Chương 4
Ở LỚP SƠ-ĐẲNG TÔI TIẾP XÚC VỚI mấy người bạn con quan, con các thầy Thông Nhất, Thông Nhì, Lại mục... Giọng Huế ngọt dịu êm đềm. Thằng Lê Học Hải có ba nó làm tri huyện ở Quảng-ngãi nhưng theo ở với ông bà nội nên cùng học lớp tôi. Một hôm thầy giáo đẩy cái cánh cửa không ngờ có Hải đứng sau, cánh cửa xước vào chân nó làm bật cái móng chân cái máu chảy ràn rụa. Hải lò cò xin về nhà và một lát sau bà nội nó dẫn nó tới đứng trước cửa lớp to tiếng sỉ vả thầy sao không cẩn thận để làm cháu bà bị thương. Tiếng la lối ồn ào thật xa lạ đối với cái khung cảnh hiền hòa của một ngôi trường có nhiều bóng cây cao che chở bao quanh. Thầy lí nhí xin lỗi nhưng người đàn bà không ngừng tiếng nói. Khi đã mỏi mệt bà bỏ ra về, tôi thấy thầy lấy khăn lau nước mắt.
Thầy Xước dạy Hán-tự không có cái lễ độ dịu dàng đó. Thầy ăn mặc lôi thôi, áo the rộng thùng thình và quần cháo lòng. Miệng nói ồn ào, phun nước miếng vào vở những đứa ngồi ở bàn đầu. Đời sống có vẻ túng thiếu. Đang ngồi dạy học mà muốn hút điếu thuốc, thầy phải nhờ học trò chạy đi xin lửa:
— Ê! Đứa mô chạy đi xin cho thầy tí lửa bay.
Những ngày đầu học trò giành nhau chạy đi bởi vì được bỏ lớp nhảy ra ngoài sân nhảy vào trong xóm thì còn gì thong thả sung sướng bằng. Nhưng sau khi chạy tìm bếp nhà nào cũng lạnh tanh nguội ngắt, đi rảo năm bảy nhà cũng cùng một trường hợp, sau khi bị chó nhà người ta ùa ra sủa có con gầm gừ nhảy lại đớp phải la quáng lên vừa ngồi bệt xuống hai tay chụp xuống đất thủ thế, sau những nỗi niềm cơ cực đó, lũ học trò chẳng đứa nào chịu hưởng ứng lời kêu gọi của thầy nữa. Tuy gọi là phố Phủ nhưng nhà cửa nghèo nàn, người ta dùng chà tre đun bếp nên nấu nướng xong là lửa tàn ngay. Nếu bất ngờ có một gốc củi gộc nào đó giữ được lửa thì không dễ mà xin người ta cho tách một than lửa đỏ. Có khi may vớ được một chà củi tre có đốm lửa đỏ ở đầu, ba chân bốn cẳng chạy về trường vừa thổi cho ngọn lửa bén thêm nhưng càng thổi đốm lửa càng sụ mặt xuống và khi đến hiên trường thì vừa tắt ngấm. Không ai còn thích chạy rông tìm lửa nữa.
Kêu gọi năm lần bảy lượt mà đứa nào cũng làm tai ngơ, thầy nói:
— Đứa mô kiếm cho tí lửa, tao cho ba boong. [1]
Có hứa hẹn hối lộ, mấy đứa học kém tranh nhau lãnh công tác. Hí hửng chạy về nộp lửa cho thầy, thầy quấn vội điếu thuốc châm vào đầu lửa bập lấy bập để. Sau khi hít dài được hơi khói đầu tiên, thầy hỏi tên người học sinh có công rồi mở sổ viết con số 3 vào đó. Phải đôi ba lần như vậy những người chiến sĩ hữu công đó mới nhận ra rằng lối thưởng ba điểm kiểu của thầy rất có hại cho người thụ hưởng. Và thế là không còn ai muốn được thầy hối lộ nữa. Thầy cứ kêu gọi và học sinh cứ làm ngơ. Chắc cho đến bây giờ thầy cũng không hiểu vì sao mà lũ học trò lại liêm khiết đến thế.
Phố Phủ tấp nập tổng lý, ngày nào đi học tôi cũng gặp từng đoàn lý trưởng, chánh tổng, hào mục khăn đen áo dài đi tới Phủ đường hầu việc. Trên tay họ thường có một cái đơn cuốn tròn lại. Sau đó họ tụ tập ăn uống ở các quán trọ. Những người đàn bà có việc kiện cáo thì vừa đi vừa chạy te tái theo các vị tổng lý. Cái áo dài quanh năm xếp để trong rương nay mới lấy ra mặc, còn mang y nguyên những lằn xếp ngang dọc. Phố Phủ tuy gọi là nghèo nàn nhưng đã đủ sức hoa lệ để bắt họ vừa bước vừa nhìn, họ là những người quanh năm chỉ biết có nồi cám heo, cái cối đá, cái rựa cái cuốc và những thân cây mù cua, cây bồ lời đứng vững chãi bao vây tầm mắt. Lũ lính lệ thì bắng nhắng đi lại, chân bước thoăn thoắt như lúc nào cũng có công tác hệ trọng.
Sau lớp Sơ-đẳng, tôi ra trường Tỉnh học lớp Nhì. Một số bạn không có phương tiện, bỏ học về nhà giúp đỡ cha mẹ. Năm sau nhà nước xây trường lớp Nhì ở Ngân-sơn và lũ bạn lại bỏ việc nhà theo học lại. Cô bạn tôi tên là Nhiệm con ông Tri phủ vì học kém phải ở lại một năm nên khi lên lớp Nhì thì được học trường Ngân-sơn. Ngày ngày có xe kéo nhà đưa từ phố Phủ lên trường Ngân-sơn học. Đường xa hơn bốn cây số, buổi trưa cô và người em trai ở lại trường. Lũ bạn, — đầu tên là thằng Đại, thằng Chức, thằng Thi, — cảm mến người đẹp nên ra công chọc ghẹo. Trong các trò chơi có môn chụp hình. Lấy quyển vở cuốn tròn lại làm ống kính, phủ cái áo dài đen lên rồi đứng ở cửa số gọi tên người đẹp cho ngước mắt nhìn lên rồi la to:
— Chụp hình! Chụp hình được rồi!
Người đẹp về mách với bố và hôm sau có một tên lính lệ cầm giấy lên thầy Hiệu trưởng. Ba chú đầu têu theo gót người lính lệ đi bộ xuống Phủ đường, được quan Phủ bắt quì một buổi.
