← Quay lại trang sách

Chương 5

SAU KHI ĐỖ TIỂU HỌC, TÔI THI VÀO Trung-học. Những bạn của tôi ở từ các tỉnh tới, nói nhiều giọng khác nhau: Quảng-nam, Quảng-ngãi, Thừa-thiên, Bình -thuận, Ban-mê- thuột... Sau mỗi kỳ nghĩ Tết, mỗi kỳ nghỉ Hè, lũ bạn đi học mang theo quà địa phương của mình. Bạn Quảng-nam mang theo khoai lang khô và bánh tổ, bạn Quảng-ngãi mang theo đường phổi, bạn Phan-thiết mang theo nước mắm nhỉ, còn rim mứt, kẹo mè, bánh in bánh cốm thì gần như không ai không có. Ký túc xá nhà trường lúc đó bận rộn khác thường. Ngày nào cũng có đứa la lối giậm chân phủi tay tới tấp vì lũ kiến đen đánh hơi đường ngọt sắp hàng đi cả đoàn vào viếng thăm hộc tủ và va-li. Ngoài những học sinh người kinh, ký túc xá còn nhận những học sinh người Rhadé, những Y Bliêng, Y Phơm, Y Bih, R’om Rock, Nay Phin... Họ đồng phục kaki vàng và trao đổi chuyện trò với chúng tôi bằng tiếng Pháp.

Những buổi chiều đi lại trong sân trường, Y Phơm hay biểu diễn môn bắn ná cho chúng tôi xem và anh mách rằng: “Thằng Y Bliêng đó, nó giàu lắm. Nhà nó có năm con voi và nhiều con trâu. Và, — điều này nhớ đừng mét lại cho nó nghe, nghe không, — nó có vợ rồi”. Cố nhiên là chẳng ai đủ kín miệng để giữ nổi một tin tức ly kỳ như vậy cho nên sau ba ngày là Y Bliêng đã rượt đánh Y Phơm và cả hai vật nhau giữa sân cỏ. May mà họ không dùng ná và mũi tên tẩm thuốc độc.

Ở trường Trung-học, hiệu trưởng và một số lớn giáo sư là người Pháp. Điều này hẳn làm cho Bác tôi bằng lòng, không thể nghi ngờ gì được bởi vì lúc bấy giờ người ta khen một anh học trò căn cứ vào tiêu chuẩn “nó có nói chuyện được với Tây không”.

Làng tôi nguyên có nghề dệt gấm nổi tiếng suốt cả Trung-Việt, sản phẩm đem đấu xảo tận bên Pháp nên các quan Tỉnh thường ghé lại thăm, kể cả các ông quan người Pháp. Ngoài các viên chức cao cấp đó, thỉnh thoảng có một viên Đội Thương-chánh đi sục vào làng tìm bắt thuốc lá lậu thuế và rượu lậu. Vào mùa thuốc lá, nhiều người đi mua thuốc từ mạn Sơn-hòa, Trà-kê gánh đi băng rừng về lọt xuống miền xuôi, trốn khỏi mấy đồn Thương Chánh. Do sự tâu báo của những người điềm chỉ mà đôi lúc những viên đội Thương-Chánh đi thẳng vào làng, tìm đúng nhà và đúng ngay chỗ cất giấu tang vật. Mỗi lần có một người Pháp như vậy nghênh ngang vào làng là mọi người nhốn nháo, người có tiền thì lo lắng sợ bị vạ lây, người nghèo thì thong thả, tò mò chạy theo coi.

Một hôm Bác đi đâu về trễ, cổi áo rồi lấy quạt quạt phạch phạch, vừa bảo tôi:

-Hôm nay có thằng Tây Thương-Chánh đi bắt thuốc. Nó gặp thằng Quảng hỏi đường và thằng Quảng trả lời lại bằng tiếng Tây. Cả xóm ai cũng khen. Thằng Quảng là bạn học của mày đó. Còn như mày, mày gặp Tây có nói chuyện được không?

