Chương IX
Cu Đức gắn bó với chim sáo bằng một tình cảm huyết thống, đấy là cái tình đối với một người mẹ. Không phải là người mẹ để có thể nũng nịu vòi vĩnh, mà trái lại, Đức phải chăm chút yêu thương như với một người mẹ già đau yếu. Thế là mặc dù còn bé, Đức đã phải làm công việc che chở, phụng dưỡng cho mẹ. Mẹ tạm thời phải làm kiếp chim sáo, vì bị những kẻ ác ám hại (Đức chưa kịp nghĩ xem kẻ ác là ai, làm hại mẹ bằng cách nào). Nhưng rồi sẽ đến ngày mọi oan trái được giải, cô Tấm trở về làm hoàng hậu, thì mẹ cũng sẽ trở về, sẽ ngồi ghé bên mép giường Đức đang ngủ. Trong giấc mơ, Đức sẽ nghe mẹ kể lại những cổ tích cho đến khi trời sáng. Đến lúc đó chắc chắn mẹ sẽ không đi đâu nữa. Mẹ sẽ ở lại vĩnh viễn với Đức và bố Khôi.
Số tiền thỉnh thoảng bố cho để ăn quà, Đức dành mua chuối cho chim sáo. Chú Kha trở lại đơn vị rồi, chiều chiều Đức vẫn để sáo đậu trên vai, ra hồ tìm bắt châu chấu. Đức không nỡ nhốt sáo vào trong cái rọ tre. Cái rọ vừa chật vừa xấu xí, những nan tre đã bật toe ra, dễ đâm vào thân mình chim sáo. Chỉ tối đến, để bảo vệ chim sáo, Đức mới bỏ sáo vào một cái hộp giấy đựng dứa hộp xuất khẩu, có khoét một cái lỗ thông hơi bằng quả bóng bàn. Đấy chỉ là cách giải quyết tạm bợ, Đức đã thoáng nghĩ đến một cái lồng thoáng rộng, nhưng chưa biết xin tiền của ai để mua.
Khỏi phải nói chim sáo đã đem đến cho Đức những ngày vui sướng như thế nào. Thế nhưng Đức đồng thời cũng gặp phải những cú sợ tái người. Từ lan can đằng sau nhà, chim sáo bay lên cây xà cừ nhỏ, ngọn mới chấm đến nền tầng ba. Rồi từ cây xà cừ, chim sáo bay xuống dây phơi nhà bà Hợi. Ngay lập tức lại cái điệp khúc chua như lá me:
- Thế này có khổ cho tôi không cơ chứ. Sao nó không đậu lên dây nhà người khác, mà cứ nhè cái dây phơi nhà tôi? Húi, xùy xùy. Tao băm cho một nhát dao thì hết đời sáo với chả kèn.
Ban đầu Đức tái mặt khi nghe bà Hợi dọa. Khủng khiếp quá, chẳng hóa ra bà già ở cạnh phòng Đức lại ác như mẹ con mụ Cám hay sao? Đức sợ hãi giữ sáo ở nhà, thầm hứa sẽ tìm cách không để sáo bay sang dây phơi nhà bà nữa. Nhưng làm sao giữ được mãi, một khi Đức không đành lòng nhốt sáo vào rọ hay trong hộp giấy. Tính trung bình mỗi ngày bà Hợi phải than thở la lối vài ba lần. Kể ra bà ta là người quá kỹ tính, quá vệ sinh. Sáo ỉa lên quần áo tã lót của đứa cháu nội bà đã đành. Có khi sáo chỉ đậu trên sợi dây phơi thôi, bà cũng hoảng hốt xùy đuổi. Bà dọa sẽ vặt lông, sẽ cắt tiết, sẽ chém. Bà hù dọa nhiều lần quá, Đức cũng sinh nghi. Chắc bà cũng giống như bác Tường, cứ đòi chặt chân anh Lợi mà thôi. Thằng bé đoán đúng. Chỉ nhìn người khác cắt tiết gà, bà Hợi đã run tay xây xẩm mặt mày. Tức lên, bà chỉ trừng phạt chim sáo bằng thứ vũ khí nơi cửa miệng.
Một buổi sáng, Đức loanh quanh bên gốc cây xà cừ, chốc chốc lại ngửa cổ nhìn chim sáo đang chuyền từ cành này sang cành khác. Thằng bé lo chim sáo sẽ bay xuống dây phơi quần áo nhà bà Hợi, nên phải đứng canh, không dám bỏ vào nhà. Bất chợt, một ông già xuất hiện bên lan can căn phòng cạnh nhà bà Hợi. Ông nheo mắt vì chói nhìn chim sáo một lát, rồi mới hỏi giọng thông cảm:
- Sao cháu không nhốt sáo vào lồng, để nó bay lung tung thế?
Đức giật mình, mở to mắt nhìn ông, rồi cúi đầu như biết lỗi.
- Cháu không có lồng. Mà rọ chật lắm ông ạ...
Thằng bé không cần cắt nghĩa dài dòng. Ông già cảm thấy chút xa xót trong giọng nó. Đấy không phải là lời nói về một loài chim thông thường. Ông già còn nghe được vế sau của câu nói bỏ lửng: đó là tình cảm trân trọng của thằng bé với một con người.
- Thế à? - Ông già sốt sắng nói - Để ông đến khu Trung Tự. Thằng cháu ông có một cái lồng cũ, đã lâu không dùng đến.
Đức lí nhí cám ơn ông. Nó chưa đến tuổi ngờ vực khi có một người lớn hứa hẹn. Cũng bởi vì chưa có một người lớn nào nuốt lời với Đức. Thằng bé sung sướng hình dung ra lúc chim sáo nhảy nhót loắt thoắt trong chuồng. Đức có nhà để ở thì chim sáo cũng phải có lồng chứ.
Thằng bé không phải chờ lâu. Ngay sáng hôm sau, ông già đạp xe đến khu Trung Tự, xin được cái lồng của thằng cháu ngoại. Buổi trưa, Đức đi học về, đã nghe ông gọi vào xem cái lồng. Những nan lồng bám đầy bụi. Cái lồng còn rất vững vàng, chỉ gãy mất ba cái nan. Đức dùng giẻ ướt, tỉ mỉ lau từng cái nan cho đến lúc sạch bóng. Còn ông già hăm hở chẻ đũa tre, vót mấy cái nan lồng thay thế. Đến lúc ấy Đức mới biết ông già tên là Thịnh, là giáo viên dạy văn cấp ba, về hưu đã lâu. Nó còn biết ông là trưởng Ban nhà, bởi vì ngay tối hôm đó, ông Thịnh sang bảo:
- Cháu giúp ông đi mời đại diện các gia đình xuống phòng ông để họp nhé.
Đức hào hứng nhảy lâng tâng lên những bậc cầu thang. Ông Thịnh giao cho nó một nhiệm vụ quan trọng ghê. Đức, chứ không phải một đứa bé nào khác, được đi mời tất cả mọi người trong khu nhà đi họp. Có khác gì anh Kim Đồng đi làm liên lạc đâu nào. Đức tình nguyện trở thành chú bé liên lạc cho ông Thịnh từ hôm đó. Thằng bé rất tự hào vì bằng cách ấy, nó quen mặt quen tên tất cả những người mà mới hôm trước còn lướt đi như cái bóng qua trước mặt nó.
Có lồng rồi, ban ngày Đức vẫn không quen nhốt sáo lại. Chim sáo vẫn tha thẩn trên những chồng sách trong khi Đức học bài, vẫn nhảy nhót trên vai Đức. Thảng hoặc chim sáo lại âu yếm quẹt mỏ dụi đầu vào má Đức.