Do anh Tân dẫn dắt, tôi cùng anh ở trọ nhà ông Tám Nhi, một hiệu buôn bán, sửa chữa và cho thuê xe đạp. Ông Tám to lớn vạm vỡ, tóc cắt ngắn chừa một vạt dài ở trước trán chải quật ra sau. Mái tóc đó, hàm răng vàng bóng ngời đó, đôi cánh tay xâm trổ những hình con rồng phun nước con cọp nhe nanh đó, giọng nói oang oang đó đúng là khí phách của một tay hảo hán giang hồ. Mỗi câu nói đều được báo hiệu trước bằng một tiếng « Đù mẹ». Bà vợ gầy nhom xanh mướt, nói gần như không ra tiếng. Thế mà tôi nhớ có lần ông ghen với lão «chủ thầu cơm nhà thương» đánh bà ta một trận bệnh nằm cả tháng. Lão chủ thầu thì xấu xí mà bà vợ ông thì thiếu máu rõ rệt; khó lòng mà có ngọn lửa ái tình phụt lên cháy nổi. Ông đổ tội cho thằng chủ thầu cứ đi xe đạp qua nhà và vợ ông ngồi trong nhà cười ra.
— Đù mẹ... Mày mê thằng Sập cầu, — ông chủ thầu có cái mũi gãy làm hai đoạn nên bị ông cưỡng bức tặng cho cái biệt hiệu đó, — tao giết mày có ngày, còn thằng Sập cầu nữa, tao cũng giết nó có ngày.
Khách hàng không ai dám đến mua xe đạp hiệu ông. Có ba cái xe dựng mãi đó, tháng này qua tháng khác, cứ phải lau đi lau lại hoài. Cũng chẳng ai đem xe hư lại sửa. Bởi vì hễ nói chậm, nói nhỏ, trả giá cò kè là ông nộ khí xung thiên quát liền. Chỉ có mấy đứa nhỏ thỉnh thoảng ghé lại thuê xe đạp để tập, thuê nửa giờ hoặc một giờ. Khách hàng vắng vẻ, ông dùng thì giờ để uống rượu ăn gỏi cá sống và « Đù mẹ» với người nào đứng láng quáng gần đó. Cả ông chủ phố mỗi đầu tháng đến đòi tiền thuê nhà cũng chỉ nhận được một mớ «Đù mẹ» rồi ra về không, có những uẩn khúc, trong sự liên hệ giữa gia đình ông Tám, tôi nghĩ vậy căn cứ vào sự thù nghịch ông dùng để đối đãi với hai người con mà tôi nghi là con riêng của bà Tám. Hai đứa đó, thằng Minh và con Mẫn trạc bằng tuổi tôi, thường được ông bạt tai và cốc những khuỷu ngón tay vào đầu. Chúng nó vừa sợ vừa ghét ông. Thằng Minh phản ứng lại bằng cách nhảy nhót cười chế nhạo mỗi khi ông đi vắng, còn con Mẫn thì chuyên môn bậm miệng nhíu mày, hai hàng lông mày rậm đen, mỗi khi ông sa sả mắng chửi. Thằng Tân cũng bị ông ghét lây. Dường như nó có quen lớn bà con gì đó với bà Tám, và cùng đi đạo, mỗi tối nó xúm xít quây quần đọc kinh tối với bà và lũ thằng Minh con Mẫn. Ông Tám thì cứ nằm tỉnh trong giường hút thuốc thả khói lơ mơ hay chăm chú đọc một tờ nhật báo. Trong tình trạng cô đơn tinh thần đó, ông chọn tôi làm người bạn vong niên và trong bữa rượu ông hay gọi tôi lại ngồi cạnh, gắp cho tôi những miếng gỏi cá. Tôi nhận sự đãi ngộ đó với rất nhiều dè dặt bởi vì tôi không thể không để ý đến những cặp mắt hằn học lườm lườm nhìn ông và dù ông hết sức dịu dàng đối với tôi, cái mái tóc lật ngược, những hình xâm trổ trên đôi cánh tay và khuôn mặt đỏ hừng hực không khiến tôi được yên tâm thoải mái.
Căn phố bên cạnh chúng tôi là một hiệu cắt tóc. Anh thợ lên là Danh có đôi con mắt cận thị mỗi lần nhìn ai là nhíu cả lông mày lông mi lại. Anh mặc quần thật dài kéo lết xuống sàn nhà nên gấu quần xác xơ. Lúc nào cũng than thở những câu vọng cổ «Gió Bấc lạnh lùng, trên con đường ba sanh thấy hoa rụng rời trên mặt đất...» hoặc áo não hơn: «Văng vẳng tiếng chuông chùa, giọng chuông công phu... ». Anh dường như thất tình thường xuyên. Lúc nào cũng thấy anh viết thư tình và mỗi lần viết như vậy là anh lục lọi trong mấy cuốn tiểu thuyết «Châu về Hiệp phố», « Cay đắng mùi đời» rồi trích biên những đoạn lâm li như loại phòng loan gối chiếc, cánh nhạn bên trời, tương tư giọt lệ. Rồi anh chọn biệt hiệu cho mình: Hoàng ngọc Ẩn. Dưới bức thư có ghi đủ: Trần công Danh dit Hoàng ngọc Ẩn. Những biệt hiệu còn dư, anh đem tặng cho bạn: anh thợ bạc kề bên được chữ Tuấn Dũng, anh đốt lò bánh mì được chữ Minh Châu. Đôi khi nghĩ thấm thía thế nào đó, anh đòi lại cái biệt hiệu đã đem tặng. Và cuối bức thư tình lần này thấy đề: Trần công Danh dit Minh Châu. Trò chơi « chọn biệt hiệu » lố lăng đó đã hấp dẫn tôi và chính tôi đã rủ hai người bạn thân, thằng Thôn và thằng Ngật cùng chọn ba biệt hiệu gần gũi nhau: Thanh Vân, Thanh Sơn, Thanh Hà. Ba chàng «Thanh» này cứ chừng sáu giờ rưỡi chiều sau khi ăn xong là đi bách bộ ra khỏi thành phố đi hướng về cầu Tam giang. Câu chuyện trao đổi xoay quanh những nhân vật của Hoàng-giang nữ-hiệp, Giang-hồ kỳ hiệp và Hỏa-thiêu Hồng-liên-tự. Thằng Thôn mặc nhiên lãnh nhiệm vụ thuyết trình viên thường trực bởi vì nó có dư tiền để thuê truyện đọc liên miên. Nó giàu nhất trong ba đứa chúng tôi. Sau khi cha nó mất, má nó làm lẽ một ông Bang trưởng Hoa-kiều giàu. Liên hệ gia đinh này làm nó xấu hổ nên khuôn mặt lúc nào cũng đăm chiêu. Thỉnh thoảng có một đứa bạn ác ý nhắc đến nỗi khổ tâm của nó bằng những câu viết trên bảng:
Chẳng thà ăn cá liệc xuôi
Còn hơn ưng Chệt mọc đuôi trên đầu
Do mặc cảm thua sút đó mà Thôn ít giao thiệp với bạn bè. Nó làm bạn với Ngọc Cầm Kiếm Thu và tôi dám quả quyết rằng những người Trung-hoa này đã an ủi nó nhiều lắm bởi vì họ đều xinh đẹp và đều võ nghệ cao cường. Bảo đảm là họ không để mọc một cái đuôi sam xấu xí trên đầu như mấy đứa bạn độc miệng vẫn chế giễu. Sự giao du hạn hẹp có lợi cho Thanh Vân và Thanh Sơn lắm bởi vì cứ vài ngày là được tiếp tế, hoặc là khô mực nướng hoặc là tôm khô nướng. Đi lai rai dọc đường có gió nhẹ thổi mát, có hương thơm của hoa cau hoa lúa, có mực nướng hay tôm nướng ngọt ngào trong miệng lại được nghe kể chuyện Kiếm Thu bế Ngọc Cầm nhảy thoát vòng vây của lũ ăn cướp đội lốt đàn đà thì tưởng không còn gì thú vị bằng. Người Trung-hoa thật có tài trong việc dự trữ thức ăn. Hầu như món gì đến tay họ cũng được họ phơi khô để dành. Hồng tàu, táo tàu, lạp xưởng, củ cải, thịt bò, thịt nai...