Tôi lúng túng không biết trả lời sao. Tôi chưa nói chuyện với Tây lần nào thì làm sao mà biết được? Tôi nói rụt rè:

- Hồi giờ chưa nói chuyện thử …

- Thử cái gì? Hễ học thì phải nói được.

Sự cẩn thận chuẩn xác của tôi đã làm Bác nổi giận, đã chặt đi những đôi cánh tin tưởng hào hứng nơi Bác. Tôi có nghe truyền miệng những lời khoe của vài phụ huynh khoe con mình có khả năng nói chuyện với Tây. Từ sự thật đến lời rao truyền khoảng cách thường xa lắm. Không chắc đứa con của đương sự đã dám có một lời quả quyết. Lại không chắc người cha đã có một câu khẳng định. Nhưng lời truyền miệng cứ luân lưu, thêm bớt tùy sáng kiến của những trạm thu phát.

Phải công nhận là sự bất bình của Bác làm tôi áy náy nhiều ngày. Nó khiến tôi lo lắng nữa bởi vì lúc nào cũng tưởng tượng những sự bối rối lúng túng khi mình sẽ đối thoại với một người Pháp thật. Sau này càng có kinh nghiệm ở đời tôi càng thấy rằng những người cha lạc quan kia quả là những người sung sướng. Họ đơn giản hóa mọi việc, như người làm vườn thô lỗ cắt trụi những chồi nhỏ đâm ngang đâm dọc của một cành cây. Họ không đủ tinh vi để hiểu ý nghĩa thực của một câu nói, ý nghĩa nằm trong những hư tự mà họ coi thường như sẽ, có lẽ, nếu... Tiếng Việt không có điều-kiện-cách và tiếp-tục-cách. Và người điếc thì không hề biết sợ súng còn người thính tai lo lắng cả đến những tiếng chuột rúc dưới gầm giường.

Tôi nhớ năm 1940 khi quân đội Nhật tràn vào Đông-dương, có nhiều người lật đật viết những cuốn sách dạy tiếng Nhật. Có người vừa in sách vừa mở lớp dạy tiếng Nhật. Tôi đã có dịp gặp một ông thầy, như vậy, đang giờ học thì có một sĩ quan Nhật bước vào và có một người học trò của ông phải làm thông ngôn giùm cho thầy. Vả lại dẫu đã nói chuyện được với Tây nhưng lại còn có nhiều cách nói. Hồi đó Tổng-giám-thị của trường là một giáo sư thực thụ đã từng dạy nhiều năm. Lệ nhà trường khi trống trường đánh một hồi, học sịnh được vào lớp cất sách vở nhưng phải ra đứng ở sân chơi. Nhiều học sinh sẵn dịp

hay ngồi luôn trong lớp nên ông Tổng-giám-thị phải đi đi lại lại trên hành lang, đuổi những học sinh “sợ nắng sợ gió” đó ra sân. Ông thường dùng chữ «Sortez au dehors! Sortez au dehors! ” [1]

Luôn mấy năm như vậy, chúng tôi quen với tiếng dép lạch chạch của ông trên nền xi-măng, cái điếu sừng trên môi, khuôn mặt hơi nghếch lên và câu nói không thay đổi « Sortez au dehors! »

Năm đệ Tam niên, chợt một hôm hiệu trưởng dẫn vào lớp một cậu Tây con, cao gần một thước tám. Giáo sư chọn cho hắn một chỗ ngồi ở cuối lớp. Liền chiều hôm đó chúng tôi được biết hắn là con ông chủ sự Bưu-điện. Hắn hoang đàng, xa bố thì chuyên môn làm bậy nên bố không cho lên Lycée Yersin Dalat nữa mà bắt học ở Collège này để bố dễ kiểm soát. Jacques Grappe, - tên hắn,- cố nhiên là coi thường mọi giáo sư người Việt.

Một hôm Jacques ngồi trong lớp đang ba hoa với chúng tôi thì ông Tổng-giám-thị tới.

-Sortez au dehors!

