← Quay lại trang sách

Chương 6

CỨ NHƯ VẬY LẦN DÒ TỪNG BƯỚC MÀ mỗi năm mỗi trôi qua, tôi lớn dần lên, mua cây bút máy đầu tiên, mặc cái áo len đầu tiên, mang đôi giầy đầu tiên, viết bức thư tình đầu tiên, tôi học hết ban Trung-học, tôi học thêm học lên, như con diều nương theo làn gió tôi cứ đi thêm, vượt nữa. Có Bác tôi đó chong mắt theo dõi từng bước đi tới của tôi, tốn hao bao nhiêu cũng vui lòng chịu như người làm vườn cứ ra công tưới nước cho thân cây mọc lên lên mãi, đâm lá nảy chồi. Qua lớp Trung-học, tôi đi trọ học ở xa quanh năm chỉ tới dịp Hè mới trở về nhà ba tháng. Bác dự vào cuộc sống của tôi ít mật thiết hơn những ngày thơ ấu bởi tôi đã lớn và bởi ba tháng Hè thoăn thoắt qua mau. Tôi trọ học ở đâu, Bác cũng lần mò đi thăm, có khi thì giao nhiệm vụ đó cho Bác gái, thành ra vì tôi mà hai Bác đi khắp đó đây: Qui-nhơn, Huế, Hà-nội... Rồi khi tôi trưởng thành thì hai bác lại lò dò đi thăm ở Nha-trang, Sài-gòn, Đà-lạt... Những lời khuyên dạy của Bác không còn thường xuyên như hồi trẻ thơ nữa. Hồi đó, gặp dịp nào Bác cũng không quên kèm theo một bài học:

— Hồi nãy ông Chức Đầm cầm cái tách trà kề lên miệng uống và cái dĩa tách dính theo. Nửa chừng cái dĩa rớt ra, may tao lẹ tay hứng được. Đó, tự hậu phải nhớ, trước khi cầm tách lên thì phải nắm xoay cho nó rời khỏi dĩa đã. Bởi vì nước trà có chất nhựa làm dính.

— Ông Phó Năm mới bị ăn cắp lừa lấy cái áo dài cẩm-châu. Tao dặn chừng, bây giờ ăn cắp nó mưu mô lắm. Chẳng hạn nó thấy tao đi một chân với ông Cửu Hai ở đâu lối Bầu ông Chì. Thấy tao không cầm dù, nó đi thẳng lên nhà nói: “Thầy đi chơi với ông Cửu Hai, quên cầm dù theo. Thầy sai tôi chạy lên lấy cái dù đem xuống cho Thầy. Thầy ngồi đợi ở ngang Bầu ông Chì”. Mầy tin thiệt, chạy lấy dù đưa cho nó, thế là nó cầm đi trớt. Vợ ông Phó An-hải cũng bị lừa kiểu đó, mở tủ lấy áo dài gói đưa cho thằng ăn cắp.

— Coi chừng! Cái chai dầu để lỏng chỏng giữa ghế kiểu mày thì trước sau gì cũng bị mèo làm ngã bể. Phàm để vật gì cũng phải ngó trước ngó sau, ngó trên ngó dưới.

— Cái bào mượn của người ta, làm xong phải trả liền. Bữa sau cần nữa thì mượn lại. Đừng làm như ông xã Xu. Mượn của tao cái áo xa-tanh bông để đi họ đám cưới rồi về không chịu trả. Khi tao cần, đòi về, mở ra thì thấy gián chuột cắn lủng từng lỗ lừng lỗ bằng khu chén khu tô.

Người mẫu mực của sự chu đáo cẩn thận đó đã một lần làm trò cười cho chúng tôi. Độ ấy chúng tôi đã về thành phố và Bác từ nhà quê ra thăm như thường lệ. Buổi tối Bác sai người làm kê giường ra hiên sau để nằm cho mát và thằng con tôi quấn quít chạy theo ngủ với ông. Bữa đó nhằm kỳ khu vực của tôi tắt điện.

Đang khuya tôi chợt nghe tiếng lào xào và tiếp theo là tiếng gõ cửa. Thắp đèn mở cửa ra coi chuyện gì thì thấy Bác đứng ngơ ngác:

— Ăn trộm bay ơi! Ăn trộm lấy mất cái mền rồi! Nó còn cắt cái túi áo tao.

Tôi nhìn xuống vạt áo của Bác và thấy một bên túi đã bị kẻ trộm cắt cụt mất.

— Tao bỏ bảy ngàn trong túi áo, gài kim băng cẩn thận. Thằng ăn trộm này khôn. Tao biết cái mẹo của nó. Nó kéo cái mền phía tao, tao lại tưởng là thằng Em kéo. (“Em” là tên thằng con tôi, gọi ở nhà). Nghe có bàn tay rọ rạy nơi bụng tao, tao lại tưởng là tay thằng Em ngủ say rờ bụng ôm tao. Lần này tao thua trí thằng ăn trộm.