Một hôm Thôn khoe với chúng tôi là vừa mua cái giấy xổ số giá một đồng. Nó bắt chúng tôi học thuộc lòng: 227563. Nó đi cầu ở hai ba cái am linh thiêng ở ngoại ô thành phố. Nó hứa sẽ mua quà tặng chúng tôi:
— Nếu số của tao trúng thì tao sẽ không quên hai đứa bay. Vậy hai đứa phải siêng cầu khấn với tao.
Tội thân cho thằng Thôn, thời đó giấy số hàng tháng mới xổ một lần nên nó phí rất nhiều thì giờ để mà cầu khấn. Nó nằm chiêm bao thấy trúng số liên miên, cứ vài đêm là trúng độc đắc một lần. Tha hồ mà mua ô-tô và cưới vợ.
Lần đầu tiên tôi thấy tận mắt một người ngủ dậy trưa là anh Danh. Từ nhỏ đến giờ quả tình là tôi chưa hề thấy một người nào như vậy. Ở nhà tôi ai cũng dậy sớm. Khi tôi giật mình mở mắt lồm cồm ngồi dậy tiếng chổi đã kéo xoèn xoẹt ngoài sân, tiếng nước đã chảy ào ào vào chum. Trên con đường trước nhà, từng đoàn bò giậm chân lộp cộp đi qua, từng đoàn thợ cầy thợ cấy nói chuyện cười đùa ồn ào. Tôi nhìn khuôn mặt của anh Danh lừ đừ ngủ dậy khi nắng đã rọi nóng nơi cánh cửa, đồng hồ đã đổ tám tiếng. Tóc anh rối bù lật rơi xuống tới miệng, chụp phủ xuống tai. Áo quần nhầu nát, chiếu xô lệch, gối rớt xuống giường. Anh ngồi thừ rồi vươn vai ngáp dài rồi nhổ đánh toẹt vào một góc nhà. Giọng anh rồ rồ ngâm lên:
— Mộng Lan em ơi, sao em nỡ ra đi để cho anh thui thủi tấm thân nơi đất khách quê người....
Rồi mò tay xuống đầu giường tìm gói thuốc lá Đại-nam con Rồng móc một điếu châm hút. Sự uể oải, sự bừa bãi, thật là lần đầu tiên tôi mới chứng kiến và tôi thấy kinh dị. Sau đó quả tình là anh có rửa mặt, có rải thứ nước rửa mặt đó xuống sàn nhà rồi quét bằng cái chổi đó đót nhỏ những đống tóc, những mẫu thuốc lá, mẫu que diêm, anh có lau bàn lau mặt kính và treo tấm vải trên viết chữ « Coiffeur » dưới vẽ hình cái tông đơ, cái dao, cái lược, cái kéo, tiệm cúp của anh sạch sẽ trở lại, sáng sủa và xinh xắn thật, nhưng sao tôi vẫn có một sự ngờ ngợ không tin nào. Tôi mường tượng thấy một cái gì giả dối, một sự tạm bợ bất ổn. Có thể sống bấp bênh mơ hồ như vậy sao? Tôi thấy anh hay hẹn nợ, thấy anh nhiều khi đợi cho khách hàng vừa bước ra khỏi tiệm là đã vội bốc vào mắm đồng xu vừa nhận được, gọi mụ hàng xôi tới ngồi ăn.
Có những bữa thèm thuốc lá anh ngồi ngáp dài đợi người khách mang cái đầu tóc dài tới như con cóc đang ngồi đợi lũ kiến lũ mối bò qua. Nhưng mấy ai biết? Lúc nào đầu anh cũng chải bi-ăng-tin láng mướt, nước hoa Pompéia xịt thơm áo sơ-mi và khi cô tinh nhân của anh ghé tiệm thì anh gắn thêm một điếu thuốc lá trên môi. Người con gái tha hồ mà tin tưởng vào người tình phong nhã của mình. Có hôm tôi thấy cô ta mang biếu anh đôi quả xoài, vài quả cam quả mận hoặc khi đi chợ về thì ghé trao mấy cái bánh ít, một gói kẹo. Anh tâm sự với tôi:
— Cô ta thương anh dữ lắm. Bà mẹ ép gả cho thằng Nghĩnh, bếp khố xanh nhưng «cô » không chịu. Con bà Hương Bảy ở bên chợ Xổm. Nhà giàu lắm. Cổ với anh đã thề non hẹn biển nếu không lấy nhau được thì quyết tự tử.
Tôi có cảm tình với anh, điều đó tôi không phủ nhận, nhưng tôi vẫn không muốn rằng người con gái đó sẽ tự tử vì anh. Tôi không muốn cô lấy một người chồng có đời sống bấp bênh như anh, tiêu ngay đồng tiền mình vừa nhận được và ngồi đợi chờ đồng tiền như con thằn lằn nằm chờ con muỗi. Ở nhà, tôi quen với nếp sống có phòng bị có dự trữ nên tôi thật khó quan niệm rằng sao người ta lại có thể sống may rủi vậy được. Tôi có cảm tưởng anh là một loài cây không có rễ bám sâu vào đất như loại rong loại bèo nổi trôi trên mặt nước, lang thang phiêu bạt, không có phương tiện để dự liệu cho những bất trắc, để chống chọi với những bất trắc. Và tôi càng tăng thêm niềm thương kính đối với Bác tôi bởi vì chính Bác là cây đa cây đề, bám rễ hút nhựa thật sâu để bảo bọc tôi, để tôi có thể vững lòng tin cậy.
