng nó cũng ghìm ở nhà, sắp tới lại đẩy cậu đi bộ đội. Thế mà cậu chưa mở mắt ra hay sao?
- Đừng có nhập cục những chuyện khác nhau như thế.
- Khác nhau nhưng là một kiểu thôi - Minh phẩy tay, thở dài ngán ngẩm - Thời buổi này người ta coi con người có ra cái thá gì đâu. Người ta tùy tiện quyết định theo lợi ích của họ. Cậu tưởng mình chỉ cần có bằng tốt nghiệp đỏ là được chuyển tiếp nghiên cứu sinh đấy à? Không đâu, người ta định kìm mình ở nhà, đẩy một tay khác đi thế chỗ. Mấy tháng vừa rồi mình phải chạy long tóc gáy, bằng mọi cách nói cho các ông thầy ngoại quốc hiểu rằng trong công văn giấy tờ, họ phải viết đích danh mình được tiếp nhận làm luận án phó tiến sĩ. Như thế vẫn chưa yên tâm. Nhỡ đâu mình về nước, người ta giữ lại nhà vì lý do không được duyệt vé máy bay? Lại phải đề nghị Trường cho một cái vé khứ hồi. Ô la la, phải thao tác tỉ mỉ lắm. Chỉ biết học cho tốt thì không bao giờ là đủ.
Toàn lờ mờ đoán ra lý do trực tiếp dẫn đến sự cay cú của Minh. Nếu chỉ vì thế mà Minh cay nghiệt với mọi người tức là Minh hết cả sáng suốt rồi.
- Cậu bỏ thói quen nói những lời có cánh rồi à? - Toàn lái sang chuyện khác.
- Đời bây giờ phải dùng những lời thật thô, thật độc mới điểm trúng huyệt của nó được. Màu mè chỉ là của những kẻ chưa trưởng thành.
Tuy vậy, không phải cuộc nói chuyện nào giữa hai người cũng căng thẳng. Những lúc chạm đến tình bạn, Toàn lại thấy lòng mình ấm áp và dịu xuống. Một lần như vậy, Minh bối rối lựa lời:
- Mình mang về hai cái xe đua, một để cho bố mình đi, một dành cho cậu. Cậu không thích dính dáng vật chất, mình biết. Nghe nói cậu hay đi nước ngoài, mỗi chuyến dăm bảy ngày, thế mà một cái đồng hồ đeo tay cũng chẳng có?
Thấy Minh quan tâm thành thật, Toàn hạ giọng tâm tình:
- Đến đâu mình cũng sử dụng thời gian rỗi để thăm thú cảnh vật, bảo tàng, xem biểu diễn nghệ thuật và mua sách vở. Lúc về, mình chỉ mua toàn quần áo và bánh kẹo, đem chia cho bạn bè người thân, mỗi người một thứ là hết.
Toàn kể cho Minh nghe chuyện nhiều đêm hầu như không ngủ được, chỉ vì không có đồng hồ. Theo chương trình, năm giờ sáng đ