Chúng tôi nhảy thót ra hết, theo mọi thung lũng của dãy bàn băng kê song song nhau. Jacques ngồi lì đó. Ông Tổng-giám-thị lặp lại:

— Sortez au dehors!

Jacques miễn cưỡng đứng dậy. Ông bố nó chắc dữ đòn lắm nên nó mới phải nể nang một ông thầy giáo da vàng như vậy. Và chắc ông bố nó có hứa hẹn thề thốt hết lời nên ông Tổng-giám-thị mới đủ mạnh dạn ra lệnh cho một thước tám xương thịt mẫu quốc đó phải ra sân. Khi Jacques nhập bọn với lũ tôi ngoài sân, nó nhún vai trề môi về phía ông Tổng, nói nhại:

— Sortez au dehors! Sortez au dehors! Mais ça c’est certain. On ne peut pas sortir au dedans. [2]

Ở ký túc xá ăn, học, ngủ đều đúng giờ giấc nhưng khi thích chúng tôi vẫn lén nhảy rào hay chun rào ra phố xem xi-nê. Dù đứa nào cũng đã mười sáu, mười bảy tuổi nhưng đi xi-nê đều mua giấy hạng bét, ngồi băng chứ không có ghế dựa. Chúng tôi không có cảm nghĩ xấu hổ. Tuổi trẻ hồi đó hồn nhiên hơn thời nay. Nhiều đứa trong chúng tôi chỉ còn năm sáu tháng nữa là thi đỗ trung-học, thi đỗ thư ký tòa Sứ, thư ký Bưu-điện hay thừa phái và nó sẽ ngồi coi xi-nê ở hàng ghế sau. Bây giờ thì cứ ngồi xúm xít nhau ở hàng băng này, cười đùa tự nhiên thong thả.

Giấy hạng bét không có ghi số chỗ ngồi nên thằng Quýnh lập mưu làm giấy giả. Lệ vào cửa rạp thì đưa vé cho người giữ cửa xé một miếng nhỏ vất xuống đất, mình cầm mảnh còn lại. Quýnh nhặt những miếng vất xuống đất về chắp với những mảnh còn giữ lại, ủi thật sát, cất kỹ đó để dùng lần. Đôi lúc tặng bạn một vài vé. Cho đến ngày người Pháp bại trận về nước, tôi chưa nghe rạp xi-nê Monrin này khám phá được vụ đi xi-nê lậu vé kiểu đó.

Năm đệ Nhị niên, tôi nghe bạn rủ, không ở ký túc xá mà ra ở nhà trọ với mấy đứa, thằng Tùng gầy và cao, liến láu nhất bọn, thằng Ngô Khán thấp, mập, khuôn mặt tròn và hai vòng kính cận thị tròn làm mặt nó giống mặt ông Tôn Khoa, anh Phò học trên tôi một lớp, đứng đắn nghiêm trang. Ông chủ trọ hơn năm mươi tuổi, làm Hương-bộ, không biết chữ Quốc-ngữ. Mỗi lần có người đến khai sinh khai tử, ông kêu một đứa,trong chúng tôi bắt viết lời khai vào sổ. Lập tờ khai như vậy ông được lãnh lệ phí nên ngày nào có thân chủ là ông mua bánh ít hay kẹo đậu phộng chia cho. Thành ra cứ đôi ngày là nghe khề khà những danh từ « Cẩm-thuợng đệ tứ phường... Hương bộ Trần Tiển tự ký... con trai... con gái... người chứng thứ nhất... người chứng thứ nhì...» Giọng nói đầy trang nghiêm của thầy Hương-bộ:

— Phải khai cho đúng tên đúng-họ—Chuyện nhà nước chớ không phải chuyện chơi. Muốn ở tù thì muốn … Có chữ lót không? … Ờ, có lót, chữ Đình thì phải biên đủ chữ Đình. Biên dùm cho nó. Nguyễn đình Nhỏ… Đứa nào cũng Nhỏ. Tụi bay tới nhà hương bộ mới đặt tên con mà, tao biết hết. Không sợ nhà nước phạt thì đời nào tụi bay chịu khai?... Hả? Mày khai nó chết vì con sát bấu hả? Mày muốn chết. Không được. Cứ khai là bệnh cảm. Con sát bấu, Tây nó kêu là « Cu-lê-ra», hễ có Cu-lê- ra [3] thì. phải báo với nhà nước, giải tử thi xuống nhà thương, nghe chưa? Tụi bay đẻ tới năm sáu đứa con rồi mà ngu vẫn còn ngu...