Ngày nghỉ lễ, Tân rủ tôi và thằng Phước đi bộ về quê thăm nhà. Đường dài hai mươi mốt cây số khiến tôi sợ nhưng Tân giảng giải:
— Hăm mốt cây số là đường ô-tô. Ô-tô chạy vòng quanh tránh núi tránh non, còn mình đi bộ, cứ theo đường đèo mà băng ngang. Gần lắm, chỉ còn chừng mười sáu cây. Tao đi bộ hoài mà.
Thằng Phước có kinh nghiệm đi bộ nên đề cập vấn đề với tínhh cách chuyên môn chính xác hơn tôi:
— Qua đèo Dốc Quít thì băng ngang lợi được vài cây số, qua đèo Gành Đỏ thì mình bỏ con đường ô-tô ngay từ chỗ Phương-lưu. Lên đầu đèo tụi mình nghĩ ăn bánh rồi xổ dốc. Bọc qua Bình chánh đi tới cầu ông Bi...
Tân gạt ngang:
— Qua cầu ông Bi chi cho xa? Đâm ngang qua Soi Giữa, đi giập miếng trầu là tới Cây Da chết. Nó đi thẳng Lẫm Bình-hòa, qua đò Cây Dừa là tới nhà.
— Uở nếu không đi ngõ đó thì nó thọc qua Long-xuyên với tụi mình, nó tách xuống ngã Đò Gạch rồi theo ngã Bình-phú. Tới miễu Cây Tài là tới nhà.
Con đường nào cũng «tới nhà» một cách dễ dàng mau chóng nhờ những « xổ dốc, băng qua, đâm ngang qua, thọc qua...» Thật là khỏe. Lại có mục «lên đầu đèo tụi mình nghỉ ăn bánh». Tôi tưởng tượng ngay một mẹt bánh xèo, một chồng bánh tráng và đĩa nước mắm có vài trái ớt tươi vừa bứt ở cây thả vào. Còn lý do gì để lưỡng lự nữa?
Tối đó thằng Phước ôm cập quần áo qua nhà chúng tôi ngủ. Dự định «gà gáy bốn lần» thì đi cho mát. Nhà ông Tám không có đồng hồ reo nên dặn nhau phải nửa ngủ nửa thức, ngủ cho đã sẽ thức. Đang ngủ ngon lành chợt giật mình.
— Dậy đi bay! Dậy đi bay! Sáng rồi.
Nhìn ra cửa sổ thấy trời mờ mờ sáng. Rửa mặt qua loa rồi ôm xách lên đường.
Đêm mát và yên lặng. Tân biết tôi mạo hiểm lần này là lần đầu nên nó thổi thêm tin tưởng cho tôi:
— Đường này tao đi như đi chợ. Cứ cách vài tháng cha Sở Lò-giấy sai tao đem giấy tờ ra cha Sở Sông-cầu. Rồi mày coi, ngó vậy chớ có xa bao lăm.
Phước tiếp lời:
— Con đường đèo Xuân-đài mà tụi mình sẽ leo tắt chính thị là con đường cái quan hồi thời Vua Gia-long đó, ông nội tôi nói vậy. Người đi buôn đi theo ngả đó, lính khiêng cổng cũng đi ngà đó. Họ khiêng cáng và gánh hàng nặng mà còn leo được huống chi tụi mình đi hai tay không.
Tôi không có ý kiến gì, cứ lầm lũi bước theo.
Đường trường vượt qua rồi đến đường dốc. Bỏ con đường lớn, đi len lỏi giữa một con đường hẹp, rồi nhảy qua những tảng đá, rồi trở lại gặp con đường lớn. Cứ liên tiếp như thế, hết đèo này đến dốc kia, qua truông qua hố mà không hề gặp một ai trên đường. Những ngôi nhà vẫn ngủ im lìm ở các thôn xóm xa, và tiếng gà gáy rời rạc từng hồi rồi im hẳn.
Chợt một lúc nào đó Tân đứng lại:
— Chết rồi bay ơi! Trời mới có khuya, bay ơi! Tao thấy trăng sáng mà tưởng lầm là đã mờ đất. Chỗ này ngó bộ...
Chúng tôi quay nhìn ra xung quanh. Đèo dốc chập chùng. Những bụi cây tù mù mang những hình thù quái dị. Những ngôi mộ sơn vôi trắng nằm rả rác ở sườn dốc. Tôi lạnh mình. Thằng Phước đứng kề lại gần tôi. Giá có đứa nào la lên một tiếng «Ma» thì nhất định cả ba đều sải chân chạy. Nhưng Tân quả có kinh nghiệm về đường trường. Nó nói:
— Tụi mình đi trụt lạt. Xuống cái xóm lúc nãy, chun vô cái xích hậu ở kề bên đường đó nằm ngủ. Hồi nãy đi qua tao thấy cái sạp tre trong xích hậu còn tốt lắm. Đợi có đoàn người nào đi chợ sớm thì mình đi theo.
Tôi không ngờ lần đi bộ đó có thể dẫn tôi về đến nhà được. Con đường thì quá dài, những cái dốc thì quá cao trong khi bước chân của tôi cứ càng lâu càng ngắn lại. Mà tiết kiệm được bao nhiêu? — Một cắc.
Bác thấy tôi về mặt mũi đỏ gay, rầy la không cho lặp lại một cuộc phiêu lưu như vậy nữa.
Qua năm sau tôi ở nhà trọ khác. Và tình cờ mà nơi đây tôi biết được tin chị Đẩu đã lấy chồng, một người thanh niên Hoa-kiều nhà giàu ở xế trước mặt. Người thanh niên Hoa-kiều đó mê cô con gái của bà chủ trọ tôi, chị Oanh. Anh hiện ở Sài-gòn để tập sự nơi một công ty lớn và trong những bức thư viết cho chị Oanh anh kể lể rằng anh ghét vợ anh lắm, rằng anh chỉ thương có Oanh, rằng vợ anh quê mùa lắm viết thư cho anh mà gọi là «phu quân» và xưng «thiếp» y như Phàn lê Huê đời Tống đời Đường. Cố nhiên là chị Oanh thích lắm nên chị kể lại cho tôi nghe và để biểu lộ tràn trề sự sung sướng, chị còn đưa những đoạn thư đó cho tôi đọc nữa. Tôi thương thầm cho chị Đẩu như thương một người bà con xấu số của mình. Tôi để ý nhìn xem chị lớn lên thay đổi thế nào nhưng nhà phố Trung-hoa thật kín cổng cao tường lại thêm mẻ chai cắm tua tủa. Chị ở mãi sâu trong một hậu cung thâm nghiêm nào đó, nơi để dành cho những người đàn bà bó chân nhỏ tựa búp sen. Có một lần tôi thoáng thấy chị đi đâu về, nép theo bờ thành rồi lọt vào cửa lớn, đi thẳng vào sân trong, làm như ngôi nhà to lớn âm thầm kia có sức hút. Quả đúng là chị, thân hình đầy đặn, da trắng mặt tròn. Một năm sau tôi nghe tin người chồng xin ly dị và chị trở về ở với cha mẹ. Tự đó, bặt tin luôn. Chắc chắn là chị sẽ không sung sướng, với một sự bắt đầu trở ngại như vậy. Sau này tôi có nghe loáng thoáng là ông Đực chết, ngôi phố bán đi và tôi tưởng tượng rằng hai chị em đều phải lam lũ so với những ngày êm ấm ngày xưa. Cuộc đời thường hay kết thúc đen tối bi thảm như vậy. Những ngồi nhà đổi chủ, những cửa hiệu xóa đi, lớp người lớn ngã xuống và lớp người nhỏ phân tán ra khắp nẻo. Con người nhẫn nại trong ý thức cam chịu, cuộc sống bắt rễ mong manh như lớp vảy trên da thạch sùng. Chính Bác tôi báo tin chú Đực chết, tôi không nhớ rõ vào dịp nào, chỉ nhớ chắc là báo với một vẻ thản nhiên đến độ lạnh lùng. Tôi hỏi:
— Chị Ngưu, chị Đẩu vẫn còn ở tại nhà cũ hở Bác?
— Cái nhà bán rồi. Nợ nần nhiều quá, bán để trả nợ. Ăn ở không lại mang tật hút xách.
Bác không nói một lời thương xót, than thở, trìu mến kèm theo và điều đó làm tôi không vui. Tôi nghĩ rằng những người đó không làm hại ai và tôi cứ muốn cho họ sung sướng. Những người lớn đều vô tình, sau này tôi mới biết như vậy. Khi đã chứng kiến nhiều cái chết, nhiều sự suy sụp, con người quen đi, lì đi, không còn biết cảm xúc nữa.
Lúc bấy giờ con đường xe lửa bò từ Bắc đến Tourane thì ngừng lại, bò từ Nam đến Nha-trang thì bò hết nổi. Đoạn đường Nha-trang — Tourane đi toàn bằng ô-tô. Xe chở thư từ mà dân chúng gọi là xe thơ, lúc đầu là xe hãng STACA màu xám, sau là xe hãng Bourbon màu vàng. Xe thơ vì phải chạy đúng giờ nên dân chúng ở hai bên đường thường mượn nó làm đồng hồ. Người ta bảo nhau, chẳng hạn:
— Đi bắc cơm đi! Xe thơ ra rồi.
hoặc:
— Ngồi nán chơi một lát nữa! Xe thơ chưa vô mà. Còn sớm.
Xe thơ ở Qui-nhơn vô mỗi ngày có chở theo bốn bao nước đá dành cho bốn người Pháp cai trị tỉnh này: ông Chánh sứ, ông Phó sứ, ông Lục lộ và ông Giám binh. Nước đá đựng trong bao tải, có bọc trấu xung quanh. Thời nay nước đá phổ thông ngang tầm với thịt bò và rau cải, phô thông đến mức người lịch sự không cho chủ quán bỏ đá vào ly bia mà bắt ngâm chai bia giữa những tảng nước đá. Những người trung lưu đa số có tủ lạnh. Khoa học tiến những bước vượt bực cung cấp những tiện nghi mà các ông quan cai trị người Pháp thời đó không có được. Thời đó bánh mì đã là một xa xỉ phẩm. Cả tỉnh lỵ chỉ có một hiệu làm bánh mì, một cái bánh giá năm xu chỉ từ ông Phán ông Thông trở lên mới ăn tới. Gần dịp Tết, ngoài hồng, táo, nho, chà là, kim châm, củ cải, các hiệu Hoa-kiều bày bán vài chục ký khoai tây và hành tây, treo bán bảy tám cái bắp sú. Nhà giàu mua được vài cái bắp sú, một ký hành tây là đã sang lắm.
Vào năm tôi học lớp Nhất, một người bán phở đầu tiên, một người Bắc, đến thành phố này. Ông ta gánh thứ gánh phở cổ điển vuông vúc như hai cái thùng gỗ, với cái đèn leo lét trong đêm. Tiếng rao «phở» lảnh lót, tiếng lóc cóc của một thanh gỗ gỏ vào lóng tre khiến sự hiện diện của ông ồn ào khác hẳn với sự im lặng của những người bán hàng khác. Sự tranh thương quyết liệt và kiên nhẫn của đồng bào miền Bắc vào Nam được báo trước bằng tiếng rao tự tin đó, như tiếng gáy hùng dũng của con gà báo hiệu ánh sáng và sự tranh sống sắp bắt đầu. Quả vậy, sau gánh phở, những hiệu tạp hóa, — trên bảng hiệu thường ghi là Bazar Tonkinois, — lần lượt mọc lên, ban đầu khiêm tốn e dè, lần lần nới rộng ra, cao thêm, dài thêm, rực rỡ thêm. Những tấm bảng hiệu lòe loẹt nhiều màu mang tên hiệu tươi vui với những Phúc Lai, Thịnh Quang, Tiến Mỹ... làm mờ hẳn những tên hiệu khô cứng bất biến của người Hoa-kiều: Toàn Phát, Hiệp Hưng, Vĩnh An Lợi... Cửa hiệu sáng rực nhiều màu với gương với lược, bánh xà-phòng, khăn, áo... với cô bán hàng đứng sau quầy vấn tóc trần và đôi mắt bò câu.
Những xe chở hành khách vô ra đều phải đậu lại bót Cảnh-sát để kiểm soát giấy thuế thân.. Đi ra xứ ngoài, — xứ Bắc-kỳ và xứ Nam-kỳ — thì mới cần có thẻ căn cước. Người nào không có giấy thuế thân thì Cảnh-sát bắt xuống xe đem nhốt vào bót Cảnh-sát. Có người chui núp trên mui xe giữa những đống hành lý và trên có phủ vải bố xanh, nhưng cảnh-sát cũng leo lên bắt phụ ết mở tấm bố rồi lấy roi gân bò quất túi bụi vào người nấp.
Những ngày đầu ở trọ, đêm nào đúng tám giờ tối tôi cũng bỏ học ra hai anh lính thổi kèn. Đó là hai người lính khố xanh bắp đùi vấn xà- cạp, chân đi đất. Cả hai lẳng lặng đi từ đồn khố xanh ra đầu cầu Thị Thạc. Họ đứng đối diện nhau, trương kèn lên thổi một bản kèn dài. Tiếng kèn bay theo làn gió đưa vang tận mãi trên Thành, vang xa tận khu phố nhà thương. Xong bản hợp tấu đó, họ quay mặt hướng về đồn khố xanh tiến bước nhịp nhàng, người này thổi một đoạn rồi tiếp đến người kia, thay nhau thổi cho đến cửa đồn. Sau bài kèn tám giờ có biểu diễn thịnh soạn, những hồi kèn chín giờ, mười giờ đều ngắn hơn và chỉ thổi ở trong đồn. Riêng hồi kèn mười giờ được chấm dứt bởi những âm thanh kéo dài ra buồn lê thê như dỗ người ta vào giấc ngủ.