- Mẹ ơi - Đức thầm gọi.
- Mẹ ơi - Chim sáo quyến luyến lặp lại.
Đấy, giá mà nhốt sáo trong lồng thì làm sao có được những phút hạnh phúc như vậy? Tận đến khi chim sáo đã tung cánh bay qua cửa sau, đậu lên cây xà cừ, Đức vẫn còn mê mẩn như người say. Mất một lúc lâu, thằng bé mới hồi tỉnh, chạy ra đằng sau, đến bên cây xà cừ.
Tiếng chuyện trò líu tíu vẳng xuống từ căn phòng phía trên nhà ông Thịnh. Đức ngẩng nhìn lên, thấy hai cô gái đang trìu mến ngắm chim sáo đi lại trên bậu cửa sổ. Hai cô này Đức không lạ, nó đã từng báo các cô đi họp hoặc đi làm tổng vệ sinh khu nhà nhiều lần.
- Con sáo của cháu đấy à?
Đức chưa kịp trả lời, chim sáo đã nghênh mỏ, kêu ngộ nghĩnh:
- Mẹ ơi.
- Úi, con sáo biết nói - Cả hai cô cùng vỗ tay reo.
Từ chuyện sáo, cô Hồng và cô Mỵ hỏi sang chuyện nhà Đức. Thằng bé kể vanh vách về các bác và chú Kha, về anh Lợi, và bố Khôi. Các cô hỏi đến mẹ. Đức im lặng một chút, không trả lời, mà hỏi lại:
- Cô ơi, đã chết rồi, vẫn có thể sống lại được, phải không ạ?
- Cháu nói gì lạ lùng thế? - Cô Hồng thốt lên.
Nhưng cô Mỵ cười rất tươi và gật đầu:
- Cũng có thể, Đức ạ.
Đức cảm thấy cô Mỵ tin vậy thôi, nhưng cô cũng giống cô Tuyết, nếu hỏi thêm chắc cô không thể kể ra được có ai đã chết mà còn sống lại. Đức muốn chỉ cho các cô thấy có một con người thực sự trong cái lốt chim sáo. Nhưng ngay lập tức Đức cảm thấy ngoài nó ra, không một ai hiểu được điều đó. Không hiểu, các cô sẽ cười cho.
Một buổi chiều Đức đang chộp những con châu chấu trong những bụi cỏ thì mấy đứa đá bóng ở gần đấy cũng chạy ào đến. Lũ châu chấu bật càng tanh tách, bay tán loạn. Mấy đứa kia lao vào vồ chộp. Thoạt đầu Đức hơi lo, tưởng bọn này đến kiếm chuyện gây sự. Nó ngỡ ngàng đứng ngây ra một lúc khi bọn kia, mỗi đứa một vốc châu chấu thật to, đến gần và bảo Đức mở cái túi giấy bóng cho chúng nhét vào. Lần đầu tiên cái túi bánh quy ních đầy những con châu chấu đạp soàn soạt. Thấy Đức đút châu chấu cho chim sáo, đang đậu trên mu bàn tay Đức, mấy đứa bạn mới lập tức quây thành một vòng xung quanh. Đứa nào cũng đòi được đút cho sáo một lần.
- Cậu ở nhà C4 à? - Một thằng vừa dứ châu chấu trước mỏ con sáo, vừa hỏi giọng làm thân - Tớ ở C3, rất gần nhà cậu đấy.
Từ hôm ấy, lũ trẻ bắt đầu chạy rầm rập lên cầu thang. Chúng như đã bị xâu thành một chuỗi.
- Đức ơi, tớ lại bắt được châu chấu nữa đây này.
- Nhiều quá nhỉ, sáo ăn suốt ngày cũng không hết.
- A, Đức ơi, nhà tớ có tủ lạnh. Cậu đưa gói châu chấu đây, tớ sẽ bỏ vào tủ lạnh, làm lương khô cho sáo ăn dần.
Không khí nhộn nhạo của lũ trẻ bắt đầu thêm sinh khí cho khu nhà vốn ắng lặng. Đôi lúc một ông già cau có thò đầu qua cửa sổ quát ầm lên:
- Về học bài đi. Bọn nhóc con định làm loạn hả?
Nếu ông ta muốn níu kéo cái không khí lạnh lùng, phân rã cho khu nhà, thì đã muộn. Thằng cu Đức đã quen ông Thịnh, cô Mỵ, bà Hợi... Và những người này cũng đã quen nhau rồi.
❖ ❖ ❖
Đêm nay, Toàn mơ thấy Saint-Exupéry.
Có thể bởi vì buổi tối, bước vào nhà anh đã dừng lại rất lâu trước tấm chân dung Exupéry treo trên tường. Con người ấy cương nghị mím chặt môi, nhưng cặp mắt rõ là của một chú bé, đang mỉm cười hóm hỉnh. Toàn đưa mắt sang bức tranh bên cạnh: Hoàng tử nhỏ trầm ngâm ngồi trên cái hành tinh bé con của mình, chiếc khăn quàng cổ tung bay như một cánh tay vươn dài tới một vì tinh tú khác.
Cũng bởi vì trước đó, Toàn bắt đầu làm việc với vợ chồng ông Jacques Roland, trợ lý trong một ủy ban của Liên hợp quốc. Có gì đặc biệt lắm đâu vì Toàn vẫn thường làm việc với những đoàn khách từ Liên hợp quốc đến Việt Nam. Nhưng ngay từ mấy hôm trước, khi vợ chồng ông Roland chưa sang, Toàn đã được ông chuyên viên già cho biết một số điều: Jacques Roland là người Pháp, quốc tịch Mỹ. Vợ ông, bà Trần Tuệ Mai Roland, là người Việt Nam. Bộ trưởng đánh giá cao sự ủng hộ nhiệt tình của ông Roland đối với Việt Nam tại Liên hiệp quốc, cũng như tình cảm của bà Trần Tuệ Mai Roland đối với quê hương, và đã nhiều lần mời họ vào Việt Nam. Lần này là chuyến đi thứ hai của vợ chồng ông Roland.
Trên đường từ sân bay về Hà Nội, khi xe bắt đầu rẽ vào đường Thanh Niên, Toàn kể vắn tắt cho ông Jacques Roland nghe sự tích Hồ Tây. Bà Trần Mai Roland ngồi yên lặng, cố nén những hơi thở dồn mạnh. Qua phút xúc động được lướt trên đường phố đầu tiên của Hà Nội, bà Mai quay sang Toàn, miệng cười giễu cợt, nhưng giọng kể bồi hồi:
- Sau lần về quê tháng 9 năm 1982, cô trở lại Nữu Ước làm cho mấy bà bạn người Việt Nam ngạc nhiên. Người nào cũng kêu trời, tưởng cô không còn sống mà trở lại bên đó. Người ta đồn đại rằng ai đã rời khỏi đất nước sẽ không bao giờ được dung nạp nữa.
Cô Mai lại cười, có một chút kiêu hãnh được làm nhân chứng để bác bỏ một điều lạ lùng. Toàn càng cười ngất, trong lúc cô Mai dịch lại lời mình vừa nói cho chồng nghe. Cô nói xong, Toàn nói với cả hai người:
- Tôi chợt nhớ đến một chi tiết trong truyện Hoàng tử nhỏ của Saint-Exupéry: trên hành tinh của Hoàng tử nhỏ chỉ có một cây hoa hồng, nhưng lại có rất nhiều cỏ dại, thậm chí có cả những cây baobáp con. Phải canh chừng để kịp thời nhổ hết những cây baobáp con này. Lơ là một chút, để chúng lớn lên, thì chỉ cần rễ của ba cây baobáp có thể trốc tung cả hành tinh bé nhỏ của em. Thế là sáng nào Hoàng tử cũng phải đi nhổ những mầm mống tai họa. Cái khó là làm sao phân biệt được đâu là những mầm cây baobáp, để không nhổ nhầm phải cây hoa hồng hiếm hoi kia.
Jacques Roland cảm kích nhìn Toàn:
- Xin cảm ơn, Antoine de Saint - Exupéry là đồng bào của tôi đấy.
Toàn không giấu được niềm phấn khởi bất chợt tìm thấy ở người dân tộc khác sự đồng cảm:
- Exupéry là nhà văn thần tượng của tôi, ông ạ.
Niềm hứng khởi vì tìm thấy cảm xúc chung, một tình yêu bấy lâu không được san sẻ, suốt một ngày làm Toàn rạo rực. Cho nên buổi tối, anh đã đứng khá lâu trước chân dung Exupéry, như vừa may mắn tìm được cơ hội tốt để huy động hết những cảm xúc lâu nay lặn chìm trong tâm hồn, nhưng chưa có dịp soát xét lại. Cảm xúc ấy từng chút, từng chút một dâng lên, như một khúc dạo đầu dìu dặt nhịp ba. Rồi bất chợt nó tỏa mạnh, òa chiếm cả lòng anh một giai điệu sôi bồng, cuồng nhiệt.
Toàn thấy mình đẩy được cánh cửa dán đầy những tranh trấn môn trấn trạch trừ tà. Anh chạy qua một căn phòng thâm u khói hương nghi ngút, thoáng thấy bóng bà Nhớn đứng bên điện thờ. Những bóng người âm thầm lởn vởn xung quanh. Mười hai năm đã trôi qua, kể từ ngày Toàn cứu bà Nhớn khỏi cái chết, và buộc phải tấn công một kẻ khác. Kẻ đó còn không, hay cũng là một cái bóng vất vưởng trong những bóng đen kia? Thế là cũng đã mười hai năm, Toàn là cái cây cằn cỗi đơn côi, Toàn đã sống mà như trong mộng. Sau giờ học tập và làm việc, lúc chỉ có một mình, Toàn lại chìm trong cơn mộng du. Anh thấy mình mở được cánh cửa giữa hai cực âm - dương, lọt vào một thế giới của những người cười nói và than khóc với nhau bằng những câu không thanh âm.
Rời khỏi căn phòng sâu hun hút ấy, Toàn chạy qua một gốc cây gạo. Những bông hoa rụng đỏ ối quanh gốc. Ồ lạ chưa, có một chú nhóc mắt nhắm nghiền, đang áp tay vào vú cây gạo, miệng lẩm bẩm như tụng kinh: " Hạt cơm hạt gạo, trả cho mày đây. Hạt cơm hạt gạo, tao trả mày đây "...
Toàn đã ra tới một bãi cát. Đôi chân trần thọc trong cát mịn, mỗi lần nhấc lên lại tung ra đằng sau một đám khói cát màu vàng. Thấy rõ bên sông có một bóng lâu thuyền nguy nga, cờ xí rợp rợp. Thoáng thấy bóng người, mấy nàng hầu đang cuống cuồng nhổ cọc, thu màn, vừa chạy vừa quây tròn cho nàng Tiên Dung đi trốn. Toàn nhận ra giữa đám người không phải là Tiên Dung, mà là Trang. Anh dồn chân chạy theo. Cát kéo những bước chân anh trơn chuội, xoạc ra sau. Toàn ngã nhào xuống. Khi anh ngẩng lên, không thấy bóng lâu thuyền, cũng chẳng có dòng sông nào cả. Xung quanh là một sa mạc mênh mông.
Chính ở trên sa mạc ấy, ở đằng xa, bên một chiếc phi cơ vừa đỗ xuống bãi cát, Saint - Exupéry lại bắt đầu một chuyến đi tìm kiếm Hoàng tử nhỏ.
❖ ❖ ❖
Diệu đưa thằng Sa ra ga Hàng Cỏ, đi tàu Thống Nhất. Cùng kế, Diệu mới phải tính đến nước này. Những trận thúc ép điên cuồng, những trận cào xé, mổ móng tay lên lưng Khuynh vẫn không ăn thua. Khuynh trở nên lì lợm, vẻ khinh bỉ không che giấu. Cắn răng chịu cơn điên khùng của con yêu quái chết đi sống lại trong lốt những con chim, Khuynh dứt khoát không chịu đến nhà ông Hậu để xin hoãn nghĩa vụ quân sự cho thằng Sa. Hơn bao giờ hết, Khuynh đã cảm thấy cái dốc sâu rợn người của đời mình. Thất thế rồi, còn vác cái mặt thớt đến nhà người ta mà kêu xin? Vả lại xin xỏ cho ai mới đáng mặt, chứ xin cho cái thằng ba que kia, cầm bằng đem đầu ra chịu tội.
Hoàn toàn bất lực, Diệu bảo thằng Sa vào Sài Gòn vài tháng, ở chơi với các cậu các dì trong ấy. Nếu có giấy báo khám nghĩa vụ quân sự, Diệu sẽ có cớ để nói rằng thằng con đã vô tình đi thăm họ hàng nơi xa. Nếu cần Diệu sẽ bịa là đã đánh đi mấy bức điện, nhưng chắc có trục trặc tàu xe nên không ra kịp. Lần lữa như thế, thằng Sa sẽ không phải nhập ngũ đợt này.
- Nếu chỉ để trốn bộ đội, việc gì phải đi xa như thế - Thằng Sa khó chịu nói - Ngay ở Hà Nội này cũng có vô khối nơi để lặn.
Diệu hoảng hốt như thể thằng Sa sẽ không đi, mà quanh quẩn trong các phố phường:
- Không được đâu con ơi. Chả may con nghễu nghện ngoài phố, có đứa nào nhìn thấy thì mất uy tín của bố mẹ.
Thằng Sa cười khẩy:
- Lão ấy làm gì còn uy tín mà lo mất. Có chết là chết cái thân tép riu của con đây này.
Rốt cục cuộc chuyện trò kết thúc bằng những lời van nài khóc lóc của Diệu. Cực chẳng đã, thằng Sa xẵng giọng:
- Thôi thì đi. Làm cái kiếp lãng du một chuyến xem sao.
Thằng Sa không mang theo gì. Nó lạnh lùng cầm cái vé toa nằm và ba nghìn đồng mẹ đưa, rồi xách một cái túi nhỏ có một bộ quần áo. Diệu định bảo nó mang quà cho mọi người trong ấy, nhưng thằng Sa cáu kỉnh gạt đi:
- Đi trốn truy nã chứ chơi bời gì mà quà cáp - Nó làm Diệu rợn người vì cái điềm báo chẳng lành trước chuyến đi.
Đến gần cửa sắt phía Nam nhà ga, thằng Sa xuống xe, đẩy trả xe cho mẹ. Nó tháo cái túi treo trước ghi đông, lấc láo nhìn xung quanh:
- Mẹ về đi - Nó nói như đuổi.
- Con nhớ cứ ở chơi thoải mái. Bao giờ yên yên, mẹ viết thư báo thật rõ ràng, hẵng về nhé. Mẹ nghe nói bắt đầu có đợt khám nghĩa vụ từ ngày kia.
- Biết rồi. Dặn gì mà dặn nhiều thế - Thằng Sa gắt ngậu lên. Bất đồ nhìn thấy người quen, nó sáng mắt gọi to - Đại, Đại ơi, chờ tao với.
Không nói gì thêm với Diệu, thằng Sa vừa gọi vừa rẽ đám người, chạy theo một thằng quần bò mốc đang đi về hướng khách sạn Đồng Lợi. Diệu định nhắc bảo nó đừng đi xa, nhưng lại nghĩ nó đã đủ khôn để tự hiểu. Lên xe, đạp được một quãng xa, Diệu cảm thấy lo canh cánh, bèn vòng xe lại, định nhắc thằng Sa lên tàu cho đúng giờ.
Nhưng trước cánh cửa sắt đã vãn người. Chỉ có một vài người đến muộn đang hối hả đưa vé cho người kiểm soát. Nhanh nhảu như thằng Sa, chắc đã lên tàu lâu rồi. Lúc này Diệu mới yên tâm quay về.
Khuynh đã khoác khẩu súng hơi, đang định khóa cửa để đi. Thấy Diệu về, Khuynh đặt ổ khóa lên trên cái chạn bát.
- Đi đâu đấy? - Diệu lườm chồng, tức điên lên vì cảm thấy mệt mỏi rã rời, không đủ sức cấu xé cho hả giận.
- Bắn chim - Khuynh cũng đáp trống không và bước ra cửa.
- Chim cò gì - Diệu gầm gừ như con sói kiệt sức - Chim gái thì có. Cái con "phò ba lít" ấy sẽ không thoát được tay gái này đâu.
Khuynh chẳng thèm để ý, bước ra một cách lịch sự, rồi nhẹ nhàng khép cửa lại. Làm thế lại càng chọc Diệu tức. Chắc hẳn bây giờ mụ đang trút giận lên những bộ cốc chén, day dứt tấm chăn, chiếc gối. Khuynh chẳng lo. Diệu là kẻ tiếc của, dẫu có nổi cơn điên cũng không hề làm sứt mẻ một cái chén. Mụ chỉ không tiếc lời rủa xả, nhưng cũng không lộ liễu đến mức hàng phố nghe được. Diệu nguyền rủa Khuynh vì đã không chăm lo đến thằng Sa kia. Hai mẹ con mụ cùng một giuộc, kết thành một liên minh ma quỷ. Khuynh căm ghét Diệu thế nào thì cũng ghét thằng Sa như thế. Cái thằng đẹp trai một cách trơ trẽn, nét mặt giống Khuynh như một bản sao, nhưng ánh mắt thâm hiểm và trắng trợn như mẹ nó. Thằng Sa là cái dây ràng buộc, trói chặt Khuynh vào Diệu, để mụ đầu độc cuộc đời Khuynh mười tám năm nay. Mỗi lần nhìn thấy cái mặt khốn nạn của nó, Khuynh cảm thấy nỗi nhục của mình bị đay đi đay lại. Sau khi bị Diệu cắn xé, Khuynh chỉ muốn tát, muốn đấm vào mặt thằng Sa. Biết vậy, những lúc ấy Diệu đã hằm hằm đứng án bên thằng con, sẵn sàng nghênh chiến. Thằng Sa là chiến công của Diệu trước một tên bợm gái, là niềm kiêu hãnh của cô ta. Dạo sắp sinh con, một hôm Diệu hỏi Khuynh:
- Anh định đặt tên con là gì chưa?
- Tôi chả định thế nào cả - Khuynh gằn giọng, phẩy tay.
Diệu sung sướng mỉm cười, mỉm cười mà hai má rung rung giật giật:
- Nếu là con trai, em sẽ đặt tên là Lê Diệu Sa.
Tên là Sa? Diệu là tên cô ta. Còn Sa là bãi Cát Sa, cái bãi chiến trường, nơi thần chiến thắng là của Diệu đã cất cánh. Cát Sa đối với Khuynh là bãi chiến trường, nơi lưu lại nỗi nhục chiến bại.
- Sa? Sa là cái gì? - Khuynh phát khùng lên - Sa sẩy à? Đẻ rơi à?
- Là nơi kỷ niệm mối tình của chúng mình, anh yêu ạ - Diệu cố làm cho cặp mắt nhuốm một vẻ hiền dịu mơ màng, nhưng Khuynh chỉ thấy chúng đỏ sòng sọc.
Khuynh quay cuồng đòi bỏ cái tên ấy. Trận phản công đầu tiên, sau khi họ đã thành vợ chồng, lập tức bị Diệu bẻ gãy dễ dàng. Trong gần hai chục năm sống chung sau đó, Diệu cũng dễ dàng bóp nghẹt mọi cơn giãy giụa tuyệt vọng của Khuynh. Cô ta đề xuất một điều gì, tức là nó đã được khẳng định, Khuynh không có quyền thay đổi. Nỗi ấm ức, sự căm giận của Khuynh đã dồn sang cả thằng con mà Khuynh đã đòi tiêu hủy từ lúc nó còn nằm trong bụng mẹ. Có một lần, sau buổi họp phụ huynh học sinh, cô giáo chủ nhiệm lớp thằng Sa mời riêng Khuynh ở lại thêm mấy phút. Cô giở sổ điểm chỉ cho Khuynh thấy điểm tổng kết học kỳ của thằng Sa và nói:
- Môn Văn của em Sa chỉ có 4,8. Môn Kỹ thuật là 4,5. Kể ra tôi có thể nâng môn Văn lên thành 5,0. Như vậy em sẽ không phải thi lại. Nhưng với điều kiện gia đình phải bảo đảm sẽ cùng chúng tôi duy trì biện pháp giáo dục, để nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện của em.
Khuynh làm ra vẻ nhã nhặn và nghiêm túc, che giấu sự ghẻ lạnh bên trong:
- Cảm ơn cô đã có thiện ý, nhưng nếu cháu Sa hư và không xứng đáng đạt điểm cao, tôi xin cô cứ để cháu thi lại. Chúng ta phải thật nghiêm túc, lũ trẻ mới nên người được.
Trước mắt cô giáo, Khuynh được tiếng là một ông bố chân chính. Chỉ có Khuynh mới hiểu mình đã nói đến thằng Sa như nói đến đứa con của một người không quen biết. Thế mà bằng cách nào đó, câu chuyện giữa Khuynh và cô giáo lại đến tai mẹ con thằng Sa. Sư tử cái, sư tử con lồng lộn rú rít xung quanh Khuynh. Diệu phải chạy chọt đến nhà cô giáo mấy lần, thề bồi hứa hẹn mãi, thằng Sa mới không phải thi lại lần ấy.
Buổi chiều, sau một cuộc đi bắn chim, được tùy tiện bắn cho đến lúc hả dạ, Khuynh phóng xe đến nhà Hoài. Hoài không có nhà. Cánh cửa khép im ỉm như thể từ sáng đến giờ chủ nhà chưa trở về. Chưa bao giờ Hoài đi vắng vào giờ hẹn. Thậm chí cô còn chờ Khuynh từ sáng cho đến tối khuya, Khuynh không đến thì Hoài không ra khỏi nhà. Vậy có chuyện gì đột xuất hôm nay?
Khuynh lưỡng lự đứng trong cái sân chung một lát. Cảm thấy bất tiện vì láng giềng của Hoài sẽ nhìn thấy, sẽ chỉ trỏ bàn tán. Khuynh lần chần dắt xe ra cổng. Buổi chiều xám xịt. Đài đã báo sẽ có mưa lớn trong những ngày tới.
Về đến nhà, Khuynh vẫn bần thần vì lần đầu tiên bị lỡ hẹn. Khuynh treo khẩu súng hơi trong phòng chứa đồ. Đang cởi quần áo ngoài, thì Diệu tất tả chạy vào, mặt tái nhợt:
- Chết rồi, thằng Sa nhà mình làm sao mà công an đang đến kia kìa.
Khuynh cau mặt gắt khẽ:
- Cô tiếp họ đi. Bảo là tôi đi vắng.
Diệu chưa kịp phản ứng, Khuynh đã xoay vai cô ta, đẩy mạnh qua cửa, ra phòng ngoài. Chẳng còn lẩn tránh được nữa, Diệu đành phải ra đón hai anh công an quận.
Khuynh nép vào bên cạnh mắc quần áo, một tay nắm cái vạt áo bành tô để trên mắc, sẵn sàng phủ kín người nếu chả may có người ngó qua cửa vào phòng trong. Cẩn thận mới đề phòng thế, Khuynh vẫn biết chẳng ai thèm để ý nhòm ngó.
- Anh đi công tác hả chị? - Tiếng một anh công an hỏi.
- Vâng ạ, nhà tôi lúc nào cũng bận tối mắt. Các anh biết đấy, các ông Trợ lý Bộ trưởng có ông nào nhàn rỗi đâu - Diệu đáp ngọt nhạt.
Ái chà, mụ ta vẫn lôi cái chức vụ cũ của chồng ra hòng lòe mấy anh công an. Bằng cách ấy mụ muốn phủ đầu: có chuyện gì thì nói nhanh nhanh, nếu là chuyện nghiêm trọng thì nới tay cho, định vuốt mặt, hãy biết nể cái mũi.
Khuynh không bỏ sót chi tiết nào trong sự việc hai anh công an đang kể lại ở phòng ngoài. Sáng hôm nay, lúc mười giờ mười hai phút, công an quận đã bắt giữ hai trong số ba đứa con gái xông vào rạch mặt một phụ nữ ở gần chợ. Chị này vừa qua khỏi cổng chợ một quãng, thì ba đứa con gái kia ập tới, gây chuyện sừng sộ. Cũng không để cho người phụ nữ kịp đối đáp, hai đứa kèm hai bên, bẻ quặt tay chị ta, giữ cho đứa thứ ba dùng lưỡi dao cạo rạch lên mặt mấy nhát...
Khuynh rùng mình, hình dung ra cái cảnh người đàn bà kia, máu me đầy mặt, đang rú lên và giãy giụa tuyệt vọng trong tay ba đứa con gái. Trời ơi, phải nghiêm trị những kẻ làm cái nghề man rợ ấy. Khuynh muốn gào lên, nhưng một nỗi lo mơ hồ đã chặn luồng hơi ngùn ngụt lại.
- Hai đối tượng bị bắt giữ đều thuộc thành phần làm ăn phi pháp ở chợ giời, kiêm nghề rạch mặt ăn tiền. Cả hai đứa khai rằng sáng nay một người quen đã chỉ cho chúng người phụ nữ kia, nhờ chúng "xử lý". Người chúng quen tên là Lê Diệu Sa...
- Khốn nạn - Diệu nhảy dựng lên, tỏ cho hai anh công an thấy mụ quá phẫn nộ, không ghìm được - Cái bọn đâm thuê chém mướn rạch mặt ăn tiền ấy lại dám vu oan giá họa cho một gia đình chân chính. Thật là điêu hết mức. Thưa hai đồng chí, cháu Sa nhà tôi đã lên tàu Thống Nhất chuyến tám giờ sáng nay. Chính tôi tiễn cháu lên tận trên tàu.
Ở phòng trong Khuynh lạnh cả sườn, cảm thấy mối nguy hiểm đang đe dọa chính mình. Nếu thằng Sa gây án thực sự, Khuynh cũng mặc. Nó làm, mẹ con nó đem thân ra mà chịu. Đằng này mối lo cứ lẩn quất ngay trong chính Khuynh. Nhưng có chuyện gì mà lo nhỉ? Khuynh không dính vào? Thằng Sa thì đã đi miền Nam rồi?
- Tưởng cháu Sa có nhà, chúng tôi đến để xác minh thêm - Tiếng một anh công an - Chúng tôi cũng hy vọng là con của anh chị không liên quan đến vụ này.
- Vâng, thật tiếc là chồng tôi đang cùng đồng chí Bộ trưởng tiếp một đoàn khách ngoại quốc, nên không được tiếp chuyện các đồng chí - Diệu vẫn giở giọng vừa xun xoe vừa cao ngạo, vừa thật thà vừa đãi bôi - Xin hẹn các đồng chí đến chơi vào một dịp khác vậy. Chồng tôi có nhà thì...
Ngay lúc ấy, một con sáo từ cây xà cừ bay vào, đậu trên lan can. Vừa đỗ xuống, nó nhận ra Khuynh nấp gần đấy, ở bên cạnh tủ, một tay kéo chiếc áo bành tô che kín người.
Người và vật nhìn thẳng vào mắt nhau.
Khuynh cảm thấy từ con sáo toát lên vẻ giễu cợt. Nó đọc được sự trốn tránh thảm hại của Khuynh. Nó hiểu rõ sự thất thế và sự căm giận của Khuynh hơn bất cứ một người nào. Khuynh tái mặt đứng im.
- Có người - Con sáo bỗng xòe cánh bay lên, kêu to như loan báo.
Khuynh choáng váng vì bị lật tẩy. Một lúc lâu vẫn còn hoa mắt. Tai ù lên, không nghe thấy một điều gì, mãi cho đến lúc Diệu hằm hằm bước vào, hất tung cái áo bành tô ra, thấy Khuynh chỉ mặc mỗi cái quần đùi đứng trong ấy.
- Nghe thấy gì chưa? - Cái quắc mắt của Diệu vẫn rắn câng như đá.
- Kệ cô - Khuynh giằn giọng - Con hư tại mẹ. Chiều chuộng cho lắm vào.
Diệu cười gằn, mắt lóe lên nham hiểm:
- Đã biết thế nào mà định chạy làng? Mấy tay công an vừa cho biết là chúng nó rạch mặt một con, nhà ở đầu đường Lý Thường Kiệt, số...
Cả khu nhà có nổ tung ngay trước mặt cũng không làm Khuynh rụng rời chân tay như vậy. Đó là số nhà của Hoài.
- Trời ơi - Khuynh thét lên như bị đâm trúng tim. Cùng lúc, nhận thấy Diệu đang căng mắt nhìn dò xét thái độ, Khuynh phải đổi giọng - Thằng Sa thuê người rạch mặt người ta à?
Diệu nhếch mép cười. Cô ta đã đọc được nỗi đau mà Khuynh đang kìm giữ. Nếu chỉ có chuyện thằng Sa, Khuynh chẳng bao giờ phải thét lên kinh hoàng như thế. Ôi, nếu đúng là con làm được việc ấy, khiến cho lão rũ ra như một xác chết thế này, thì mẹ phải cảm ơn con.
- Nhưng thằng Sa nhà mình đi rồi cơ mà? - Diệu nói ra điều còn bán tín bán nghi, tiện thể quan sát thái độ Khuynh.
- Ừ, thằng Sa đi rồi - Khuynh lặp lại, vẻ mặt vẫn bơ phờ. Điều mấu chốt không phải ở chỗ thằng Sa đi hay ở, mà là việc Hoài bị rạch mặt. Khuynh rên thầm trong họng, tưởng tượng cảnh Hoài giẫy đành đạch, máu sơn đỏ trên mặt. Nếu không phải mẹ con thằng Sa là thủ phạm, thì còn ai vào đấy? Hoài có mua thù chuốc oán với ai bao giờ đâu.
Diệu ghé sát lại bên Khuynh, hạ giọng thầm thì, mắt vẫn chòng chọc theo dõi sự thay đổi trên nét mặt chồng:
- Con mình đi rồi, nhưng nhỡ đâu nó làm thật thì sao? Nó đã lên tàu, rồi trở xuống, không đi nữa, cũng là chuyện thường tình. Em chắc là công an vẫn rình quanh khu nhà, chờ nó về để bắt. Vậy em sẽ ra đứng chặn ở một đầu đường, anh đợi ở đầu đường bên kia. Nếu con mò về, mình bảo nó lánh tạm lên nhà bà ngoại mấy ngày. Em sẽ lo vé để nó lại đi miền Nam...
Vẻ mặt đầy âm mưu của Diệu làm Khuynh càng tin là mẹ con mụ chủ mưu trong vụ này.
- Mặc kệ nó. Nó gây ra án thì phải chịu sự xét xử của pháp luật. Không ai có thể cứu nổi một kẻ phạm pháp. Nó phải bị tù tội, phải lao động khổ sai, thậm chí bị xử tử...
Khuynh đay đả từng hình phạt, như thể đang hành hạ, nghiền ngấu mẹ con thằng Sa. Khuynh thích thú một cách đầy ác ý thấy Diệu rú lên đau đớn.
- Giời ơi, phỉ thui cái mồm anh. Anh là ác thú chứ không phải là con người. Anh đi theo cái con đĩ rạc đĩ rài ấy, anh hắt hủi mẹ con tôi...
Diệu bỏ lửng câu đay nghiến như có cả nước mắt, ngước cặp mắt ráo hoảnh nhìn Khuynh, tự biết mình đã hớ hênh để lộ. Khác nào mụ tự thú nhận có liên quan đến vụ việc rắc rối với người đàn bà kia. Tưởng Khuynh sẽ chồm vào mụ ngay. Nhưng Khuynh chỉ nhệch mép buông thõng một câu:
- Khối đứa chết vì vụ này.
Một lát sau, Diệu nhìn ra ngoài trời. Mưa mỗi lúc một nặng hạt. Sao trời lại nhằm đúng lúc Diệu chuẩn bị đi canh chừng cho thằng Sa mà mưa? Ờ biết đâu vì mưa, mấy tay công an sẽ lơ là hơn cũng nên? Diệu quay vào, thấy Khuynh đang mặc áo mưa. Biết điều đấy, dù không yêu con thì cũng còn một chút máu đào.
- Anh đứng ở đầu đường, nhớ là phải kin kín một chút.
Diệu dặn với theo.
Khuynh khinh khỉnh bước đi. Tội gì Khuynh chịu làm tòng phạm với mẹ con nhà nó. Đi dưới mưa một lúc, Khuynh đã hơi ngấm rét. Đã bước sang tháng mười âm lịch, thế mà vẫn còn những trận mưa to như thế này. Khuynh lấy làm tiếc vì lúc chiều không dám ra mặt hỏi xem người bị nạn nằm ở bệnh viện nào.
Căn phòng của Hoài vẫn khóa kín như buổi chiều. Không có một dòng phấn trên cánh cửa. Cũng chẳng có một mẩu giấy giắt ở lỗ khóa nhắn lại. Khuynh định quay đi. Bất chợt gặp một con bé vừa từ phòng bên bước ra.
- Cháu có biết cô Hoài đi đâu không? - Khuynh vội hỏi
- Không ạ - Cô bé đáp lễ phép - Cô ấy đi từ sáng và không dặn gì cả.
Khuynh chú ý cái khoảng thời gian cô bé vừa nói: "buổi sáng".
- Cháu cố nhớ xem, cô ấy đi vào lúc mấy giờ?
Cô bé ngẫm nghĩ một chút mới nói:
- Dạ, vào khoảng... hơn chín giờ - Đoạn cô bé ngẩng lên, nói như an ủi Khuynh - Thỉnh thoảng cô ấy vẫn đi công tác đột xuất, có khi một tuần bác ạ.
Khuynh cảm ơn cô bé, rồi hấp tấp bỏ đi. Hoài không đi công tác đâu cả. Lần này cô sẽ phải nằm bệnh viện thật lâu. Cái khoảng thời gian cô bé vừa nói trùng với thời gian Hoài đi chợ. Sau đó một tiếng, cô trở về, và bị mấy con nặc nô xông tới rạch mặt. Trời ơi, gương mặt xinh đẹp của Hoài bị những nhát dao cạo cứa ngang dọc, chắc giờ đây đang sưng vù lên, tím bầm tụ máu. Loạn rồi ư? Lũ chúng nó phải trả giá chứ? Phải xẻ mặt chúng nó ra chứ? Phải đâm chém cho chúng nó tơi tả ra chứ?
Thế là Khuynh vẫn không biết Hoài được đưa vào bệnh viện nào. Chẳng lẽ lại đến đồn công an quận để hỏi? Tại sao lại không nhỉ? Thưa các đồng chí, tôi là bố thằng Sa mất dạy kia. Chúng tôi rất đau khổ vì đẻ rơi đẻ rụng ra một thằng quái thai như thế. Bây giờ tôi muốn được vào bệnh viện xin lỗi và chăm sóc người bị nạn. Mong các đồng chí đáp ứng nguyện vọng thành thực của tôi. Người ta sẽ xúm lại, nghiêm khắc lên án Khuynh. Ông là cán bộ cấp cao mà không giáo dục con cái cho tử tế, để nó gây ra nông nỗi này. Ôi, cao cấp gì tôi, người ta cách chức tôi rồi. Mà như thế là cũng đáng mặt. Các đồng chí đừng tin cái mồm thối của con vợ tôi. Nó lòe các đồng chí đấy. Các đồng chí cứ xử phạt thật nghiêm minh, theo đúng pháp luật nhà nước... Nhưng làm sao trả lại được gương mặt nguyên vẹn của Hoài, ai sẽ bù đắp nổi cho em?
Khuynh xăm xăm đi giữa trời mưa, về phía đồn công an quận.
❖ ❖ ❖
Mưa to suốt đêm. Sáng ra, nước đã lấp kín bậc tam cấp, sắp tràn lên hành lang tầng một. Khoảng vài ba năm lại có một trận mưa ngập, nhưng nước chỉ dâng đến thế rồi rút. Cả khu nhà nằm trong một vùng đất trũng. Hệ thống cống tiêu nước cũ nhỏ hẹp nên không mấy tác dụng. Hệ thống cống mới xây thì hư hỏng, trục trặc, do làm ăn đuểnh đoảng và nguyên vật liệu bị bớt xén. Thành ra mỗi lần ngập như vậy phải vài ba ngày sau nước mới rút hết.
Thế mà mưa vẫn chưa dứt. Nước vẫn tuôn hối hả, dai dẳng.
Buổi sáng, Toàn ngán ngẩm nhìn trời. Mây đen còn dày như những tấm chì thế kia, bao giờ ông trời mới chịu ngừng trút nước? Anh giũ lại cái áo mưa cho khô hẳn, rồi quay vào nhà chải tóc, cạo râu. Sáng nay vợ chồng ông Jacques Roland được Bộ trưởng tiếp. Buổi chiều Toàn sẽ đưa vợ chồng ông đi thăm đền Quán Thánh và chùa Quán Sứ. Kế hoạch đến thăm chợ Đồng Xuân có lẽ phải hoãn lại, vì trời mưa chợ sẽ rất bẩn. Cũng còn may vì hôm qua đã kịp đưa họ đi thăm chùa Tây Phương, nếu để đến hôm nay, nước ngập, chắc không đi nổi. Còn buổi tối, vợ chồng ông Jacques Roland đứng ra chiêu đãi đáp lễ. Chắc chắn phải đến mười giờ đêm Toàn mới trở về nhà được. Mưa gió thế này, không biết chừng anh ngủ luôn tại phòng trực cũng nên.
Toàn vẫn đang chải tóc trước gương, bất chợt nghe có tiếng phụ nữ hỏi ngoài hành lang:
- Cô cho tôi hỏi, nhà anh Toàn ở đâu hả cô?
- Chị để em chỉ cho. Nào, cháu đi với cô.
Toàn ngỡ ngàng nhìn ra. Mấy bóng người vừa đến che tối khung cửa. Mỵ đang dắt tay một cháu bé chừng năm tuổi, áo mưa trùm kín, chỉ hở một khoảng mặt. Bên cạnh Mỵ là một phụ nữ vẫn mặc áo mưa, nhưng đã tháo mũ áo mưa ra, cầm tay, để lộ một vành tang trắng trên đầu.
- Anh Toàn - Người đàn bà bật lên một tiếng gọi run rẩy đẫm nước mắt.
Tim Toàn giật thót. Anh bước gấp ra cửa đón người đàn bà:
- Trời ơi, Trang, sao thế này?...
Đâu cần gì những câu hỏi dồn dập. Ánh mắt xám lạnh tang tóc của Trang đã nói hết cả. Rồi Trang cắn răng, gằm mặt xuống. Cặp môi run lên, khóc không thành tiếng. Chị định cởi cái áo mưa, nhưng những ngón tay cứng đờ quờ quạng, trơn trượt trên khuy áo. Mỵ vội đưa tay cởi áo mưa giúp Trang.
- Anh Hiệp mất rồi, anh Toàn ơi...
Trang thốt lên như không còn hơi. Chị gục đầu vào vai Mỵ. Một người ốm nặng phải vịn vào người khác như thế nào, Trang cũng vịn vào Mỵ như thế. Mỵ không hiểu chuyện gì, nhưng vốn dễ cảm thông, cô cũng rưng rưng. Mỵ dìu Trang vào nhà, đỡ cho chị ngồi xuống chiếc chiếu trải trên sàn. Con bé Trinh lúc này mới mếu máo vì bị bỏ lại một mình trước cửa. Nó nhúc nhắc thân người bị quấn chặt trong tấm áo mưa như một con nhộng trong kén. Toàn cởi áo mưa cho nó, bế thốc con bé vào trong nhà. Người nó lạnh ngắt, run lên từng đợt. Toàn giữ chặt con bé trong lòng, truyền cho nó chút hơi ấm của mình.
- Bị lâu chưa? - Toàn nghẹn ngào hỏi.
- Mười bốn ngày rồi... Hôm hăm bảy tháng mười...
Bây giờ Trang mới khóc được thành tiếng. Chị úp mặt vào hai bàn tay, khóc thổn thức. Quá cô đơn, Trang quay sang, gục vào vai Mỵ. Chị đâu kịp nghĩ xem Mỵ là ai. Một người có mặt bên cạnh lúc này, tức là có thể chia sẻ với người ấy được.
Ngoài trời, mưa vẫn rơi lã chã.
Con bé Trinh đang co quắp, úp mặt vào ngực Toàn cho ấm, nghe mẹ khóc, nó quay ra mếu máo. Trinh đâu ý thức được rõ rệt về cái chết của bố. Nó chỉ coi như bố lại đi một chuyến công tác xa. Nhưng Trinh phát sốt sau một chuyến tàu đêm chật ních đến ngạt thở, xuống tàu lại bị mưa rét. Định đi xích lô về nhà "ông ngoại" thì nước ngập quá trục xe, mẹ nó đành phải xuống xe, bế Trinh lội nước tìm vào khu tập thể này.
- Mẹ ơi - Con bé lật mình, quay ra phía Trang - Mẹ bế con.
- Cháu bị cảm sốt rồi - Toàn nói khi Trang đón lấy con và đưa tay sờ trán bé Trinh. Nói xong Toàn mới lúng túng vì trong nhà không có một viên thuốc nào.
- Em có mấy viên thuốc đông y. Để em lấy cho cháu uống - Mỵ đứng dậy, vội vã đi về phòng mình.
Trinh uống thuốc xong, đờ đẫn trong lòng mẹ vì mệt mỏi và buồn ngủ. Lúc này Trang mới trấn tĩnh lại, kể lần hồi. Hiệp chết trên đường từ lâm trường ra thị trấn. Hôm ấy anh vào lâm trường công tác, đúng ngày vui thành lập Vườn quốc gia Cát Bạc. Tiệc rượu liên hoan chưa tàn, Hiệp đã xin phép ra về. Công nhân lâm trường giữ Hiệp lại, nhưng anh vẫn dứt khoát về, vì buổi chiều còn phải ký hợp đồng với công ty xuất khẩu thành phố. Mấy ngày trước đó, cậu quân khí viên của tiểu đoàn bộ đội bỗng phát hiện rằng hai quả mìn trong kho bị đánh cắp, có dấu vết kẻ gian đột mái vào kho. Sau khi trái mìn nổ trên con đường xuyên đảo, người ta điều tra và đã bắt được thủ phạm. Đó là một tên lưu manh chuyên nghiệp, đã có nhiều tiền án tiền sự, vào tù ra tội như đi chợ. Tên này trốn ra đảo, lẩn tránh truy nã, và muốn trả thù đời...
... Chiếc xe khách đang chạy, thì một tiếng nổ dữ dội hất tung xe sang bên đường. Hiệp không có chỗ ngồi, phải đứng ở cửa sau, nên bị văng ra ngoài. Anh lăn mấy vòng, rồi vùng dậy ngay. Có mấy công nhân ở gần đó kịp thời chạy đến, định dìu Hiệp.
- Không cần - Hiệp đẩy họ ra, chỉ về phía chiếc xe đổ nghiêng ở đằng trước, đang vẳng ra tiếng kêu thét, rên rỉ - Mình có bị sây sát gì đâu.
Đúng là trên người Hiệp không có một vết thương nào. Hiệp xăm xăm đi được mấy bước, bỗng bước trẹo chân sang lề đường. Anh loạng choạng gắng thêm vài bước nữa, rồi đổ vật xuống. Người ta vội đưa anh đến bệnh viện. Hiệp bị hôn mê ngay. Lúc đó Trang đang hướng dẫn cho bà con Việt Hòa bảo quản gừng giống. Nghe tin báo, chị hoảng hốt theo xe về bệnh viện. Nhưng đến nơi thì Hiệp đã chết...
Toàn chớp chớp mắt, một màng nước giăng mờ trước mắt khiến anh không thấy gì cả. Anh rợn người nhớ lại câu nói dạo nào của Hiệp về tầm quan trọng của việc bảo vệ con đường xuyên đảo. Cái hòn đảo đang là mô hình nhỏ của một cuộc sống đầy sức sáng tạo trẻ trung, mỗi ngày thêm đổi mới, cũng là nơi cái xấu đang tìm cách phá từ trong ra. Con người đâu rồi? Phải cảnh giác, phải giữ gìn từ những mô hình mới mẻ ấy, phải bảo vệ từ những con người cụ thể ấy, mới có thể giữ được cả cuộc đời này.
Bé Trinh đã ngủ. Chỉ có ba người ngồi lặng lẽ. Ngoài khung cửa, mưa vẫn ròng ròng tuôn.
Bóng hai người phụ nữ trước mắt Toàn nhòe nhạt, rồi dần dần rõ ràng hơn. Đột ngột gương mặt của bà Mai Roland hiện lên, vẻ chờ đợi sốt ruột. Toàn giật mình nhớ ra. Gần đến giờ phải đến làm việc với vợ chồng ông Roland rồi.
- Khách đang chờ, mình phải đi...
Toàn không nói hết được, cảm thấy mình có lỗi. Có thể bỏ đi giữa lúc này sao? Dẫu không giúp được gì hơn cho mẹ con Trang, hôm nay Toàn cũng không thể đi làm. Nhưng như vậy có nghĩa là không có ai thực hiện chương trình làm việc ngày hôm nay cho vợ chồng ông Roland? Cán bộ và nhân viên sẽ nhốn nháo đi tìm Toàn? Mặc kệ họ, chắc họ cũng phải hiểu hôm nay có nhiều đoạn đường ngập nước, Toàn không thể đi qua được. Và rất có thể Toàn bị ốm? Toàn cũng đang ốm thật rồi đây.
Không được, Toàn chưa gọi điện báo cho cơ quan nên sẽ gây ra một tình trạng hoang mang, lộn xộn. Hơn nữa, nếu Toàn có gọi điện nhắn ông trưởng phòng cử người thay thế, cũng không xong. Hôm nay người nào cũng bị cuốn vào một đoàn khách, chẳng ai có thể tương trợ cho Toàn.
Trang không còn đủ minh mẫn để hiểu Toàn vừa nói gì. Chị mở to mắt nhìn Toàn trân trối, nhưng như nhìn vào một nơi nào rất xa. Chỉ có Mỵ hiểu, cô đặt tay lên bàn tay nóng như phát sốt của Trang và nói với Toàn:
- Anh cứ yên tâm đi làm. Em sẽ nấu cơm cho mẹ con chị ăn và lấy thêm thuốc cho cháu uống - Sợ Toàn chưa thực yên lòng, cô gấp gáp giải thích - Hôm nay nhà trẻ ngập nước, em được nghỉ anh ạ.
Cô gái hồn nhiên như một cô bé con này bỗng hóa thành một người chị, biết lo toan, quán xuyến. Lần đầu tiên Toàn phát hiện ra Mỵ trong dáng vẻ mới.
❖ ❖ ❖
Vợ chồng ông Roland che ô bước ra khỏi đền Quán Thánh. Đang bước trên khoảng sân gạch khấp khểnh có chỗ xanh rêu, bà Mai bỗng kêu lên thích thú:
- Ô, con cua.
Có một con cua đồng đang bò qua vũng nước gần chân bà. Nghe động, nó rướn người trên tám cái cẳng, đôi càng cong cong giương lên như thách thức. Chắc hẳn lâu lắm rồi, bà Mai mới lại nhìn thấy sinh vật nhỏ bé trong tư thế ngồ ngộ sống động như thế này. Toàn và ông Roland mỉm cười thấy bà Mai tròn mắt hồn nhiên như trẻ con.
Lúc đã lên xe, bà Mai lại im lặng như đang cố nhớ một điều gì. Gương mặt bà bỗng xa mờ hẳn đi. Xe đi qua mấy đoạn đường bị ngập nước, rác rưởi trôi lềnh bềnh. Thấy ô tô đi tới, những người đi xe đạp ngần ngại tránh. Họ muốn lánh xa ô tô để khỏi bị bắn nước lên người, hoặc sóng nước xô nghiêng xe, nhưng đi sâu quá vào trong lại sợ sa xuống cống rãnh. Bà Mai yên lặng dán mắt vào cửa kính, không bỏ sót một chuyện nào.
Về đến nhà khách, bà Mai không lên phòng cùng chồng mà ngồi ở gian tiền sảnh. Bà mời Toàn ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh.
- Đến mùa mưa đường phố lại ngập như vậy hả cháu? - Bà hỏi.
- Dạ, vài ba năm mới có một trận như vậy - Toàn đáp, không mấy hào hứng tiếp chuyện bà. Anh chỉ muốn chia tay với bà ngay để trở về phòng trực. Nghĩ đến mẹ con Trang đang ở nhà, nghĩ đến Hiệp, Toàn mong nhanh chóng thoát khỏi mọi vướng bận, để vào phòng trực, để không ai nhận thấy anh đang đau khổ, đang khóc thầm.
Bà Mai im lặng một chút, bất chợt bật cười một mình.
- Con cua trông ngộ nghĩnh quá cháu nhỉ - Nụ cười chưa hết độ đã chuyển thành cái mỉm cười tiếc nuối. Bà trầm ngâm một lát rồi hạ giọng như kể cho chính mình nghe - Hồi ấy, mười lăm tuổi, cô có theo chúng bạn tham gia phong trào học sinh yêu nước ở Hà Nội. Một đứa bạn thân móc nối với tổ chức, rủ trốn ra vùng tự do. Cô thích lắm, hăm hở chuẩn bị để đi ngay. Bất ngờ một hôm, người anh họ nói rằng ra vùng tự do phải ngủ bụi nằm bờ, phải tăng gia sản xuất, mà đồng ruộng có rất nhiều giun đỉa rắn rết. Cô rất sợ rắn và đỉa. Chỉ nhìn thấy hình vẽ của chúng trong sách học, cô đã run rẩy. Cho nên cô sợ phát sốt, như thể mình đã ra đến vùng tự do và phải lội xuống bùn. Những con cua, con nhái, rắn, đỉa xâu xé quanh chân. Thôi hết cả nhiệt tình, hết cả khao khát bồng bột được góp phần kháng chiến cứu quốc. Một năm sau, cô sang Pháp học...
Hóa ra con cua bắt gặp trong sân đền Quán Thánh đã làm thức dậy trong người đàn bà Việt kiều một kỷ niệm khiến bà day dứt. Một sinh vật bé nhỏ tưởng như vô nghĩa bỗng đóng vai trò quan trọng trong sự rẽ hướng của một con người. Nhưng có lẽ đó chỉ là cái cớ, con người sợ chính mình thôi, và cũng chính con người phải tự gia tăng sự rắn rỏi trong tâm hồn để chế ngự nỗi sợ của chính mình.
- Cua cáy rắn rết ở nước mình thì không bao giờ hết được - Toàn lắc đầu, lẩm bẩm.
- Và cô giờ đây vẫn còn sợ - Bà Mai buồn bã thú nhận.
Toàn gật đầu thông cảm với người đàn bà đã hơn ba chục năm xa Tổ quốc. Anh bỗng nhận ra một điều mà giữa cuộc sống đắng cay và vất vả thường ngày, anh ít khi nhận thấy: đó là hạnh phúc. Dẫu sao Toàn vẫn có phần hạnh phúc hơn bà Mai.
- Cả mưa lũ, hạn hán, bão tố cũng không bao giờ hết. Nhưng đó vẫn chỉ là những tai họa có thể nhìn thấy được.
Có phải Toàn chỉ nói với bà Mai đâu. Anh đang nói với chính mình, giọng nói mới xót xa âm thầm như vậy. Trước mắt Toàn lại hiện ra cái cảnh chia tay Hiệp ở bến tàu hai năm trước. Người bạn chất phác đang tìm cách dúi tiền vào tay Toàn. Toàn không nhận, thế mà cuối cùng lại thấy số tiền ấy ở trong túi xách.
Bà Mai quay nhìn Toàn. Đến lúc này bà mới thấy anh già sọm hẳn. Trông anh như đang bị một sức nặng vô hình nén rũ xuống.
- Cháu đang có chuyện buồn phải không?
Sự nhạy cảm của người đàn bà làm Toàn sực tỉnh. Toàn đang làm việc cơ mà. May mắn vì đây là người khách tham quan không chính thức, và có thiện ý, nhưng dù sao Toàn cũng đã có một phút làm việc không đúng tác phong đối ngoại.
- Dạ, có - Toàn nói thật và đứng dậy - Cháu sẽ nói cho cô biết sau. Còn hôm nay, cô sắp chủ trì một buổi chiêu đãi, cháu không muốn làm cô vướng bận.
Toàn chia tay bà Mai, rồi bước nhanh về phòng trực.