Tôi nhìn cái vạt áo cụt hết một bên lòi bụng mà không thể nhịn cười được. Tôi nói:

— Đêm sau, nhớ lấy cái bẫy chuột, loại bẫy kẹp đó, đặt ở chỗ túi áo. Thằng ăn trộm quen tay thò vào và cái bẫy kẹp một cái cho thấy tổ nó.

Những khôn ngoan thực tế ở đời, mỗi mỗi Bác đều dạy bảo căn dặn. Bác không đề cập đến một triết lý cao siêu nào, không thích nói về giáo lý đạo Phật đạo Lão. Trái lại trong câu chuyện thường dùng những câu trích trong Minh-tâm bửu giám.

Cha tôi tính mơ mộng lý tưởng hơn. Hễ rảnh công việc là đọc sách đọc báo, gởi mua năm Tiếng Dân, Phụ-nữ tân-văn, Khoa-học và hễ có ai đi Sài-gòn là nhờ mua những sách của Hồ biểu Chánh, của nhà in Tín-đức thư-xã. Ông thích thảo luận về những mục “ Tiếng dân kêu”, về những bài xã luận của ông Huỳnh thúc Kháng. Có lần tôi thấy ông xuýt xoa cầm tờ Phụ-nữ tân văn thuật vụ mười ba liệt sĩ Việt-nam Quốc-dân- đảng lên đoạn đầu đài ở Yên-bái, có in ảnh đủ mười ba vị, vụ ông Bửu Đình bị đổi sang họ mẹ là họ Tạ. Ông đọc truyện Kiều, tra Hán Việt từ điển và thưởng thức cuốn Đường-thi cổ xúy. Bên cạnh sự mơ mộng sách vở đó, bên cạnh sự đam mê đàn hát, ông còn thích câu cá và bắn chim. Nhất là bắn chim. Tôi ít thấy một người nào vào cỡ tuổi ông lại có niềm đam mê mãnh liệt như vậy. Ấy thế mà có một hôm tôi bắn nhằm một con chim đang tha mồi, tôi đang bâng khuâng hối hận thì ông nói:

— Tao có đọc trong một cuốn sách nào lâu ngày quên mất tên, có câu thơ này

Khuyến quân mạc xạ tam xuân điểu

Tử tại sào trung vọng mẫu qui

nghĩa là:

Khuyên anh đừng có bắn những con chim về mùa xuân, bởi vì chim con nằm trong ổ đợi mẹ về.

Câu thơ đó càng làm tôi bâng khuâng hối hận thêm nên tôi quên không kiểm soát lại xem cha tôi có kiêng kỵ bắn chim trong ba tháng mùa xuân không. Bác tôi thì coi những trò câu cá bắn chim là chuyện trẻ con, những lý luận dài dòng xoay quanh các vấn đề nêu trên sách bảo là chuyện không thực tế. Tính Bác tích cực và thực tế, thích làm việc, thấy việc là làm, làm tức khắc không chịu để dây dưa, làm cả việc của người khác coi như việc của mình vậy. Ngày tôi học ở ngoài Tỉnh, có mấy tháng tôi ở trọ nhà bà Án Vĩnh. Bà là chỗ quen biết cũ của Bác nhưng tínhh tình khắc bạc, miệng rầy la chèn chẹt cả ngày nên tôi không ưa. Một hôm bà kiểm lại số bánh ngọt để trong thẩu thấy có dấu tích của sự ăn vụng. Tra hỏi lũ đầy tớ trai gái không người nào nhận, bà lùa tất cả xuống đứng ở xa-lông, lên lầu kêu tôi xuống bắt nhập bọn luôn. Bà tra hỏi lại một lần nữa. Vẫn không ai chịu. Bà nói:

— Được rồi. Nhà tao có thờ ma xó. Tao phát cho mỗi đứa một cây tăm dài đều nhau. Hễ đứa nào ăn vụng thì cây tăm của nó tự nhiên dài thêm ra.

Bà phát cho mỗi người một cây tăm, kể cả tôi. Kế đó, bà đứng dậy chắp tay lâm râm khấn vái.