Một hôm không biết do ai giới thiệu, có một người thanh niên trạc hai mươi tuổi đến ở trọ nhà thầy hương hộ. Anh ta ít nói chuyện với chúng tôi, cả ngày nằm ngủ nhiều hơn thức. Chị Dần con thầy hương bộ ngày ngày phải chải đầu với nhiều dầu dừa hơn trước. Chúng tôi nhìn người lạ với ít cảm tình. Bắt đầu là cái tên viết nắn nót bằng chữ in dán trên va-li: Ông Thiện Tài.

Ông Thiện Tài hay ngồi hé mở va-li lục lọi tìm kiếm xếp đặt gì đó. Hễ có ai đi gần thì vội vã đậy kín lại. Sự che giấu làm Ngô Khán để tâm dòm ngó. Rồi nó bảo tôi:

— Sao thấy có trứng gà trong đó.

— Chắc hắn mua để dành ăn lần.

— Có mấy lá cờ nữa.

— Lá cờ?

Thằng Tùng nghe tôi hỏi to, lật đật chạy lại. Rồi đến anh Phò. Và cuối cùng cả thầy hương bộ nữa.

— Tôi thấy rõ có mấy lá cờ mà, Ngô Khán nói.

— To nhỏ?

— Không rõ. Mình đứng ở xa xa và hắn chỉ mở he hé.

— Màu gì?

— Thấy thoáng thoáng có màu đỏ.

— Nguy rồi!

Mọi người giật mình chong mắt nhìn về thằng Tùng. Mặt nó nghiêm trang.

—Nguy thiệt! Thằng cha này chắc làm quốc sự.

Thầy Hương bộ nghe đến chữ quốc sự thì há hốc miệng. Cái rang nah rụng ở hàm dưới khoét một lỗ đen. Chúng tôi biết là Tùng nó muốn nghịch chơi thôi nhưng rõ ràng là thầy Hương bộ lo lắng:

—Có lẽ thiệt. Có lẽ thiệt. Giọng nó nói trọ trẹ, mà lại cứ ăn ở không chẳng thấy đi làm sở nào hết. Nghe thầy sếp ga xe lửa nói chầu rày “ở ngoải” lộn xộn lắm. Bắt bớ tứ tung.

Sự lo lắng nghi kỵ làm những ngày sau đó thầy Hương bộ tỏ thái độ nghiêm khắc với ông Thiện Tài. Thầy hay cật vấn anh ta về gia đình, học hành, làm ăn. Dường như những câu trả lời không làm cho thầy an tâm và thằng Tùng lại có dịp phá phách:

—Họ gì lại họ “Ông”? Xấc. Ban đầu mình tưởng Thiện Tài là biệt hiệu, còn Ông là “Mông xừ”. Đến chừng thấy đề Monsieur Ông Thiện Tài mình mới …

—Ừ, coi vậy mà xấc, —lời thầy Hương bộ. Lớn nhỏ già trẻ gì cũng phải kêu nó bằng Ông.

Chúng tôi cười rộ lên, kể cả thằng Tùng.

Một hôm thừa lúc Ông Thiện Tài đi vắng và lơ đễnh quên khóa va-li, thầy Hương bộ lại bật nắp va-li ra rồi kêu bọn tôi tới, làm như thầy đã bắt phạm pháp quả tang. Dưới vài lớp quần áo nhầu nhè không ủi, quả đúng là có những lá cờ hoặc vuông hoặc đuôi nheo to bằng hai bàn tay, có lá màu đỏ, có lá nửa trắng nửa đỏ, có lá rời có lá dính cả xâu vào một sợi dây dài.

— Mấy cái trứng gà! — Ngô Khán la lên vừa chồm xuống lượm như mừng gặp lại người quen. Chợt hắn la to:

— Không phải! Uở, mà sao không có ruột? Trứng gà ai hút hết. A! Hút bằng cái lỗ nhỏ xíu đây.

Tôi hiểu rồi. Đây là đồ nghề làm ảo thuật của Ông Thiện Tài. Bữa trước anh ta có dọ hỏi tôi về những trường Trung-học và Tiểu-học ở đây, hỏi tôi có quen với Hiệu trưởng trường nào không. Tiếp theo anh nói rằng nhà trường cần tổ chức giải trí cho học sinh và trong những trò giải trí, môn ảo thuật là môn trẻ con rất thích. Câu chuyện đến đó rồi thôi bởi đầu đề của nó giống đầu đề một bài nghị luận phổ thông, khô khan hình thức. Bây giờ thì tôi hiểu là ông Thiện Tài muốn đến mấy trường xin trình diễn một buổi ảo thuật và học trò sẽ ủng hộ bằng cách mỗi đứa góp cho năm xu, một cắc. Nhưng chiều hướng của cuộc thảo luận nơi nhà thầy Hương bộ thì khác. Thầy ngờ ngệch đa nghi còn thằng Ngô Khán thằng Tùng thì tinh nghịch nên câu chuyện đi theo những đường ngoắc ngoéo: nhất định là làm quốc sự... có thể bị vạ lây... coi chừng ma cà rồng: lén hốt trứng gà giấu trong va-li rồi khuya dậy ngồi hút... Phải, con mắt nhỏ ti hí...

Một buổi chiều chúng tôi đi học về thì ngạc nhiên thấy thiếu cái mền đỏ và cái va-li của Ông Thiện Tài. Vừa nghe tiếng guốc và tiếng nói ồn ào của chúng tôi, thầy Hương bộ lật đật từ nhà dưới đi lên, vẻ mặt nghiêm trang như chúng tôi là nhà chức trách:

— Đi rồi! Đi hồi xế! Tao mời cậu ta đi trọ nhà khác. Ban đầu cậu ta cự nự, tao phải dọa kêu Cảnh-sát.

— Người ta có tội gì mà kêu cảnh sát? — anh Phò hỏi.

— Làm quốc sự mà câu nói không có tội?

Tôi không muốn giải thích dài dòng, ở đây hay ở nhà khác Ông Thiện Tài cũng phải trả tiền trọ. Chỉ tội nghiệp cho chị Dần từ ngày Ông Thiện Tài mang va-li đi rồi thì chị lười biếng chải đầu và nấu ăn hay khê khét. Bà Hương bộ rầy la inh ỏi trong bếp và chúng tôi nhăn mặt trên bàn ăn. Muôn sự đều do thằng Ngô Khán và thằng Tùng mà ra hết.

Như những cầu thủ đầu quân cho các đội banh tùy theo từng mùa, chúng tôi thường gặp trường hợp rã nhóm này để tụ với nhóm khác, và mỗi lần như vậy là phải thay đổi nhà trọ. Lần tách khỏi nhóm thằng Khán, tôi lên ở chung với thằng Cư, thằng Yêm, thằng Lắm. Chủ trọ là một người buôn nước mắm ở Gò Bồi mới tới đây cất nhà. Tuổi anh chừng ba mươi. Mỗi lần mời chúng tôi ăn cơm hay nhắn chung một điều gì, anh lúng túng không biết nên xưng hô ra sao. “Mời mấy trò” thì thất lễ, “mời mấy anh” thì chúng tôi lại nhỏ vào hàng em. Anh đặt ra một danh từ mới: Quý sĩ.

— Xin mời quý sĩ! Xin mời quý sĩ! Bỏ sách bỏ vở xuống mau chớ để nguội.

— Quý sĩ có đi tiểu thì xin đi xa xa ra bờ rào. Quý sĩ làm chết cây lựu của tôi mới trồng rồi. Nó mới bén rễ, nứt được hai tược. Nước tiểu nóng lắm, cây nào chịu nổi.

Ở đây có một món quà phổ thông là bánh tráng nướng. Mỗi lần rỗi việc, chiều thứ bảy hay trưa chủ nhật, thằng Cư hay xướng lên:

— Bánh tráng nghe bay! Mấy cái?

— Ba.

— Năm.

Cư lấy miếng giấy vẽ năm cái vòng tròn to bằng đồng xu rồi giao cho thằng Đinh con người chủ trọ:

— Xuống quán má anh Bá lấy năm cái bánh tráng. Giấy đây.

Bà quán cứ y theo số vòng tròn đếm bánh đưa, cất tấm giấy rồi mươi ngày nửa tháng tính tiền một lần.

Ở đây dễ nhớ nhà hơn ở dưới phố vì có những bụi tre, có tiếng ếch kêu và sau lưng nhà có núi. Nếp sống gần gũi quen thuộc: cũng những cây bông trang hoa đỏ nở đầy đặn đứng ở trước sân, cũng một cụ già quấn khăn đi guốc lộc cộc chăn sóc chậu kiểng, cũng những tiếng kiêng cữ làm người nói có chút hãnh diện: núi Xuân-quơng, ấp Trung-thiềng, cành vàng lá nguộc.

Khi tôi lên Trung-học thì con đường xe lửa xuyên Việt hoàn thành và mỗi lần đi về đều dùng xe lửa. Những kỳ nghỉ lễ về nhà bao giờ chúng tôi cũng đi chuyến xe lửa sớm nhất, cả đêm háo hức không ngủ được, khuya đã lò mò dậy ôm cặp ra ga. Nghỉ lễ xong phải tựu trường thì chọn chuyến xe trễ nhất. Từ nhà ra ga Đường đất dài ba cây số, chú Ba xách va-li và Bác cầm ba-toong đi theo. Xe lửa thường trễ, cứ nghe leng keng chuông điện tín báo hiệu là thế nào cũng biết xe trễ thêm nửa giờ nữa, một giờ nữa. Tôi ngồi trên chiếc băng gỗ cạnh cái va-li, chú Ba đứng nhìn những tấm hình quảng cáo phong cảnh Huế, phong cảnh Đế-thiên Đế-thích treo trên tường nhà ga, còn Bác thì vung vẩy ba-toong đi đi lại lại. Tôi trông cho xe lửa cứ chậm nữa dù rằng nơi đây phong cảnh chẳng có gì êm đềm. Nhưng rồi cuối cùng xe lửa cũng tới và chú Ba hối hả xách va- li bỏ lên tàu cho tôi. Tôi không biết nói “ Thưa Bác cháu đi” và bác cũng không hề nói “Thôi cháu đi mạnh khỏe. Rán mà học hành”. Không có một sự trao đổi tình cảm nào được nói nên lời, được biểu hiệu ra bằng cử chỉ. Chúng tôi ngoài mặt như là những kẻ xa lạ với nhau.

Đang giữa ngày học chợt có hôm thấy Bác lò dò ở nhà quê đi xe lửa ra. Không có gì lạ để báo tin hết. Bác mở một gói đầy bánh ít, bánh men, bánh thuẫn, bánh tét và có mấy cái đùi gà chiên nữa. Bác nói:

— Hôm qua đám giỗ ông Nội. Bác gái mày nói đem ra cho mày.

Tôi không cảm động bao nhiêu, lúc đó. Nhưng vài mươi năm sau, mỗi lần nhớ đến, lòng tôi không khỏi dạt dào xúc cảm, nghĩ rằng có bao nhiêu tình thương yêu gói ghém trong những cử chỉ nhỏ nhặt đơn sơ đó.

Chú thích:

(1) Đi ra ngoài! Đi ra ngoài!

(2) Đi ra ngoài! Đi ra ngoài! Điều đó nhất định rồi. Người ta đâu có thể đi ra trong. (Ý Jacques muốn nói chữ au dehors dùng dư).

(3) « Cu-lê-ra» =choléra: bệnh thổ ta.