Trong một năm học, ngoài ba tháng Hè, còn thi cử đến ngày lễ lớn là tôi đi ô-tô về nhà chơi đôi ba ngày. Nhằm mùa lụt, chú Ba đi câu lươn đem về rộng trong chum đợi ngày tôi về. Có khi rộng đến mươi ngày nửa tháng, đến hồi bắt ra con lươn gầy nhom. Hỏi:
— Chú cho nó ăn cái gì để nó sống tới ngày nay?
Chú trả lời:
— Tao bỏ đất sét vô trong chum.
— Con lươn ăn đất sét mà sống được?
— Chớ nó ở dưới ruộng không ăn đất sét thì ăn cái gì?
Thế mà tôi cũng có thể tin được! Giá bây giờ thì tôi sẽ hỏi lại:
— Chú nói nó ăn đất sét sao chú lại đào trùn mà câu nó? Rõ ràng là nó thấy con trùn quo que nó mới táp.
Nhưng tôi lại nghĩ rằng giá tôi có hỏi thế thì chú sẽ trả lời lại chẳng hạn:
— Tại nó thấy con trùn, nó ghét nó táp.
Chú hay mau miệng giải thích mọi việc cho tôi nghe, giải thích theo ý chú chứ không căn cứ theo một kiến thức chân xác nào.
Những con lươn đó, chú bắt thả trên nền đất, lấy lá duối và tro và cát chà cho mình nó hết trơn nhớt, cho màu da trắng bệch. Chú chạy xuống vườn chọn một cây chuối hột còn non cắt đem về, xắt mỏng ra mà um với lươn. Rất nhiều gia vị: nghệ, ớt, sả, lá gừng, lá é. Um lươn hay um cá tràu thì phải chặt một thân chuối, điều này đã thành công thức trong óc chú Ba nên khi những bụi chuối hột trong vườn không nảy ra thân chuối con nào vừa lứa thì chú xăm xăm lên vườn ông Lạc chọn xin một cây. Ở quê, sự tương trợ được coi là thông thường cần thiết bởi lẽ không ai có đủ những món nó cần. Làm sao mà có đủ thuốc đau bụng, thuốc cầm máu, thuốc nhức răng..., đủ cối lớn cối nhỏ, khuôn bánh, nồi bung? Lắm khi còn phải chạy đi mượn một chén dầu, một nồi trà, đợi hôm sau đi chợ phiên mua về trả. Mượn thì ít mà xin thì nhiều hơn, nhất là những loại gia vị trồng được trong vườn. Cây chuối con được chú Ba liệt vào hạng gia vị xin- khỏi-phải-trả-lại. Đó là một sự cưỡng áp, tôi nghĩ. Ông Thủ Lạc tính tình hiền lành ít oi nên cái vườn rộng của ông chỗ góc nào có mọc cây gì, người trong xóm không ai không biết. Cây khế lạt ở trước sân gần bực thềm, cây khế chua gần bờ giếng, cây nhàu gần chuồng heo, cây chùm kết ngoài hàng rào, cây me xế chái bếp... Lá ngải cứu vò uống ho, lá ổi phụng chưng uống tháo dạ, lá é, lá cửu, tía tô, bạc hà, mỗi thứ một ít chia nhau làm rậm cái không gian sinh hoạt gần gũi của ông.
Mùa Đông rảnh rang công việc, chú Ba còn gánh lờ đi xuống đồng Hà-yến, đồng Xóm Làng đặt ở mấy trổ nước bờ ruộng. Chú bắt được nhiều cá rô cá sặt đem về rộng trong chum. Cùng với chú, những người thanh hiên ở miệt Phường Lụa, Long-hòa cũng mỗi sáng rủ nhau từng đoàn gánh lờ đi tản về các cánh đồng để chận bắt cá. Những con cá rô lớn bằng bàn tay đem nướng lên, dầm vào nước nắm ớt tỏi, vừa bén vừa thơm.
Ngoài việc câu lươn bắt cá, chú đào lỗ trồng những dây mướp, dây bầu, dây dưa leo. Tôi yêu mến nhìn những dây mướp bỏ ngọn mỗi ngày bò một dài thêm, bò trải rộng ra khắp giàn, lá xanh che mát một vùng và những cái vòi cong manh mảnh ngo ngoe như râu của con tôm hùm, con châu chấu rập rình linh động. Sau này lớn lên; hễ mỗi lần nhìn một dây bầu dây mướp bắt vòi ra lá là y như tâm hồn tôi vắng lặng trở lại, tôi tự tách rời ra khỏi khung cảnh sinh hoạt hiện tại để đắm hồn mình về những ngày thơ ấu. Tôi thấy làng mình êm ả vô cùng, thời gian ngưng đọng lại và tôi vẫn còn là cậu bé khờ dại ngày xưa. Nhiều lúc tôi có cảm tưởng bao nhiêu màu xanh của lá màu vàng của hoa làm tươi mát tuổi ấu thơ tôi đều do một bàn tay của chú vun quén trồng nên, chú đã tạo cho tôi những kỷ niệm, chú đã làm giàu quãng đời bé bỏng của tôi.
Người ta thường ca ngợi mùa Xuân, cho mùa Xuân là đẹp nhất nhưng riêng tôi thì mùa Đông mới ghi lại những nét êm đềm. Khi những cơn mưa dầm tuôn ào ào lên mái ngói cắt dứt mọi liên lạc với mọi người xung quanh biến căn nhà của mình thành một ốc đảo lẻ loi, tôi cảm thấy sự ấm áp của một căn phòng, của một ngọn lửa trọng bếp, của những mảng bóng tối lẩn quất nơi kẹt cửa, nơi gầm bàn, nơi góc tủ. Đêm nằm nghe mưa rơi rào rào trên lá, nghe nước đổ từ sườn núi tuôn ầm ầm xuống cái hố cạnh nhà, sáng ra nhìn mặt đường biến đổi bởi bao nhiêu hòn đá lớn nhỏ từ sườn núi lăn xuống được cuồn cuộn trôi theo dòng nước bỏ nằm rải rác đó đây. Nước sông đục ngầu dâng cao tràn vào mép vườn, tràn lên ngập vườn và lũ nhỏ chúng tôi đứng quanh quẩn ở bờ nước, cắm cây đo mực nước, trông cho nước mau lên cao nữa. Mặt nước trong lòng giếng cũng dâng cao, cầm cái gáo có thể múc được và điều đó làm say mê chúng tôi.
Gió lớn ào ào trong đêm làm gãy những cành cây, làm rụng lá tơi bời trải khắp mặt đường khiến phong cảnh trống trải sáng sủa. Mưa to rồi tạnh và nước cứ dâng thêm, nước trải mênh mông, con đò bơi đậu ngay giữa xóm. Sõng câu chị Khiền ghim đậu trước cửa ngõ, chị bưng rổ thịt heo vào nhà mời Bác gái mua. Tiếp tới, tiếng giầm đập lộp bộp vào be sõng của bà Gặp mang mắm đi rảo bán từng nhà cũng bằng sõng câu. Những người trong xóm từ nhà ông Hương Hai ở đầu mút xóm trên đến nhà bà Tiềm ở đầu mút xóm dưới đều khăn trùm cổ hay quấn kín đầu, tay thọc vào bụng hay vào sau lưng quần lò dò đi tìm gặp nhau đứng tụ từng nhóm nói chuyện vẩn vơ về thời tiết. Mùa Đông mưa gió ai cũng nghỉ ngơi, ai cũng chỉ cần nhớ đến giờ chạy xuống bếp bắc nồi cơm hay lò mò về nhà ăn cơm. Hết đứng ở đầu ngõ nói chuyện, họ tụ hội vào nhà nói chuyện, đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, ngồi quanh bếp lửa hay quanh một lò than nóng đỏ. Cuộc đời thật thong thả nhàn hạ, người ta bày rang bắp để nhá cho đỡ buồn rồi lôi những chuyện Tiếu lâm, những chuyện ma cũ rích từ năm ngoái năm kia ra kể lại.
Để chuẩn bị cho mùa mưa lụt, tháng Bảy nắng ráo Bác gái mua trái thơm phơi khô rộng mắm và đem muối trứng vịt. Khi cơn mưa đầu mùa đổ xuống, Bác lật đật đem mấy món dự trữ ra nhưng hình như chẳng ai thấy chúng là cần thiết. Bởi lẽ thịt heo, cá đồng, bánh chả, giữa cơn lụt lớn người ta vẫn bơi sõng đem đến bán từng nhà, và thơm rộng nước mắm không phải là một món ăn ngon. Nhiều hôm tôi thấy rõ ràng là Bác gái bị mếch lòng bởi món ăn Bác phí nhiều công lao chăm sóc đó không được ai chiếu cố hết. Bác ngồi im lặng không chuyện trò và cứ độc gắp một món thơm rộng mắm của Bác cho đến hết bữa ăn. Mùa Đông có cái thú ăn đu đủ luộc. Cây đu đủ sức yếu thường bị gió thổi ngã, nếu không thì bị ngập nước bạc sớm muộn gì cũng bị thúi rễ mà chết. Bao nhiêu trái đu đủ từ già đến non đều phải lợi dụng hết.
Mùa mưa lụt nước tràn khắp đồng, mưa gió từng hồi ào ạt mà thấy tôi phải đi học là Bác lại lên tiếng chê trách Nha Học-chính:
— Đáng lẽ nhà nước phải cho học trò nghỉ mưa mới phải. Mùa nắng đi học sung sướng mà lại cho học trò nghỉ nắng!
Ngày Tết học trò thường được nghỉ đến hết mồng Bảy tháng Giêng là ngày hạ nêu, mồng Tám đi học lại, nhưng năm nào Bác cũng bắt ở nhà ăn xong lễ cúng Tiên-sư ngày mồng chín rồi mới đi. Tôi sợ thầy phạt nhưng lòng ham nghỉ vẫn mạnh hơn lòng sợ thầy cho nên sau vài hồi được kéo nài, tôi sẵn sàng nghe theo lời Bác. Lễ cúng Tiên-sư có ba con gà giò và sáu đĩa xôi là mục chính còn những xào nấu là phụ. Ăn xong rồi cũng phải ra đón ô-tô. Xung quanh tôi mọi người hoạt động tíu tít tấp nập. Những người đàn bà ôm từng trái dưa hấu lớn chào mời khách. Người khác cầm giơ những gói bánh cốm chìa vào trong xe.
— Cốm đây! Cốm dẽ đây! Mời ông mua giùm một gói... Dạ, ngọt lắm... Dẽ lắm... Dạ ông cầm coi, gói cốm nặng trịch.
— Dưa hấu! Mời bà mua trái dưa! Dạ, dưa hấu Lỗ Sấu mà, ngon có tiếng. Dạ, bà cứ coi cái chêm đây thì thấy. Dưa đỏ ruột, mỏng vỏ, cát nó to mà dòn.
Mấy quán cơm băm thịt, chiên xào túi bụi. Tài xế, «ết» xe quay máy, rò máy, bóp còi toe toe rộn rã. Tranh nhau giành cướp những người hành khách đi ngơ ngác trên đường.
— Ra Sông-cầu hả? Lại đây! Lại đây! Xe chạy liền. Bỏ giỏ xách lên mui mau!
Người hành khách quê mùa bỡ ngỡ không biết mình phải đi xe nào. Bởi vì cái giỏ bị anh ết này giựt, cây dù bị anh ết kia kéo còn đứa nhỏ dắt theo thì bị một anh ết khác dẫn đi miết lại một cái xe thứ ba. Cứ ngó qua ngó lại ngó trước ngó sau, hai chân quính quáng và miệng líu ríu không biết nói sao một lượt cho cả ba người ết cùng nghe.
Thật sung sướng là những người làm việc có mục đích, làm việc tự do thong thả làm việc trong phạm quyền vi hạn của mình. Tôi ngồi đó đưa mắt lạc lõng nhìn xung quanh. Thầy giáo lớp nào cũng dữ đòn. Thầy Tiển gầy ốm có bàn tay xương xẩu nên cái tát của thầy có giá trị của những đoạn roi ngắn cộng lại. Thấy Lương quất học trò với cái roi cá đuối lởm chởm gai nhỏ. Ngọn roi đánh vút một cái, cuộn tròn theo lưng của nạn nhân và thầy nhắm tít đôi mắt lại như cũng ghê sợ không dám nhìn sự tàn bạo của mình. Thầy Huy đập đầu người học trò lười vào bảng đen và sau hai ba cái đập đầu như vậy, mặt người học trò trắng bệch bụi phấn. Mỗi lần viết bài chánh tả Pháp-văn, thầy lò dò đi xuống từng bàn đưa mắt nhìn những chữ sai và cái roi bất ngờ bổ xuống từ trước mặt hay từ sau lưng không biết trước được. Dáng thầy Cao so với dẫy bàn thấp lè tè và tôi có cảm tưởng học sinh là bầy cá con bị một con cò đi lửng thửng rình mò, chốc chốc mổ vọt xuống một phát gắp trọn con cá con giữa mỏ.
Tôi thấy mỏi nơi xương bả vai của mình. Tôi nhìn qua cửa xe, nhìn về chỏm núi của xóm tôi ở bên kia sông. Mấy hòn đá lớn nằm cao chót vót, mảnh rừng cấm um tùm giữa hai triền núi trọc mọc thưa thớt những bụi cò ke, bụi móc ó, bụi găng. Dưới chân núi là thôn Quảng-sức của tôi nằm nấp sau bờ tre. Con đò lặng lẽ chở khách qua sông, cái bến của vườn tôi kia, ngôi nhà của tôi ngói đỏ lấp giữa màu lá xanh ngắt. Tất cả mọi vật hiền hòa trầm lặng, cuộc sống thong thả dễ dàng, đêm tiếp theo ngày ai nấy cũng vừa làm vừa chơi, cũng gắng sức trong một mức độ vừa phải. Chỉ có riêng tôi bơ vơ lạc lõng, một thân nhỏ chịu bao nhiêu sức ép của xã hội học đường: thầy giáo, thầy Đốc, ông Kiểm-học... cho đến Cai Bảy Cai Năm, như cành hoa dại mọc đơn côi trên chỏm núi đá bị gió giật liên hồi mưa xối tới tấp. Tôi tự nguyện: lần sau nhất định không ở nhà ăn cúng Tiên-sư nữa. Nhưng hình như ba trăm sáu mươi ngày có đủ sức dài để xóa mất những lo âu của năm trước nên năm nào rồi tôi cũng lặp lại sự dại dột và sự ân hận.
Cuối năm lớp Nhất chúng tôi thi Tiểu-học. Bài thi làm toàn bằng tiếng Pháp và trong khi tôi tả xung hữu đột một mình xoay xở giữa trường thi thì ở nhà quê ông Thông Nhẫn tới thăm Bác. Thông Nhẫn nguyên là một thừa phái bị bãi chức vì tội ăn hối lộ phải theo về ở nơi quê vợ. Ông ta giữ một nề nếp sinh hoạt nặng bề hình thức cốt để che giấu sự túng thiếu của mình. Áo quần luôn luôn tiêm tất và trong câu chuyện kể cho người xung quanh nghe, ông hiện ra là một người học giỏi, có đạo đức, dòng họ trâm anh thế phiệt. Đi đến đâu người ta cũng tranh nhau tiếp đãi ông trọng hậu để được làm quen, người ta mời mọc, người ta nài nỉ. Nhưng ông quân tử, chỉ giao du với người quân tử. Bác tôi hẳn là được ông xếp vào hàng quân tử nên ông thường ghé nhà, có lúc thì mượn hai cắc trả tiền xe kéo rồi quên luôn không trả lại, có lúc thì khen nếp ở nhà này nấu xôi dẻo và sẵn sàng mua một giạ, hôm sau trả tiền. Trí nhớ của ông ngắn, Bác tôi đã có kinh nghiêm nên coi như biếu ông giạ nếp đó. Lợi tức của Thông Nhẫn là những ông xã ông tổng có việc phải làm đơn lên quan, là những người thưa kiện và những người bị kiện. Đơn trương giấy tờ, xui nguyên giục bị, ông là một loại ngư ông có kế hoạch không chịu nhẫn nại đợi cho trai cò mổ nhau mà thường phải bày cho cò mổ trai và trai kẹp cò.
Sau những câu hỏi thăm thường lệ, Thông Nhẫn hỏi tin tức về sự học của tôi.
— Nó học thì khá, Bác trả lời lơ mơ như vậy.
— Nhưng đi thi mà không lo lót thì không thể nào đỗ nổi. Anh liệu coi. Cũng nên lo lót cho cháu nó chắc đỗ.
Bác ậm ừ, không trả lời dứt khoát. Lo lót là một nề nếp sinh hoạt không làm người dân Việt-nam nào ngạc nhiên. Từ việc lớn đến việc nhỏ, từ hình thức công khai lộ liễu đến hình thức khéo léo tinh vi, người ta đòi hối lộ, nộp và nhận hối lộ. Không có anh lý trưởng nào, chánh phó tổng nào, hương sư nào là khỏi phải nạp hối lộ cho cấp có quyền hành.
Thông Nhẫn chậm rãi tiếp:
— Anh với tôi là chỗ anh em, cháu anh cũng như cháu tôi. Tôi có bà con với mấy giám khảo. Anh đưa tiền để tôi lo cho.
— ...
— Không bao nhiêu đâu. Chỗ giám khảo bà con, tôi lo chừng bốn lăm, năm chục đồng thì bảo đảm. Người khác thì phải hàng trăm bạc. Mà chưa chắc đã xong. Lo cho giám khảo cho yên đi, rồi còn chỗ tôi với anh... anh em mình mà.
Những con số! Năm chục đồng. Trị giá của bốn lượng vàng. Rồi còn chỗ anh em nữa. Nghe nó nói nó học khá...
Thông Nhẫn không nài nỉ thêm mà cáo biệt vội vàng lấy cớ có nhiều việc đang bận. Đó cũng là một nước cờ cao. Chứng cớ là Bác đã mấy lần ngồi gói bạc, rồi lại ngần ngừ suy nghĩ, rồi lại gói bạc cầm dù ra đi, rồi lại lấy một cớ nhỏ nhặt nào đó trở lộn về. Cho đến khi tôi xuống xe chạy ù về nhà la lên: «Đậu rồi! Con đậu rồi!» thì gói bạc và cái dù, vẫn còn đặt cạnh nhau. Chắc chắn nỗi mừng vì cháu thi đậu không lớn hơn bao nhiêu so với nỗi mừng vừa cứu thoát năm mươi đồng bạc. Bởi đã biết khá nhiều về ông Thông Nhẫn nên Bác tôi đã có thái độ của Tư-mã Ý dùng dằng không biết nên tiến hay nên thoái, không biết Khổng Minh chết thật hay giả chết, nên cuối cùng gói bạc mới còn nằm kề cái dù.
Kỳ thi đó có hai người đậu đầu ngang điểm nhau, trong đó có tôi. Hội đồng không dự trù một trường hợp bất thường như vậy nên hôm tuyên bố kết quả chỉ có một quyển tự điển Larousse để tặng cho một người. Thằng Trương xuân Chánh, tên bắt đầu bằng chữ C được lãnh. Hội đồng hứa với tôi:“Sẽ mua thưởng cho trò sau”. “Sau” đồng nghĩa với “không bao giờ hết”. Tôi không nỡ đem điều đáng phàn nàn đó về kể cho cha tôi nghe để bắt ông hối hận. Không phải cứ lấy tên ông Tôn Văn ra đặt cho tôi là tức khắc tôi sẽ làm Tổng-thống. Mà kết quả rõ ràng trước mắt là vì tên tôi là Văn nên tôi mất quyển tự điển Larousse.
Chú thích:
[1] 3 points: ba điểm.