Tôi nhìn cây tăm mình cầm, nhìn lũ đầy tớ đứng thành vòng. Con Xinh bế em, chị Sao nấu bếp, thằng Kinh sai vặt, anh Ngò, — đứng cao gần tới cây đèn huyền đăng treo ở trần nhà, — dọn vườn và lau xe. Tôi tự nhiên thấy phẫn nộ. Tôi ở trọ trả tiền sòng phẳng, thỉnh thoảng Bác còn đem biếu gà thiến, nếp tượng... Tôi không phải... Tôi liền ném chiếc tăm xuống đất, bỏ đi ra cửa, đi thật nhanh như chạy, đi thẳng xuống nhà trọ thằng Phước. Phản ứng của tôi bất ngờ quá, bà Án không kịp đối phó. Sau đó tôi được biết là cuộc điều tra vẫn tiến hành và kết quả là cái tăm của anh Ngò bị cụt mất một đoạn. Đích thị là anh ăn vụng nên anh sợ nó dài ra, vội bẻ bớt. Anh la oan, khóc ồ ồ. Đối với tôi là đứa phản loạn, bà tuyên bố sẽ mét với Bác tôi. Điều này tôi không sợ vì lần nào Bác ra thăm, tôi cũng bị bà mét đủ điều, nào là buổi chiều không lau bóng đèn, nào là bàn học để lộn xộn, nào là đi tắm bỏ quên xà-bông... vân vân..., có cả những điều bà tạo ra. Tôi không hiểu sao người lớn có thể nói láo một cách ngon lành như vậy, nói láo không vì lợi, không vì sợ mà cũng không vì ghét nữa. Bởi lẽ tôi bằng tuổi cháu nội bà, mặt mũi không bẩn thỉu mà tínhh tình thì hiền lành nhút nhát. Phản ứng ném cây tăm là phản ứng đầu tiên và chót hết của tôi. Tôi có ấn tượng không tốt về những bà vợ ông quan già và xấu xí từ đó. Vậy thì việc Bác tôi coi chuyên nhà của bà Ấn như chuyện nhà của mình hễ gặp là làm, điều đó tôi không bằng lòng. Gặp ngày giỗ ông Án, Bác tôi đứng ở bàn thờ sửa lại cái cỗ bồng, cắt cái tim nến, gọi người mang bình trà. Dù rằng bà Án cũng có đứng cạnh đó, cũng sửa sang sắp xếp những đĩa đồ cúng bày trên ghế, miệng nói xoen xoét như đang đứng mua bán ngoài chợ, tôi vẫn thấy rằng công việc không đáng cho Bác tôi làm. Bác khuyên tôi « đừng đứng lõ con mắt ra ngó » hoặc «phải tay liền miệng, miệng liền tay», tôi đồng ý, nhưng còn tùy trường hợp. Sau này tôi đọc trong một cuốn Ấu-học do ai biếu Bác và Bác rất quí, có truyện thằng nhỏ táy máy bạ cái gì cũng mó tay vào, mó vào máy móc khiến máy. hư, mó vào súng khiến súng nổ suýt gây tai nạn. Bài văn kết luận: Thấy thì hay, chớ lấy tay mà rờ. Tôi khoái chí đọc câu ấy thật to thật nhiều lần, thâm tâm cảm thấy hả dạ vì đã trả thù được Bác. Xét cho cùng, trường hợp nào cũng có hai lối giải quyết tương phản nhau. Khen hay chê, tán thành hay phản đối nhiều khi không có biên giới phân biệt. Riêng Bác thì thường bị ảnh hưởng của người khác.

Tôi nhớ hồi bảy tám tuổi có lần tôi đi theo Bác ghé tạt vào một xưởng lò rèn. Bà chủ chạy ra coi chó, niềm nở mời vô nhà. Bác ngồi ở bàn và tôi ngó quanh quất những câu liễn, những bộ bàn thờ. Bà chủ sắp đĩa tách để rót trà trong khi Bác hỏi thăm sức khỏe. Chợt tôi thấy một đứa con gái chừng trạc tuổi tôi ở từ nhà sau nhẹ nhàng đi lên. Nó bước chậm rãi, mặt cúi nhìn xuống đất, hướng về phía Bác. Khi lại gần còn cách một thước, nó chắp hai tay trước trán rồi quỳ xuống lạy hai lạy. Sau đó nó vái hai vái rồi lặng lẽ bước vào nhà trong. Bác bỡ ngỡ nhìn theo rồi hỏi bà chủ:

— Con nhỏ của chị phải không?

— Dạ. Con út đó.

— Sao chị khéo tập quá vậy? Con nhỏ lễ phép...

— Dạ...

Người đàn bà sung sướng, không biết nên nói gì cho thành câu.

Khi cáo từ ra về, tôi biết là sắp có sự phiền cho mình. Quả không sai. Bác khen con nhỏ chào hỏi phải phép quá, hồi giờ chưa thấy ai khéo dạy con như bà chủ lò rèn. Rồi Bác quay lại tôi:

— Đó, mày phải bắt chước.

Tôi bậm miệng tự nhủ thầm: Không đời nào. Tôi không ưa một sự lạy lục khúm núm như vậy. Nó có một vẻ gì dối trá ngụy tạo và tôi nghĩ rằng bà chủ đã học cách chắp tay cung kính đó ở nơi chùa làng và ý hẳn bà hãnh diện đã dạy con lặp lại được một sự khúm núm tuyệt đối như vậy.

Tôi ghét con nhỏ ngay từ khi nhìn nó nghiêm trang cung kính như một bà cụ. Giá nó không nhẹ nhàng rút lui ra nhà sau mà lại đứng cạnh tôi thì tôi sẵn sàng lén véo cho nó một cái thật đau xem nó có biết la lên không.