Chương 7
NGÀY KHÁNG CHIẾN, BÁC BỊ XẾP VÀO thành phần địa chủ, lúa má thu về không được bao nhiêu mà còn bị lắm nỗi khó khăn. Luôn luôn có việc thưa báo với Nông-hội, đám ruộng này giảm tô 25 phần trăm, đám ruộng kia giảm 22, đám ruộng nọ phải đong lúa giống. Bác không còn nhanh nhẹn trong lề lối giải quyết nữa. Bác không còn cái thú nằm dài trên bộ ván gõ, bỏ bàn toán lách cách tính số lúa bán đi số lúa còn lại. Không còn ngồi cắt từng rẻo giấy thật thẳng để dán những tờ bạc rách. Tôi và vợ tôi chia nhau cáng đáng những công việc giúp Bác: tính thuế, cân lúa nộp thuế, giải quyết với tá điền, khai báo hoa lợi. Tôi nhớ có hôm Bác đặt lên ghế một mâm cúng rất đỗi sơ sài. Bác không mặc áo dài đội khăn mà cứ để nguyên bộ bà ba vải trang đầm đen. Bác thắp hương khấn nho nhỏ. Một lát tôi nghe tiếng xì mũi rồi tiếng Bác bệu bạo to hơn:
— Ngày nào cháu còn đủ khả năng thì còn nhớ ngày quải của Chú. Chú không có con cái... Chừng nào hết khả năng thì...
Bác im bặt. Tôi quay nhìn thì thấy mặt Bác lã chã nước mắt.
Lần đầu tiên tôi thấy Bác tôi khóc! Từ trước tới nay luôn luôn Bác là sức mạnh, là sự làm việc không biết mỏi, là sự tin tưởng không biết nản. Bác đẫm thấp người, mập mạp và mặt mũi phương phi. Tinh thần cũng khỏe mạnh như thể xác, tôi chưa thấy mấy khi Bác buồn, không hề nghe Bác than chán đời, nhất thiết không nghe Bác nói đến chữ tuyệt vọng. Bác vui sống một cách đơn giản, như con chim vừa hát vừa tìm mồi, như cây mít cây bàng vừa hút nhựa sống trong đất vừa ra lá đơm hoa. Xung quanh Bác cái gì cũng sạch sẽ, cũ tươm tất, cũng ngăn nắp. Bác khai chiến thường xuyên với con nhện, với con gián, với bụi, với rác, bất kể là giữa trưa hay nửa khuya chợt dậy. Không có một sự đam mê lệch lạc nào, không nghiện thuốc, không nghiện trà, không nghiện rượu. Sự tiết dục đó, Bác đòi hỏi cả nơi những người xung quanh. Nạn nhân trực tiếp là chú tôi. Ngày chú còn ở với Bác, Bác cấm chú hút thuốc lá nhưng càng cấm chú càng hút nhiều hơn và, — điều này thật quá sức tưởng tượng, chú còn tập cho tôi hút nữa. Có lẽ để tôi khỏi về mét với Bác là chú chuyên môn hút lén. Hễ đang hút mà nghe tiếng guốc của Bác là chú nhanh tắt điếu thuốc liền. Nhiều khi điếu thuốc đã tắt nhưng bụm khói thuốc vẫn còn đầy nghẹt trong miệng chưa kịp nhả ra, chú cứ lúng ta lúng túng, Bác hỏi gì cũng cứ ngậm miệng, rờ cái này kiếm cái kia như người mất trí.
Thuốc lá thì hầu hết người lao động ai cũng nghiện, nghiện từ hồi mười ba, mười bốn tuổi. Bắt đầu là những điếu thuốc cha sai đi mòi trong bếp lửa. Phải bập luôn miệng cho điếu thuốc khỏi tắt và người ta quen lần như thế với khói thuốc. Song song với thuốc lá, chú còn ghiền đánh bạc nữa. Đêm đêm đợi cho Bác đóng cửa ngủ, chú lén mở cửa ngõ đi đánh xì-dác, xì-tố, các-tê. Lên mười tuổi tôi hay theo ngủ chung với chú nên nhiều hôm chú dắt tôi theo luôn, có bữa ván bài đang hồi sát phạt, bỗng cửa xịch mở, Bác hiện ra giữa khung cửa. Chú sửng sốt mở to mắt nhìn lên như con khