← Quay lại trang sách

Chương X

Mấy chục năm người Hà Nội mới lại chứng kiến một trận mưa làm nước ngập cao đến thế. Có những đoạn đường trũng, nước ngập đến ngực người lớn. Ở những phố cao hơn, nước ngập bánh xe con. Một chiếc xe du lịch mang biển số NN phải đi chậm lại, tránh những dòng người di chuyển chậm chạp qua đường phố ngập nước, bỗng thấy sùng sục sùng sục rồi động cơ tắt ngấm. Người qua đường đều là người đi bộ, đúng hơn là lội bộ. Không còn ai dắt nổi xe đạp.

Sau đêm mưa đầu tiên, nước lên mấp mé các kho tàng, nhưng cả thủ trưởng lẫn thủ kho các cơ quan đều cho rằng nước chỉ dâng đến thế mà thôi. Ngờ đâu mưa như trút thêm một đêm nữa. Sáng ra thì, ôi thôi, nước đã dâng cao hơn nền kho tới một mét. Những kho máy móc vật tư, những kho xi măng, bông vải sợi, thực phẩm... chịu thiệt hại nặng nề, đến vài năm sau vẫn còn thấy xa xót.

Ở khu tập thể này, sang ngày mưa thứ ba, nước dâng cao hơn mặt giường của những nhà ở tầng một. Buổi tối, Toàn về nhà đã thấy trong phòng chất đầy đồ đạc lạ: một cái ti vi, mấy cái va li đồ đạc, một số chăn chiếu, bao gạo và xoong nồi... Ngồi giữa đống lộn xộn đó là thằng bé vẫn gọi Toàn đi họp và một người đàn ông chừng ba mươi sáu tuổi. Không để cho Toàn kịp ngạc nhiên, Mỵ vội chạy sang giải thích:

- Anh cho bố con anh Khôi và cháu Đức nhờ ở đây. Mẹ con chị Trang đã sang ở tạm với em và Hồng.

Từ lúc chập tối Mỵ đã tất bật lao vào giúp những gia đình ở tầng một chuyển lên tầng hai, tầng ba. Trước đó Mỵ và Trang bị một trận xanh mắt vì con bé Trinh kêu đau bụng dữ dội. Mỵ phải chạy sang hàng xóm xin thuốc cho cháu uống, chưa yên tâm hẳn, nghe bà Hợi mách có mấy cây lá bỏng mọc ở phía sau nhà, gần gốc cây xà cừ, Mỵ liền lội ra, quờ quạng trong nước một lúc mới hái được mấy lá. Toàn ngắm cô gái còn rất ngây thơ này, nể trọng, có phần bỡ ngỡ. Cô ấy đã kịp làm một người chủ gia đình xốc vác, biết lo toan chu đáo cho mọi người từ bao giờ vậy?

Sáng hôm sau, mọi người mới dậy, đã thấy Mỵ ghé vào cửa gọi:

- Mời anh Toàn và anh Khôi đi chuyển gạo giúp cửa hàng lương thực.

Mỵ đã kịp đến khu vực bách hóa và cửa hàng lương thực, thực phẩm, thấy được nỗi lo lắng của nhân viên cửa hàng. Nguy cơ mất hàng tấn gạo đang làm cho mọi người cuống lên. Mỵ lập tức chạy về gọi tất cả thanh niên trong khu nhà ra giúp đỡ. Xuống đến chân cầu thang, thấy Khắc đang lội nước đến, Mỵ kéo Khắc đi luôn.

Cửa kho đã mở trước nỗi ngao ngán của những người đến tương trợ. Có mấy người bất bình kêu to:

- Làm ăn vô trách nhiệm, để mặc họ tự giải quyết hậu quả.

- Chiều tối hôm qua không chịu chuyển kho, để đến nỗi này mới chuyển thì ăn thua gì.

Mỵ không tham gia cuộc tranh cãi. Cô leo lên trên những bao gạo khô, vần một bao xuống cho Khắc ghé lưng cõng đi. Thấy vậy, Toàn cũng chen vào:

- Đẩy giúp tôi cái bao bên cạnh chân Mỵ kia kìa.

Anh xốc bao gạo lên lưng, hơi loạng choạng một lúc, rồi mới lội nước đi ra được. Bao gạo khoảng năm chục cân, chỉ những người khỏe hoặc quen làm mới cõng nổi. Những người khác thì phải khiêng, hai ba người khiêng một tải, các bao khô ở trên cao được chuyển hết lên văn phòng ở tầng hai. Mấy chục con người xúm vào, mất hơn một giờ mới chuyển hết số gạo lên gác. Cuối cùng chỉ còn lại những bao gạo bị ngập nước, bốc lên mùi chua ngái. Bà cửa hàng trưởng, nãy giờ cũng lăn xả vào khiêng gạo, quần áo ướt sũng, vừa lau mồ hôi trên trán vừa nói:

- Tôi xin thay mặt cán bộ công nhân viên cửa hàng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của bà con và anh chị em. Chúng tôi muốn nhờ bà con và anh chị em giúp cho một việc này nữa: số gạo hỏng này cũng là tài sản chung của chúng ta. Vậy trên tinh thần tương trợ, xin bà con chấp nhận mua số gạo này, mỗi nhà mua vài cân tính vào sổ gạo, để cho lợn hoặc cho gà ăn...

Người ta xôn xao bàn bạc. Mấy người nóng nảy dứt khoát không chịu nghe "xui dại". Chúng tôi đâu có nuôi gà nuôi lợn, mua về mà đem đổ đi à? Không mua bán gì hết, cho bọn quan liêu vô trách nhiệm đền trắng mắt ra. Nhưng lập tức có những ý kiến khác. Bà này nói năng khôn lắm, để lỡ ra rồi, còn biết ngon ngọt thuyết phục người khác "giúp đỡ". Thôi nào, bà con, tài sản chung thì mỗi người chịu thiệt một ít. Lúc thường mình đi mua gạo, cô bán hàng mắng vào mặt mình thật đấy, nhưng đến lúc họ gặp hoạn nạn, lại cũng là kẻ bị mắng vào mặt này cứu giúp họ thôi...

Mỵ định lội về lấy cái rá để đựng số gạo ướt sẽ mua, nhưng Khắc lội ra trước. Anh ái ngại nhìn bộ quần áo ướt dán trên người Mỵ, bảo cô đứng vào trong kho cho kín gió, rồi lội đi.

- Anh Khắc ơi, anh nhắc mọi người mang sổ gạo ra mua luôn nhé.

Mỵ đứng lùi vào trong nhà, bên cạnh Toàn. Anh nao nao thấy cặp môi Mỵ tím tái. Mỵ cười rất tự nhiên, không hề tỏ ra thẹn thùng làm duyên như những cô gái khác trước mặt con trai. Rồi nụ cười vụt tắt trên môi, Mỵ giật mình thốt lên:

- Em phải về sớm. Còn phải nấu cơm cho cháu Trinh ăn.

- Tôi cảm ơn Mỵ nhiều lắm - Toàn cảm động nhìn cô, cái nhìn nói nhiều hơn lời nói.

Lúc Toàn và Khắc mang về số gạo ướt mua cho cả ba gia đình, Trang và hai cô gái đang nấu một nồi cơm to cho tất cả cùng ăn. Thằng cu Đức đang đút cho chim sáo từng con châu chấu lạnh cứng. May quá, thằng bạn vừa mang từ trên tầng ba xuống cho một gói châu chấu nó bỏ trong tủ lạnh từ mấy hôm trước, làm "lương khô" cho sáo. Không có chỗ châu chấu này, biết đi vồ châu chấu hoặc mua chuối ở đâu giữa những ngày nước ngập?

Ba người đang nấu cơm ở nhà Mỵ thì ông Thịnh ghé vào. Từ chiều hôm qua, nhà ông đã chuyển một ít đồ đạc lên ở nhờ trên tầng ba. Ông cười xởi lởi trước nồi cơm to đang sôi rùng rục.

- Ôi chà, định nấu cho cả một đại quân ăn hay sao thế này? - Ông ái ngại đưa mắt nhìn khắp gian phòng mười hai mét vuông, ngổn ngang đồ đạc, giọng bất bình - Gia đình ông Khuynh chưa trả phòng cho cháu, hả Mỵ?

- Chưa ạ, cô ấy lần lữa mãi. Lần nào cũng bảo sẽ trả ngay, sẽ trả ngay.

Không để ý thấy Trang sững sờ buông cái đũa cả khi nghe nhắc đến tên "Khuynh", ông Thịnh lắc đầu bực bội:

- Không thể kéo dài mãi như thế được. Hôm nào nước rút, bác sẽ bàn với ủy ban phường có biện pháp lấy lại nhà cho cháu. Người đâu mà tham lam, keo kiệt. Một mình ba căn hộ, mà nhất định không cho gia đình nào ở tầng một lên ở nhờ. Thật là những lúc như thế này mới đo được nông sâu lòng người.

Mây đen bắt đầu tan. Trời sáng hơn. Mưa đã tạnh hẳn. Nhưng nước rút một cách chậm chạp. Một buổi tối có một đám cưới. Đã chọn ngày lành tháng tốt, thiếp mời cũng đã gửi từ trước hôm mưa, nên lễ cưới vẫn được tiến hành, không hoãn lại. Mấy cô cậu vừa là phù dâu phù rể, vừa là bạn của hai người, tà áo dài vén lên buộc một vòng ngang bụng, quần lụa trắng xắn quá đầu gối. Cánh con trai, comlê, cravat chỉnh tề, nhưng quần cũng xắn rất cao. Họ bám xung quanh một chiếc thuyền câu, thuê được ở đâu đó trong làng. Cô dâu chú rể ngồi chễm chệ trên thuyền, trông như Hoàng tử và Công chúa của một triều đình đi lánh nạn. Đằng sau thuyền cô dâu chú rể là một chiếc thuyền chở song thân hai người. Đám trai thanh gái tú ăn mặc hợp mốt, mỗi một trục trặc nhỏ là quần phải xắn cao, một tay đẩy thuyền, một tay xách giày và xăngđan gót nhọn. Mấy người đi bên cạnh cầm đèn bão sáng trưng.

Dòng người như một con rắn lửa, ánh đèn vỡ ra trên mặt nước, trườn từ ngoài đường vào giữa hai khu nhà C4 và C6. Người ở các phòng trong hai khu nhà đều tung cửa, cầm đèn dầu nhìn ra. Từ tầng một đến tầng năm, hầu như nhà nào cũng có một ngọn đèn dầu, góp thêm ánh sáng cho cái đám cưới thiệt thòi kia. Đám thanh niên và lũ trẻ con hò reo inh ỏi:

- A ha, cô dâu chú rể đi bơi thuyền Hồ Tây.

- Hôn nhau đi, cẩn thận không lật thuyền đấy.

Dòng người đã chạm vào bậc tam cấp lên hành lang tầng một. Mấy vị phù dâu phù rể tót lên hành lang trước, đi tất đi giày vào, bỏ ống quần xuống, xoa tay trịnh trọng chờ cô dâu chú rể bước lên. Nhưng đáy thuyền chạm vào một bậc xi măng, không tiến vào được. Mấy vị lo việc hậu trường lắng quắng chạy ra chạy vào. Tiếng xôn xao chỉ đạo của mấy vị quân sư:

- Tìm một thanh gỗ nhanh lên.

- Gỗ đâu ra bây giờ?

- Thế thì lội xuống mà cõng dâu rể vào. Chưa được đốt pháo đâu nhé.

Chú rể là người không phải làm gì hết, nhưng đã bị xoay vần cả một ngày trời. Hai cái cổ cứng khuôn chặt cổ lại. Chiếc cravat chết tiệt cứ thít chặt như thòng lọng. Đầu óc căng thẳng. Ruột nóng như lửa. Lúc nào cũng cảm thấy mọi việc chậm quá. mọi việc sắp hỏng đến nơi. Thấy mọi người tíu tít trên hành lang mà chưa làm gì được, chú rể hầm hầm đứng vụt dậy, định nhảy từ thuyền lên hành lang. Chiếc thuyền mất thăng bằng, dúi một cái, làm cô dâu suýt bắn xuống nước. Cô dâu rú lên, ôm vội lấy chân chú rể. Đám trẻ con ở bên những cửa sổ reo hò thích thú.

- Có nhanh nhanh không nào - Chú rể tức tối gọi với lên đám người rối rít vô tích sự - Tôi nhảy xuống đây này.

May mắn làm sao, người ta đã tìm được một tấm gỗ, đem bắc giữa con thuyền và hành lang. Cô dâu, sau đó là chú rể, đi trên tấm gỗ hẹp, nhún nhảy như làm xiếc. Lúc họ lên được đến nơi an toàn, những người nãy giờ phải nín thở theo dõi đồng thanh ồ lên một tiếng. Tiếng reo lan khắp cả hai khu nhà.

Đám cưới đã làm được công việc liên kết mà lâu nay Ban nhà chưa làm được.

❖ ❖ ❖

Những ngày mưa, Diệu không ra khỏi nhà. Khuynh cũng không đi đâu, trừ buổi tối đến bệnh viện thăm Hoài. Băng quấn kín mặt, chỉ hở mắt và miệng, Hoài kể lại chuyện mình bị ba đứa rạch mặt thuê hành hung. Cô trào nước mắt vì uất ức, bộ mặt cô từ nay phải mang sẹo. Nhưng Khuynh cảm thấy Hoài còn khóc vì lo. Nỗi lo ấy âm ỉ kín đáo, Khuynh chưa kịp hiểu ra, nhất là trong lúc đầu óc đang rối tung lên vì tức giận như thế này.

Khuynh sắp sửa ra về, Hoài bỗng giữ tay Khuynh.

- Em mang tật, nhưng anh sẽ không bỏ em chứ? - Cô hỏi.

Khuynh đưa cả hai tay nắm lấy bàn tay run run của Hoài:

- Sao em lại nghĩ vậy? Anh yêu em mà.

Không phải Khuynh nói cho Hoài yên tâm. Nhiều người đàn bà đã qua tay Khuynh. Đã có hai người Khuynh phải coi là vợ. Còn yêu, đây là người đàn bà đầu tiên. Lạ lùng thay, dạo trước Hoài chưa bao giờ tỏ ý ràng buộc Khuynh. Thế  mà hôm nay cô lo ngại sẽ bị Khuynh ruồng rẫy. Người phụ nữ sắc đẹp bị hủy hoại không còn đủ tự tin nữa, cô bắt đầu lo sợ sẽ mất tất cả. Không đâu, dẫu có thế nào, anh cũng không bỏ em. Nhưng anh bắt mẹ con nó phải trả giá. Không có bằng chứng, nhưng Khuynh vẫn tin là mẹ con Diệu gây ra vụ việc này.

Lúc nào Diệu cũng nhớn nhác, sợ có người rình rập hoặc đến bắt. Diệu lo cho thằng Sa. Thỉnh thoảng Diệu lại chạy ra lan can, ngó bên phải, ngó bên trái. Tim đập thình thịch như quai búa. Thằng Sa không biết cách trốn ở nhà bạn bè, hoặc đi Nam cho thoát, mà lại mò về, quá bằng chui đầu vào bẫy. Diệu rùng mình nhớ lại cái lần nghe tiếng bẫy chuột phập một cái, tiếng chuột "chóe" rùng rợn. Thằng Sa reo lên, chạy vào nhà trong cầm cái bẫy ra. Con chuột vừa chui đầu vào, đã bị cái lưỡi thép răng cưa sập đứt cổ. Máu chảy luễ nhuễ. Cặp mắt con chuột lồi lên phát sợ.

Diệu không dám nghĩ nữa, quay vào nhà. Vẫn không nguôi được nỗi lo, Diệu tìm nơi san sẻ ở chồng:

- Em cho là thằng Sa đi miền Nam, hoặc trốn yên ở nhà mấy đứa bạn rồi. Chả dại gì nó mò về nhà. Nó thừa biết cá chìm cá nổi rình rập quanh đây. Nhưng may ra lụt lội thế này, chúng nó cũng ngại, chẳng rình nữa.

- Sao cô biết người ta không theo dõi? - Khuynh trừng mắt, muốn làm cho Diệu không yên tâm nổi, bèn nói giọng độc ác - Phen này thằng ấy rũ tù.

- Anh thật là bất nhân, không còn tình cha con gì nữa.

- Cô chuẩn bị đến Hỏa Lò nuôi cơm nó đi là vừa - Khuynh nói.

Nói thản nhiên, nhưng lòng Khuynh đang sôi lên. Thằng đốn mạt về lúc này, Khuynh sẽ đập chết nó như đập một con chó dại. Mẹ con nó hùa nhau xông vào dìm dập Khuynh, chọn đúng lúc Khuynh sa sút nhất. Khuynh bây giờ không còn chức vụ quan trọng, không vụ trưởng vụ phó, mà chỉ là một chuyên viên bình thường, như vậy chưa đủ đau hay sao, mẹ con nó còn lao vào rỉa rói, cắn xé? Từ đêm mưa đầu tiên, ở bệnh viện trở về, Khuynh ghê tởm Diệu, tránh né mụ như tránh một con bệnh mang vi trùng lây. Khuynh không ngủ trên chiếc giường đôi nữa. Thế là từ nay đầu Khuynh không còn đau nhức vì bị cái "hạt ngô" trong gối chọc vào. Khuynh cũng không nằm trên giường của thằng Sa, mà mang cái giường xếp ra ngủ ở phòng khách. Giá như mọi lần, Diệu đã nổi tam bành, bắt Khuynh trở lại giường sau một trận lồng rít. Nhưng đã quá mệt mỏi vì lo cho con, lo sợi dây ràng buộc giữa hai người quá căng thẳng sẽ đứt phựt, Diệu tạm thời nhẫn chịu.

Buổi chiều không mưa, không gian vẫn sa sầm, ảm đạm. Hai con người ngồi như hai cái bóng trong phòng khách. Không chuyện trò, không cãi cọ. Bầu không khí bức bối, nghẹt thở như đậm đặc khí cháy, chỉ cần một tia lửa, căn phòng sẽ cháy bùng lên.

Thình lình, một bóng người che tối cửa ra vào. Diệu và Khuynh chưa kịp định thần, cái bóng đã lướt nhanh vào, đứng như trời trồng ở giữa nhà.

- Úi giời ơi, Sa - Diệu rú lên. Kịp nhận ra mình dại, cô ta che miệng, mắt đảo nhanh ra cửa - Có công an theo dõi con không?

Diệu chạy bổ ra đóng cửa lại.

- Mày sửa soạn quần áo mà đi Hỏa Lò - Khuynh bật dậy, mặt nóng bừng bừng như hun lửa - Họ sắp đến rồi đấy.

Thằng Sa đàng hoàng ngồi xuống ghế, giọng chán chường:

- Tôi đang chờ họ đây.

- Nhưng không phải con thuê chúng nó rạch mặt chứ?

Diệu vẫn muốn biết rõ ràng sự việc.

- Sao lại không? Tôi chỉ cần bảo chúng nó một câu, chúng nó làm ngay.

- Đồ khốn nạn - Khuynh bật dậy, chồm tới định giáng cho thằng Sa một cái tát. Nhưng Diệu nhanh hơn, lăn xả vào Khuynh với mười móng tay màu mận chín. Đang đà lao mạnh, Khuynh xô vào Diệu, cả hai ngã ngả ngốn trên nền gạch hoa. Thằng Sa cười khẩy, nhìn hai người lổm ngổm bò dậy.

- Tao sẽ giết mày - Khuynh rít lên the thé vì ngạt hơi.

- Ông đã giết tôi rồi đấy thôi. Người ta sẽ cho tôi vào bộ đội, thí tôi như một con tốt đen - Thằng Sa cố nói giọng thản nhiên. Đột ngột mắt nó vằn lên dữ tợn - Tôi căm thù ông, tôi căm thù con mụ ấy, và các người đã phải đền nợ.

Cặp mắt Diệu nhướng lên làm cho con mắt trái trố ra, long sòng sọc. Cơ má mụ giật đùng đùng một khoái cảm bệnh tật. Sa ơi, thế là con đã giúp mẹ, đã trả thù cho mẹ. Khuynh phát điên lên vì đọc được ý nghĩ ấy.

- Tao sẽ đi báo công an - Khuynh lại đứng vụt dậy gào điên dại.

Diệu tức khắc chặn ngay trước mặt Khuynh, giữa hướng đi ra cửa.

- Ông bảo họ sẽ tự đến cơ mà? - Mụ nhếch mép nham hiểm. Cơ mặt vẫn rung giần giật.

Khuynh không còn biết nao núng, lao mạnh về phía trước:

- Lần này tao sẽ đi báo. Mẹ con chúng mày sẽ rục xương. Bọn sát nhân, bọn khốn nạn.

Cái cốc nước đầy ứ căm giận của Diệu chỉ đến thế là tràn. Diệu lăn xả vào Khuynh, quyết một sống một chết phen này. Mười móng tay nhọn mổ vào ngực Khuynh như móng vuốt diều hâu. Chúng quặp được cái áo, xoắn vặn, day dứt, giật tung ra. Mụ mê mẩn tâm thần, không còn nghe thấy tiếng áo rách, không nhận ra mấy mảnh áo tơi tả, không cảm thấy móng tay mình đang rứt thịt, quờ lên rạch ngang dọc trên mặt chồng. Khuynh gạt, Khuynh đấm, nhưng mười ngón tay vẫn tới tấp mổ. Khuynh tối tăm mặt mũi. Đầu óc quay cuồng. Căm uất bốc ngùn ngụt làm Khuynh ngạt thở, sắp ngất đi. Khuynh lao ra cửa. Diệu kịp hiểu rằng Khuynh lọt được qua cửa, tức là mụ thất bại, tức là sẽ tan nát hết. Không đâu, Diệu quyết xả thân, kể cả có ai nhét dao vào tay mụ lúc này, mụ cũng không ngại đâm chém. Mụ lao theo, hai tay quờ được quanh hông Khuynh, đu cả người theo. Khuynh thở hồng hộc, kéo Diệu lê sền sệt, tay vẫn siết chặt quanh người Khuynh như một con trăn quấn mồi. Diệu dồn lực toàn thân, kéo Khuynh bật ngửa ra giữa nhà. Mụ chồm lên người Khuynh, hai tay túm chặt tóc, như cuộc đánh ghen giữa hai người đàn bà.

- Báo cho mà biết - Mụ hổn hển sắp đứt hơi. Mắt trắng dã như mắt lợn luộc. Từng múi thịt trên mặt nhăn nhúm, giật giã như bị động kinh - Đừng có trêu vào gái này. Con kia bị rạch mặt. Còn cái thân mày, gái này chỉ hắt hơi một cái là có đứa đổ axít vào mặt ngay...

Chẳng hiểu vì đã kiệt sức, hay vì sợ bộ mặt dữ tợn mái tóc xù lên như bờm sư tử của Diệu, sợ câu đe dọa khủng khiếp mà mụ có đủ gan để làm, Khuynh nhũn người ra như một xác chết. Trên người nặng như có một tảng đá dằn lên, Khuynh không sao dậy nổi. Khuynh nhắm mắt, gần như ngất đi mấy phút.

Chiến thắng trợ sức cho Diệu. Mặc Khuynh nằm đấy, mụ vùng dậy, cuống quít gọi thằng Sa:

- Vào đây với mẹ, nhanh lên.

Mụ lôi thằng Sa đang dùng dằng cưỡng lại. Hai mẹ con chạy vào phòng ngủ. Diệu hấp tấp mở cánh cửa "phòng kho" - căn phòng lấn chiếm của Mỵ. Mụ nghiêng tai nghe ngóng như một con cáo, thấy bên kia hoàn toàn im ắng, mới đẩy thằng Sa vào.

- Con cứ ở tạm trong này - Mụ thì thào - Có điều gì bất trắc thì chui vào sau những hộp đồ. Chịu khó mấy ngày cho yên yên. Mẹ sẽ mang thức ăn vào cho con.

Không để thằng Sa kịp phản đối, Diệu quay ra, khép cửa lại. Phòng xa vậy thôi. Nhà Diệu đã đến nỗi nào để người ta khám xét? Diệu trở ra phòng ngoài, bước qua chỗ Khuynh nằm lịm, mở cửa, đi ra hành lang. Nhìn ngó ngược xuôi một lát, vẫn chưa yên lòng, Diệu xuống tầng một. Lần đầu tiên Diệu hạ cố bắt chuyện với một thiếu phụ ở chân cầu thang, nói những chuyện đầu cua tai ếch về trận mưa, nước lụt. Mắt vẫn đảo canh chừng xung quanh.

... Khuynh ngồi dậy, ê chề, như một người muốn chết, đã uống thuốc ngủ tự tử, nhưng người ta lại đưa đi rửa ruột, không chết được. Hơn nữa, trong Khuynh còn một nỗi thù hận đang hừng hực, như sắp đốt cháy thân thể thành tro. Cái con yêu tinh kia đâu rồi? Phải tìm mọi cách phanh thây nó ra. Cái thằng tiểu yêu kia đâu rồi? Phải đập vỡ mặt nó. Nhưng Khuynh đã làm được gì? Khuynh đã thua nó một keo nhục nhã. Thằng con ngồi thản nhiên xem mẹ nó túm tóc, cắn xé bố nó. Ghê gớm làm sao cái thứ con có thể ngồi thản nhiên như thế.

Vậy Khuynh bất lực ư? Suốt đời Khuynh chịu nằm trong vòng cương tỏa của chúng nó, để chúng mặc sức hành hạ, mặc sức phá hoại hạnh phúc của Khuynh?

Khuynh lần vào phòng trong như tìm kiếm một cái gì. Có gì để mà đập tan ra, để mà giẫm nát, để mà bóp cho nghẹt thở, để mà nghiền vụn?

- Có người - Một tiếng kêu lảnh lót từ lan can đằng sau.

Khuynh hoảng hồn, nép mình vào bên cạnh tủ theo một phản ứng bản năng. Như một tội đồ đang che giấu âm mưu, Khuynh sợ hết thảy. Khuynh nép người vào bên tủ, vừa lúc tri giác trở lại. Kẻ vừa kêu một tiếng chỉ điểm ấy là một con sáo. Nó đang đậu trên một cành cây xà cừ còn đẫm nước mưa. Những chiếc lá bóng láng lên như được quét một lớp dầu. Con sáo ngẩng cao đầu, nhìn lên bầu trời, mây đen đang vần vũ tan dần. Trông nó mới cao ngạo, kiêu hãnh làm sao.

Kẻ đã đầu độc Khuynh mấy chục năm, kẻ Khuynh căm thù nhất đã hiện hình ra đấy. Mày còn vênh vang tự đắc lắm nhỉ? Mày còn sung sướng nhởn nhơ lắm nhỉ? Khuynh len lén lấy cái hộp đạn trên tủ, rón rén bước vào phòng kho. Ông ta đưa lưng vào trước, vừa giật lùi vừa khép cửa lại nên không thấy thằng Sa đã kịp nấp sau đống hòm đồ.

Khuynh kề súng lên một cái hòm gỗ thông, lấy đường ngắm rất nhanh. Với thằng cu Đức, con chim sáo là người mẹ đã mất, nay phục sinh, là một sinh vật thiêng liêng, là tình mẫu tử. Còn với Khuynh, con sáo là hồn ma ám ảnh của một con yêu tinh chết đi sống lại, một sức sống dai dẳng quỷ quái. Nhưng chỉ một lần này nữa thôi, mày sẽ vĩnh viễn trút bỏ linh hồn khỏi thân xác của loài chim.

Chỉ nghe một tiếng "pạch" không to lắm.

- Mẹ ơi - Con sáo còn kịp kêu thất thanh.

Đang ngẩng đầu lên, nó giật toàn thân, bị sức mạnh của viên đạn dúi về đằng trước. Chim sáo há mỏ như muốn hớp thêm chút không khí, và như sẽ kêu lên một tiếng nữa. Nó loạng choạng, cánh xòa ra, đập vào cành xà cừ. Không gượng nổi, chim sáo gục xuống, cánh mắc vào cành lá, thân treo lủng lẳng trên cành cây. Trái tim bé nhỏ vẫn còn vật vã, tấm thân chim sáo rung lên, oằn oại một lát nữa, rồi mới rơi xuống.

Có tiếng rú thất thanh của một thằng bé. Khuynh buông khẩu súng, đến bên lan can, quỳ thụp xuống, kín đáo nhìn qua khe hở.

Bên dưới kia, nước vẫn ngập gốc xà cừ tới một mét. Quên cả nguy hiểm, thằng cu Đức lao từ trong nhà ra. Nước vừa chấm đến mũi nó. Thằng bé  vừa ngửa mặt, vừa quờ quạng lao như đã hóa dại về phía con sáo. Nó chới với mù quáng, đã đến gần con sáo, lại quay sang hướng khác. Trời ơi, nguy hiểm quá, ai cứu thằng bé kìa! Những người ở trên cao cùng hét lên.

Toàn đang đứng ở lan can đằng sau. Nhận thấy thằng bé đang bị đe dọa tính mạng, Toàn chạy ra cửa trước, nhảy một bước mấy bậc xuống cầu thang. Anh xông ra, ùm ùm rẽ nước. Chỉ mấy bước Toàn đã tóm được cu Đức, nâng bổng nó lên. Thằng bé quẫy đạp, khóc thê thảm. Toàn phải dấn thêm mấy bước nữa, vớt lấy xác chim sáo, mang vào theo.

Anh bước lên hành lang trước ánh mắt kinh hoàng của lũ trẻ. Con sáo biết gọi mẹ chết rồi sao? Chúng ngơ ngác nhìn nhau. Ai mà ác thế? Sao đi bắn một con chim vô tội, một con chim đang học làm người?

Bà Hợi xây xẩm mặt mày, tránh ra cho Toàn đi.

- Máu... máu trên bụng con chim... Sao thất đức thế hở giời? - Bà rùng mình liền mấy cái, nhắm nghiền mắt, không dám nhìn.

- Mẹ ơi - Đức siết chặt lấy cổ Toàn, nấc lên ngằn ngặt. Nước mắt nó giàn giụa, nóng cả ngực anh. Cơn đau làm Đức tê liệt nửa người.

Toàn ôm gọn cu Đức trong lòng, mở cửa bước vào phòng. Anh thấy sống mũi mình cay cay. Ôi chú bé đi lạc, phải chăng Toàn đã tìm thấy em, đã ôm gọn em trong tay mình?

❖ ❖ ❖

Vẫn trong tư thế quỳ sụp ấy, Khuynh gục đầu vào thành lan can, không chống chân đứng lên nổi. Như thể đã hoàn toàn tê liệt. Như thể đã cạn kiệt sức lực. Còn lại một chút cuối cùng trong người, Khuynh đã trút bỏ nốt. Sự sa sút địa vị mới chỉ là bắt đầu. Sự sa sút nhân cách mới hoàn toàn tước bỏ cái quyền được coi là người của một kẻ tâm hồn tàn héo và độc ác. Khuynh đã tự cách ly mình với thế giới con người bằng cách ấy.

Báo thù được rồi, bắn được chim sáo rồi, Khuynh không cảm thấy nhẹ nhõm chút nào. Có điều gì nhầm lẫn ở đây chăng? Bao nhiêu năm Khuynh đã bắn nhầm mục tiêu, đã giết oan những sinh vật vô tội. Oan hồn của chúng đã trả thù Khuynh. Còn cái ác, cái bất hạnh vẫn lẩn quất quanh đây, thậm chí còn sưng tấy ngay trong lòng Khuynh như một khối u ác tính. Hơn lúc nào hết, Khuynh biết mình đã phạm một sai lầm rất lớn và sai lầm dai dẳng. Thành ra Khuynh đã gây nên tội mà chẳng đạt tới một kết cục gì.

Có khi sự hạ thấp nhân cách của một kẻ lại làm cho kẻ có nguy cơ sa sút phải ghê tởm. Kẻ này có dịp nhận biết cái ác của người khác nhờ có một khoảng cách cần thiết. Khoảng cách ấy đúng bằng khoảng cách từ chỗ Khuynh nâng khẩu súng đến chỗ mấy cái hộp to kềnh càng. Có tiếng sột soạt như chuột chạy rồi lục cục quẫy đạp. Một cái hộp giấy trên cao lăn cồng cộc qua mấy cái hòm gỗ, rơi xuống sau lưng Khuynh. Khuynh lờ ngờ quay lại, thấy thằng Sa vừa chui ra khỏi đống hộp hòm. Nó đứng im nhìn Khuynh như nhìn một bãi rác giữa lối đi, nó đang cố tìm đường vòng tránh.

- Con chim thì có tội gì? - Thằng Sa nhệch mép - Sao không cầm súng bắn tôi đây này?

Cái ung nhọt ác tính trong người tấy lên rồi vỡ ra, Khuynh nhăn mặt, đau quặn. Ánh mắt khinh bỉ, cái nhệch mép mai mỉa, cái giọng nói xấc xược của thằng con làm Khuynh cảm thấy một cách chính xác tình trạng thảm hại của mình. Không còn đủ sức để gào thét đập phá và tiêu diệt một cái gì. Cũng không diệt nổi vì chúng từ trong máu mình chui ra, sống bên cạnh mình mấy chục năm trời. Chỉ còn cách lẩn tránh chúng mà thôi.

Rất chậm chạp. Khuynh đứng dậy, đi như một bệnh nhân đang cố lần ra khỏi phòng bệnh. Thằng Sa lạnh lùng đi theo. Để xem xem nơi chân dốc mà ông ta vừa sa xuống nó ra sao.

Khuynh khoác bộ comlê vào người mà không ý thức nổi mình đang làm gì. Chỉ là phản ứng bản năng trước khi ra khỏi nhà. Mười tám năm trước, trước khi bị trói buộc vào Diệu, Khuynh là kẻ hoàn toàn trắng tay. Không còn vợ con, không còn quá khứ, kỷ niệm. Khuynh quyết làm lại cuộc đời, gây dựng một hạnh phúc mới mẻ, một sự nghiệp cao sang. Mười tám năm sau, Khuynh ra khỏi căn nhà mà hạnh phúc đau nhói đâm từ trong gối ra, cũng với hai bàn tay trắng. Nhưng lần này, ngoài một thứ tình yêu cuối mùa với người đàn bà bộ mặt nhàu nát vì bị xẻ rạch, không còn gì hứa hẹn ở phía trước. Mọi thứ đều trống rỗng. Mà cơ hội và thời gian không còn nữa. Muộn màng rồi.

Bất đồ, Diệu lao thốc vào phòng.

- Đi đâu? - Mụ gầm lên. Tưởng rằng sau cú giằng giật ban nãy thằng cha đã biết điều hơn.

Khuynh không nói, chỉ nhìn mụ, ánh mắt thương hại, cầu xin. Trái chanh đã vắt kiệt, mụ cũng nên giữ chừng mực, đừng động đến cái vỏ chanh đã xơ xác.

Thằng Sa lập tức kẹp chặt hai cánh tay Diệu trước khi mụ nổi cơn. Thời gian đủ cho Khuynh ra khỏi cửa, xuống đến chân cầu thang.

- Buông mẹ ra - Diệu vùng vẫy trong hai bàn tay thằng Sa như cái kẹp sắt - Nó đi báo công an đấy.

Thằng Sa xoay Diệu lại, nhìn vào mắt mụ, như mắt một con sói sắp nuốt mồi:

- Mẹ thì hơn gì, chính mẹ đã đẩy tôi đến chỗ tội lỗi, đẩy tôi vào tay công an.

Nó buông Diệu ra, chìa hai cánh tay ra trước mặt mụ như để cho người ta dập còng số tám vào:

- Tôi sẽ phải đi cải tạo. Nếu không, đi đâu cũng được, miễn là thoát khỏi cái nhà khốn kiếp này.

Thằng Sa bỏ tay xuống, trân trố nhìn Diệu đang đứng chết lặng vì sợ hãi, tưởng thằng con đã phát điên. Mắt nó vằn lên, nước bọt sùi hai bên mép bắn tóe ra theo mỗi lời nói. Đột ngột nó ngoắt người lao ra khỏi nhà.

Ở dưới kia, Khuynh đang chạy roàm roạp trên con đường nước ngập quá gối. Rõ dở hơi cái nhà ông kia. Dáng vẻ sang trọng, áo vét chỉnh tề, thế mà chạy trong nước ngập như một con trâu lồng, không thèm xắn quần lên cho khỏi ướt? Giờ đây Khuynh cần gì giữ gìn tư thế. Chức vụ, phẩm hàm, tư cách tước bỏ hết cả rồi. Trước mắt Khuynh chỉ có người đàn bà bị rạch mặt và căn nhà có phòng tắm nước nóng kia.

Ông ấy là trợ lý Bộ trưởng đấy - Một người bảo. Nhầm rồi- người khác cãi. Người này tinh ý nhận thấy trong dáng  chạy của Khuynh một sự buông tuồng không thể có ở một ông trợ lý, một người vẫn còn cái để mà giữ gìn.

❖ ❖ ❖

Vô tình Trang phải chứng kiến sự việc xảy ra trong phòng chứa đồ của Diệu.

Lúc ấy con bé Trinh đã ngủ, giấc ngủ hồi sức sau mấy ngày sinh hoạt bị xáo trộn, thất thường: phải đi tàu thủy từ đảo về đất liền, từ đất liền đi tàu hỏa về Hà Nội. Rồi mưa gió, ngập lụt làm nó bị cảm sốt, đau bụng... May thay, hôm nay con bé bắt đầu bình phục. Chỉ có Trang vẫn ngẩn ngơ như không phải đang sống nữa. Mỵ đã đến trường học để thu dọn bàn ghế và đồ dùng giảng dạy. Lo tang cho chồng xong, Trang rơi vào trạng thái lơ mơ chống chếnh như một người vừa bị mất chân, chưa kịp làm quen với sự thăng bằng mới trên mặt đất. Từ khi còn rất bé, Trang đã mất cả cha lẫn mẹ. Thực ra càng lớn lên, Trang mới càng cảm nhận được tổn thất ấy một cách rõ ràng hơn. Cuộc sống mới dưới mái nhà của chú Đôn chỉ đem lại cho Trang một niềm hạnh phúc thất thiệt, khiến cô sớm phải trở thành người quán xuyến gia đình, phải tất tả ngược xuôi tìm kiếm một ông chú mắc bệnh tâm thần. Chỉ khi sống với Hiệp, Trang mới cảm thấy hạnh phúc của mình tương đối trọn vẹn. Những tưởng cuộc sống dần dà đạt tới sự an bài. Trời ơi, nếu như đau khổ mất mát là sự thử thách, thì cớ gì cuộc đời thử thách một con người quá nhiều như vậy? Thử thách ấy chỉ đơn thuần là một sự tước đoạt. Con người bị mất hết, mất cả tuổi trẻ, mà không lấy lại được chút gì. Trong căn phòng trống quạnh, hương khói hắt hiu, Trang rùng mình thật sự. Không chịu nổi sự thiếu vắng một người thân, Trang xin nghỉ phép, đưa con về Hà nội. Nơi ấy bé Trinh có một người "ông ngoại" mà nó bi bô gọi từ khi mới học nói. Bệnh trạng của chú Đôn mấy năm gần đây đã thuyên giảm. Vợ chồng Trang nhiều lần mời chú ra đảo sống cùng, nhưng chú Đôn không chịu. Chú ở lại, sống dựa vào bà con hàng phố láng giềng. Trang về Hà Nội, còn vì muốn tìm được người chia sẻ tổn thất không thể bù đắp của mình. Toàn là người hiểu Hiệp, là bạn từ tấm bé của Hiệp. Trang không tự cắt nghĩa nổi tại sao lúc ấy chị nghĩ đến Toàn như nghĩ đến một chỗ dựa, một hậu phương vững chắc. Có lẽ bản thân Toàn đã là một lời bảo đảm đáng tin cậy đối với bạn bè. Cũng có thể chút cảm xúc mơ hồ bấy lâu Trang cảm thấy bỗng hóa thành một cánh tay chìa ra cho Trang nắm, kéo chị ra khỏi cái vòm hang ảm đạm kia. Thế mà về đến đây rồi, Trang lại cồn cào sốt ruột. Có ai đó đang chờ, đang nhắc đến Trang, đang gọi Trang ở một nơi xa. Hình như Hiệp đang gọi?

Trang ngồi bên bàn, tay chống cằm, nhìn bé Trinh đang ngủ. Đúng ra con bé giống Trang hơn, nhưng lúc này chị thấy gương mặt ấy rất giống Hiệp. Cái lần anh ngồi bên chiếc xe chở xỉ, mệt mỏi nhắm mắt lại. Trang ngồi xuống bên cạnh, phẩy nón quạt cho cả hai người. Họ còn trẻ lắm, mười bảy mười tám tuổi. Nhưng thời gian đáng lẽ dành cho vui chơi giải trí thì phải để gây dựng lại cuộc sống sau chiến tranh cho gia đình. Ban đầu Hiệp dứt khoát không để cho Trang đẩy xe xỉ. Quen nhau chưa lâu, Trang lại là gái, làm thế đâu có tiện. Nhưng Trang lao vào công việc, hồn nhiên, bướng bỉnh. Trang quen làm những việc nặng hơn nhiều. Vả lại cô tìm thấy nguồn vui trong những công việc được làm cùng với Hiệp. Thấy anh nhắm mắt ngồi nghỉ, mệt mỏi nhưng không nói thành lời, Trang càng muốn được đỡ đần thêm cho anh.

Hiệp bỗng mở mắt nhìn Trang, nói như thể nãy giờ vẫn nghĩ về chuyện này:

- Anh định chủ nhật tới, chúng ta sẽ về làng Châu cho Trang viếng nơi mẹ em đã nằm xuống.

Hiệp nói chắc chắn như đã thỏa thuận, không có gì phải bàn bạc lại.

- Ôi, anh Hiệp...

Trang thốt lên nho nhỏ. Đã chín năm kể từ khi chú Đôn đưa Trang về đây. Nhiều lần Trang có ý định quay về làng Châu thắp hương cho mẹ, nhưng vẫn chưa đi nổi. Trang không đủ can đảm tự nhận với mình rằng mẹ đã mất. Vĩnh viễn. Trang sợ phải đi thăm viếng một mình. Đường đi thắc thỏm, đường về tuyệt vọng và cô đơn. Còn giờ đây, có thêm một người san sẻ với Trang. Người ấy muốn đi cùng Trang, nhưng chính là đưa Trang đi. Trang được yên tâm về trách nhiệm với mẹ, mà đường trở về lại đỡ cô quạnh.

Con đường vào làng bây giờ dẫn thẳng đến đài tưởng niệm. Khói hương nghi ngút bên dưới chân bức tượng đài căm thù: một người mẹ bồng đứa con đã chết, đầu ngoặt ra sau, tay buông thõng. Bà mẹ ngẩng nhìn lên, ánh mắt căm hận, miệng há ra như kêu cứu. Sau bức tượng là tấm bia. Những dòng chữ mờ nhòa đi trước mắt Trang: " Nơi đây ngày... máy bay Mỹ ném bom napan hủy diệt hoàn toàn... Thiêu hủy 127 nóc nhà... người chết". Hiệp châm ba nén hương, đưa cho Trang. Cô run rẩy đứng sau bà già mặc áo dài đen, có vẻ như người từ xa đến, đang quỳ trên nền gạch, chắp tay khấn. Bà gục mặt hồi lâu như hóa đá, rồi mới chống chân đứng dậy. Bà lảo đảo suýt ngã, tay quờ quạng trong khoảng không tìm nơi để bám. Trang vội đưa tay đỡ bà. Ba nén hương rơi xuống đất. Một đầu hương cháy đỏ đâm vào mu bàn chân Trang mà cô không biết.

Rồi chính Trang phải để cho Hiệp dìu đi. Hai người ra khỏi khu tưởng niệm, dừng lại hồi lâu bên một đầm sen. Trạng thái mộng du chấm dứt khi có một cơn gió ngào ngạt hương sen thốc mạnh tới. Trang rùng mình, nắm chặt tay Hiệp như sợ bị bỏ lại một mình. Đôi đồng tử đờ dại của cô bỗng rung lên. Sự chấn động bất ngờ làm cho ánh mắt Trang linh hoạt trở lại. Trang buông tay Hiệp, xăm xăm bước về phía trước. Nhận ra rồi, con đường bên cạnh cái đầm làng dẫn thẳng đến nhà Trang. Đi hết bờ đầm là đến nơi. Đây là bụi cây Trang ngồi co rúm trong đó, nhìn cái hàng rào lửa cháy rần rật, hất ngược trở lại những người điên cuồng nhất định xông vào. Không để ý đến những trận cười bỗ bã của đám ăn nhậu, vọng ra từ mấy căn nhà mới ở trước mặt, Trang đi tới đi lui, quay phải quay trái để định hướng lại. Trang lách qua một bụi dứa dại, cô nhớ ngày xưa đây là một lối đi nhỏ. Gai dứa cào vào chân ràn rạt. Trang lướt nhanh tới, và sững người: một cái giếng khuất trong bụi cây dại. Trang hơi khom người dò dẫm đến gần cái thành giếng phủ đầy rêu như định tóm đuôi một con chuồn chuồn vô hình. Hai tay đặt lên thành giếng trơn chuội, Trang nhìn xuống. Trong lòng giếng là một thứ nước xanh lét, sánh sệt, bốc mùi ngái ngẳn. Cái giếng bị bỏ hoang đã lâu. Trang lạnh người, run lên, nhớ đến ngụm nước lạnh buốt trong cái chai kéo từ giếng lên. Có phải chính là cái giếng này không?

Trang vội vàng thụp xuống, lần tìm bên thành giếng. Cái mà Trang cần tìm đây rồi. Một dòng chữ khắc chìm vẫn còn đọc được: 17-5-1964. Đó là ngày đào giếng, hơn một năm trước trận bom hủy diệt cả làng. Thế thì Trang đã có thể định hướng được nhà mình. Trang đứng đối mặt với dòng chữ trên thành giếng, như vậy là đang quay lưng về phía cửa ra vào. Trang nhắm mắt lại, căng thẳng vì nãy giờ xoay bên này bên khác. Tưởng như chỉ cần mở choàng mắt, quay người lại là Trang sẽ đối diện với nhà mình.

Đột ngột tiếng cười nhộn nhạo, lẫn những lời thô tục ở đằng sau làm Trang nghi hoặc. Cô mở mắt ra và lại nhẩm tính. Từ giếng vào nhà phải qua một khoảng sân rộng, tức là phải đi gần hai chục bước nữa. Trang quay lại, bước hai bước ra khỏi bụi cây, nhưng lập tức đứng sững lại.

Trước mắt Trang, thay cho căn nhà lá ngày xưa là một căn nhà hai tầng mới xây, quét vôi màu nõn chuối. Trên trán nhà có những đường hoa văn vàng đỏ rườm rà như một con rồng quấn lấy dòng chữ đắp nổi MODEL 74. Cửa chính cửa phụ và cửa sổ mở toang, thấy rõ trong căn phòng rộng mấy chục người khua bát, múa đũa, cụng chén. Mùi rượu, mùi món lòng xào giá, canh măng miến... thơm rờn rợn như cỗ đám ma.

- Tôi có mấy nhời. Yên nào, để tao nói trước. Tôi đề nghị hôm nay ăn mừng nhà mới của ông Khảm, các bà, các ông phải uống thật nhiều bia, uống đến mức... đái ra bia mới bõ.

- Cái thằng say khướt cò bợ kia, câm đi. Trong mồm không có một tí nước dãi văn hóa nào, lại cứ phun phun phì phì ra.

Trang tái người. Cái cảnh trước mặt là một thùng nước lạnh dội thẳng vào mặt. Cô tỉnh táo hẳn. Không thể nhầm được. Căn nhà của mẹ con Trang đã biến mất, không để lại dấu vết. Thay vào đó là ngôi nhà này. Những người kia đang ăn cỗ đám ma thật, bởi vì chỗ họ ngồi ăn là nơi mẹ đã chết cháy. Một rừng lửa cháy ngùn ngụt trước mắt Trang. Những đám cây lửa cứ phừng phừng vươn cao và tỏa rộng ra.

- Thôi bỏ mẹ, bà Bốn chủ tịch bây giờ mới đến kia kìa. Bà ấy sẽ cạo cho trọc đầu.

- Chị Bốn, mời chị vào mâm trên. Dạ hì hì, báo cáo chị...

Người ta quăng bát đũa, đá chai rượu lăn kềnh, giẫm lên cả đĩa thịt luộc để nhao nhao chạy ra mời đón. Người chùi mép, người hít hà, người xoa tay vây quanh người đàn bà mới đến như một lũ có tội xin đại xá. Người đàn bà tên là Bốn đưa cặp mắt quan cách lướt qua đám người bậu xậu. Đoạn, chị ta phẩy tay ra hiệu bảo ai về mâm ấy. Thoạt đầu Trang còn ngờ ngợ. Rồi Trang đã nhận ra, đó chính là cô đội trưởng ngày trước. Vào cái ngày không thể quên cách đây chín năm, chính cô ấy đã đuổi Trang ra khỏi ruộng mạ, miệng réo đuổi con bé "con nhà chị sơ tán". Trang bám lấy Hiệp vừa mới đến bên cạnh. Mắt cô sáng lên khi chị chủ tịch xã rời căn nhà và đi qua trước mặt. Dù sao Trang cũng gặp được một người quen quen.

- Cô ơi, cô cho cháu hỏi - Trang gọi và bước một bước về phía người đàn bà, tay chỉ về phía ngôi nhà trước mặt - Cô có nhớ ngôi nhà dạo trước ở trên đất này không ạ?

Người đàn bà đưa mắt nhìn thoáng qua người Trang, vẫn vẻ dửng dưng của một người cấp trên:

- Đây là bãi đất hoang, làm gì có nhà - Bất chợt vẻ hờ hững tan đi, chị ta nhìn Trang một lần nữa và nhớ ra - À có đấy, trước kia là nhà của một chị sơ tán. Hai mẹ con chết cháy cả rồi.

Trang cắn môi, cúi đầu. Người đàn bà nói về cái chết của mẹ Trang cứ nhẹ tênh tênh. Nhiều khi con người tự biến thành độc ác một cách vô tình.

- Cô có nhớ cháu không? - Trang ngột ngạt hỏi.

Cặp mắt người đàn bà thoáng sựng lại, rồi một làn sương lạnh che phủ khiến nó trở nên xa cách.

- Chắc cô đã nhiều lần đến viếng đài tưởng niệm phải không? - Người đàn bà cố nói giọng cảm thông, rồi đi ngay. Chị ta không kịp nghĩ, không kịp nhớ ra. Chuyện lâu quá rồi. Con của những người sống sót, ra đời sau cái ngày khủng khiếp ấy, giờ đã chín tuổi. Chị ta lại có quá nhiều điều phải quan tâm, phải thao thức, trong một xã hội có nhiều vấn đề như thế này. Người đàn bà không có lỗi gì. Chẳng qua chị xuất hiện trong khung cảnh mà mọi dấu tích cũ hầu như bị xóa sạch nên càng làm Trang thêm chua xót.

- Không phải cô ấy - Trang cay đắng nói với mình - Không phải cô đội trưởng.

Chính Trang còn nhớ cô đội trưởng ngày xưa tên là Bốn, cũng với nét mặt ấy, nhưng dáng người thon thả hơn. Nhưng nếu đúng thì cô ấy phải nhớ ra Trang chứ? Thế mà cô Bốn đã bỏ đi. Đám người ăn nhậu trong căn nhà mới đang cãi vã vì không giữ được "bà chủ tịch" lại. Trang nhìn thấy họ, nhưng qua một đám cháy, lửa cháy cả trên mặt đất khô khốc, không một búi cỏ.

Mãi về sau này, đôi lúc nhân nhắc lại chuyện cũ, Hiệp bảo:

- Khi ấy em mới có tám tuổi. Lúc trở lại em đã mười bảy. Từ một đứa trẻ trở thành thanh niên, thay đổi như vậy, cô ấy khó mà nhận ra. Hơn nữa cô ấy vẫn tin rằng em đã chết trong đám cháy rồi.

Không lý lẽ nào thuyết phục nổi Trang. Có thể có sự đổi thay, có thể có niềm tin hình thành từ sự nhầm lẫn, nhưng sự hiện diện của thực tế phải là chuẩn mực cao nhất. Nếu là cô Bốn, chắc chắn cô đã nhớ ra khi gặp lại Trang. Không, đây không phải là cô Bốn ngày trước. Trang không thể tin được.

Hình ảnh cô Bốn trở lại với Trang vào buổi sáng nay, lúc Trang ngồi trong phòng tối, nhìn con ngủ, và đột nhiên nghe tiếng mở cửa, tiếng người chui vào đống hộp đồ ở phòng trong. Tiếng bà vợ ông Khuynh đang dặn dò thằng con. Khuynh. Cái tên ấy làm Trang sững sờ ngay từ hôm nghe ông trưởng nhà nhắc đến. Có phải chỉ đơn giản vì tên bố cũng là Khuynh? Đã từ lâu Trang không nghe ai nhắc đến cái tên ấy, người cuối cùng nhắc cho Trang nghe là mẹ, nhưng từ hai chục năm trước. Kể từ đó, tên bố chỉ được ghi lại trong học bạ, sau đó trong lý lịch cán bộ của Trang, bên dưới là câu ghi chú " Nghề nghiệp: Bộ đội. Đã hy sinh". Kể ra trong mấy dòng vắn tắt này vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Mấy năm trời không nhận được thư bố, không một lời nhắn tin. Mấy năm trời Trang thấy mẹ nức nở hằng đêm.

- Chắc bố con hy sinh rồi - Đêm nào mẹ cũng nói.

Trang biết mẹ nói vậy nhưng không bao giờ tin vậy. Mẹ vẫn mong ngóng, chờ tin bố. Hễ nghe trẻ con kháo nhau có mấy chú bộ đội về làng, mẹ lại tất tả chạy đi xem rồi thất vọng quay về. Trang lơ mơ biết rằng mình còn có bà nội và các bác các cô, nhưng mọi người cố tình xa lánh và hắt hủi mẹ. Trang chưa kịp hỏi cho rõ ràng những điều về họ hàng bên nội, về quan hệ giữa bố mẹ, thì mẹ mất. Một cuộc xáo trộn lớn. Trang về Hà Nội, sống với chú Đôn. Những gì còn nhớ được là tên bố mẹ, Trang đã ghi vào quyển học bạ mới.

Giá như vào một lúc khác, chắc Trang không đến nỗi chết lặng như vậy khi nghe nhắc đến tên Khuynh. Đời thiếu gì những người trùng tên. Nhưng sau cơn chấn động tinh thần vì cái chết của chồng, Trang trở nên dễ bị kích động. Trong lòng lúc nào cũng phấp phỏng, tim đập gấp, ruột gan cồn cào. Một tiếng động nhỏ cũng làm Trang giật mình lo sợ, nữa là một cái tên trùng với tên cha mình. Trang hồi hộp định bụng để ý nhìn mặt người mang tên ấy.

Thật lạ lùng. Người ấy có gương mặt quen quen, cứ như Trang đã từng gặp ông. Cho dù đó thực là bố thì Trang vẫn không có bằng chứng để khẳng định. Trang không có một tấm ảnh nào của bố. Ký ức cũng chẳng giữ lại một nét nào, bởi vì lần chia tay cuối cùng với bố, Trang chưa đầy bốn tuổi. Vậy thì tại sao Trang lại cảm thấy ông Khuynh hơi quen mặt?

Hay là ông Khuynh giống Trang mà chị không nhận thấy ngay từ đầu? Cũng có thể lắm. Trang cũng có cặp mắt to và sáng như mắt ông. Mũi Trang cũng thẳng dọc dừa, hơi hếch lên và gương mặt cũng nhẹ nhõm hình trái xoan. Trời ơi, chắc Trang hoa mắt mất rồi, loạn trí mất rồi. So sánh như vậy, có thể đoan chắc là giống, mà bảo không giống cũng được.

- Ông Khuynh ấy làm ở đâu hả cô? - Một hôm Trang hỏi Mỵ.

- Ông ấy làm đối ngoại, trợ lý bộ trưởng đấy chị ạ.

Thế thì không phải. Bố Trang là bộ đội. Hai mươi mấy năm nay cái nghề của bố thấm sâu thành một niềm tin cố hữu trong người Trang. Nếu là bố, thì bố phải là sĩ quan trong quân đội cơ. Nhưng điều cuối cùng này sẽ xóa bỏ mọi sự nghi ngờ: bố đã chết từ lâu rồi.

Thôi được, thì hẵng cho là bố đã chết, cũng như mẹ không còn. Nhưng không có một bằng cớ thực tế nào xác nhận điều đó. Biết đâu như cô đội trưởng kia, tin chắc Trang đã chết trong rừng lửa, khi mà Trang đang đứng ngay trước mặt? Lập luận thế, Trang thấy còn có thể hy vọng.

Không phải đâu, ngay sau đó Trang tự bảo, người như bố không bao giờ mưu đồ chiếm nhà của Mỵ bằng thủ đoạn trắng trợn như vậy.

Nhưng rất có thể ông lấy phải một bà vợ cay nghiệt và phải xuôi theo những tấn trò đê tiện của bà ta? Như rất nhiều người đàn ông thiếu bản lĩnh khác, ông phải phục tùng bà vợ mới vô điều kiện?

Đến bây giờ, Trang vẫn giữ lại sự hình dung từ thuở bé về bố. Một người đàn ông đẹp, dáng vóc cao to rắn rỏi trong bộ quân phục màu xanh, bố xuất hiện trước một vầng hào quang sáng chói.

Một buổi Trang từ trong nhà bước ra, đúng lúc ông Khuynh đi qua trước cửa. Trang luống cuống chào ông, tim đập thình thịch. Khuynh gật đầu chào đáp. Ông ta vừa có vẻ cao ngạo như thể luôn nghĩ rằng mình thuộc tầng lớp trên, vừa có vẻ suy sụp sau một xung đột nào đó. Không đâu, con người xa vời và yếm thế này không thể là bố. Mấy phút sau, ông ta lại đi qua trước mặt Trang để trở về nhà. Có lẽ ông định đi đâu đó, nhưng chưa xuống hết bậc cầu thang tầng một đã gặp nước ngập, nên phải quay về. Lần này Khuynh chủ động mỉm cười gật đầu với Trang. Trang rùng mình cảm thấy ánh mắt ấy như một lớp nhựa dính quét lên khắp cơ thể mình.

Buổi sáng nay thoạt nghe một tiếng "pạch", Trang chưa hiểu chuyện gì. Nghe tiếng kêu khóc của thằng cu Đức và tiếng xôn xao của đám người kéo lên cầu thang, Trang thảng thốt lo lắng nhưng vẫn chưa rõ thêm. Phải đến lúc thằng Sa lên tiếng, những tiếng lạnh lùng và khô khốc, Trang mới sởn gai ốc khắp người. Trời ơi, ông ta làm gì vậy? Sao lại bắn con chim sáo, nguồn yêu thương của một đứa trẻ? Ngay hôm đầu Trang đến, nhà Đức bị ngập nước. Vật đầu tiên thằng bé vội vã mang chạy ra khỏi nhà là cái lồng chim sáo. Chuyển bớt đồ đạc lên nhà tầng rồi, Đức lại lo tìm thức ăn ngay để sáo không bị chậm bữa. Thằng bé chuyện trò líu lo với sáo như với một con người. Thế mà kẻ kia lại nỡ giương súng lên bắn con chim. Chắc rằng chẳng phải vì thèm thịt chim, mà vì ý thích, hoặc muốn trút bỏ điều gì? Ghê sợ thay những kẻ có ý thích man rợ và bệnh hoạn như vậy.

Bóng một người chạy lươn lướt qua cửa trước. Trang giật mình như thấy bóng một kẻ gian. Chị tung cửa chạy ra. Trên hành lang, trước cửa nhà Toàn, chỉ còn mấy đứa trẻ đang đau khổ ngó vào. Trong nhà vẫn vẳng ra tiếng khóc thảm thiết của thằng cu Đức. Không thấy bóng một ai khác. Trang ngó xuống con đường trước khu nhà. Khuynh đang rẽ nước ùm ùm, như chạy trốn. Bắt lấy, thủ phạm đang bỏ chạy kia kìa, bắt lấy. Trang muốn gào lên, nhưng dường như đã mất giọng. Hay bởi vì bụng bỗng quặn lên, một cơ thể bé nhỏ đang đạp thúc trong bụng Trang. Chị giật mình, thoáng nhớ đến gương mặt có những nét giống mình. Rốt cục, Trang không kêu lên được.

Buổi chiều Trang càng đau lòng thấy thằng cu Đức sốt mê man. Nó dầm trong nước lạnh, lại uống mấy ngụm nước bẩn. Song có thể những cái đó mới chỉ đủ gây cảm sốt, chưa đến mức làm thằng bé mê sảng thất thần như vậy. Cu Đức đã tin vào khả năng phục sinh của con người, tin rằng mẹ có thể sống lại. Nhưng niềm tin ấy đã bị giết chết bằng một phát đạn súng hơi của một kẻ ẩn náu đâu đó. Chỉ có Trang biết thủ phạm là ai. Chị không dám nói ra, như thể Trang cũng là kẻ liên quan, kẻ tòng phạm. Lạ nhỉ, Trang đâu có quan hệ gì với ông Khuynh mà lại có mặc cảm ấy?

Hai ngày sau, nước rút hết. Toàn và Mỵ định đưa mẹ con Trang về nhà chú Đôn. Họ sắp sửa lên xe đi, thì Mỵ được báo phải đến trường mẫu giáo dọn dẹp vệ sinh. Cô đành nhờ Khắc đèo bé Trinh đi cùng Toàn và Trang. Khắp tầng một vang lên tiếng xối nước rửa nhà. Tiếng chổi tre roèn roẹt, cào siết, xói vào óc Trang. Suốt mấy ngày trời, bên cạnh hình ảnh người chồng đã chết, trong đầu Trang lúc nào cũng lởn vởn gương mặt quen quen của Khuynh. Ngồi trên xe, lướt qua phố phường đã được tẩy rửa sau một trận ngập lụt đầy rác rưởi, Trang lắc đầu thật mạnh như giũ sạch những điều vẩn đục. Không, kẻ ấy không thể giống với bố Trang được. Trang không bao giờ chấp nhận điều đó, cũng như không bao giờ bắt mình phải tin rằng người đàn bà đã quên tất cả chính là cô đội trưởng dạo trước.

❖ ❖ ❖

Một cái cây, cuối mùa dông bão, bất chợt nhận thấy thân cành của mình trơ trụi như những cánh tay khô khẳng. Không còn một chiếc lá, dù là lá vàng. Nó nhìn ra những thân cây bạn bè. Hóa ra chỉ còn mình nó sót lại.

Tâm trạng Toàn bây giờ giống như cái thân cây sót lại một mình giữa hàng cây bè bạn. Thế mà hình như... có một cái gì đó đập rất khẽ trong lòng Toàn, giống như tiếng đồng hồ tích tắc. Như một cái hạt ủ kín trong lòng đất, sinh vật ấy bắt đầu cựa quậy, đâm thúc, đòi được trồi lên. Mỗi ngày Toàn càng thấy một rõ mình mang trong tâm hồn một cái mầm cây. Nó cộm lên, đôi khi làm nhói đau, đòi được nảy sinh.

Toàn biết Trang cũng mang trong lòng một mầm sống, nhưng là một hình hài cụ thể đang trằn quẫy trong bụng.

- Em sắp có thêm cháu bé - Một buổi, Trang gạt nước mắt cười rạng rỡ - Anh Hiệp ao ước có cháu trai. Chắc là em sẽ sinh con trai.

Vành mắt Toàn nhức nhối, sống mũi cay cay. Niềm mong mỏi hy vọng của người chết đã được gửi lại. Toàn cũng chờ đón ngày vui ấy, chờ một mầm sống của bạn anh đang được ấp ủ sắp đến ngày trỗi dậy. Toàn là người thân thiết, Toàn sẽ có trách nhiệm lo toan cho mầm cây sắp nở. Anh tự hứa trước vong linh người bạn như thế.

Tưởng Trang nghĩ về niềm vui sắp đến, nhưng đột ngột cô ngồi lại gần Toàn, hạ giọng ân cần:

- Anh Toàn, Mỵ rất quý anh, em linh cảm thấy điều đó. Cô ấy tốt người, nếu anh thuận ý thì em cũng yên tâm.

Toàn bối rối tránh cái nhìn của Trang, nói thành thật:

- Mới quen nhau. Cô ấy là láng giềng. Đã có dấu hiệu gì đâu.

Nhưng lời nhắc nhở của Trang bắt đầu đánh thức tình cảm bấy lâu ngủ thiếp trong người Toàn. Mầm cây đang chờ cho đủ mạnh, tách đôi cái hạt bao bọc quanh mình và kiêu hãnh trồi lên mặt đất, đón lấy nắng gió và khí trời. Toàn nhốt mình trong thế giới của những ý nghĩ xám lạnh nhưng anh vẫn thiết tha hướng ra cuộc đời, hướng tới một cuộc sống hòa hợp. Chiều hôm nay, Toàn đưa vợ chồng ông Jacques Roland ra sân bay Nội Bài để rời Việt Nam. Anh đứng bên cổng sân bay nhìn hút theo chiếc máy bay của hãng Air France cho đến khi nó chỉ là còn là một chấm nhỏ mới lên xe quay về. Như mọi lần, những cuộc chia tay như vậy để lại cho Toàn nỗi trống trải, buồn man mác. Lúc ấy anh chạnh lòng nghĩ tới bao lần chia biệt người thân, người đã chết, và cả người còn sống nhưng chẳng bao giờ gặp lại. Nhưng hôm nay nỗi lưu luyến với người đàn bà xa tổ quốc để lại cho anh sự cảm thương. Anh trút ra một hơi thở thật dài, thanh thản vì đã hoàn tất công việc. Đột ngột với chính mình, một ý nghĩ nảy sinh nhanh trong đầu Toàn: hôm nay trở về, Toàn sẽ mở thư Minh và đọc. Vợ chồng Trang và Hiệp có phần đúng, cần phải biết thương Minh hơn. Đừng nóng vội mà coi rằng đã mất Minh vĩnh viễn.

Toàn đạp xe ngang qua trường mẫu giáo, thấy Mỵ đang hoảng hốt ngó nghiêng trước cổng trường. Mỵ rối rít gọi:

- Anh Toàn, anh Toàn ơi, giúp em với.

Toàn vội vòng xe lại. Anh chưa kịp dừng hẳn, Mỵ đã chạy đến đặt tay lên ghi đông xe, nói trong hơi thở ngàn ngạt:

- Gần cuối giờ mới biết thằng cu Sơn đã bỏ trốn. Anh đi với em, xem thằng bé đã về chưa.

Mỵ không hỏi xem Toàn có bận gì không. Cô coi Toàn như người nhà và mặc nhiên coi giúp đỡ người khác là trách nhiệm của tất cả mọi người. Nếu là Toàn dạo trước, anh sẽ khó chịu vì sự mặc nhiên ấy. Toàn cũng sẽ phản ứng như vậy, nếu không biết rằng Mỵ là cô gái tốt bụng một cách hồn nhiên. Khắc đã rất đúng khi nói rằng từ bé Mỵ được nuôi dưỡng trong một gia đình mà mọi người đều làm việc tốt một cách giản dị và tự nhiên. Người ta không thể từ chối làm điều thiện khi đứng trước những người như vậy.

Toàn vừa định quay xe đèo Mỵ đi, thì cô đã nhảy xuống, gấp gáp gọi một người đàn ông đang đạp xe đến trước cổng trường:

- Anh Tân, cháu Sơn có về nhà không?

- Cháu lại bỏ trốn khỏi lớp học hả cô? - Người đàn ông đeo kính cận chống chân ngồi trên xe đua, hơi giật mình - Tôi từ cơ quan đến thẳng đây đón cháu mà.

Mỵ lúng túng, cái lúng túng của một cô giáo có lỗi vì trông nom sơ suất, không có đứa trẻ để giao lại cho bố nó. Cùng lúc cô bực ghê gớm cái thằng bé hiếu động, thường xuyên tìm cách trốn khỏi lớp học, đã bao phen làm cô sợ tái người.

- Vậy thì anh em mình cùng về nhà, xem cháu đã về chưa. Nếu không có thì phải chia làm hai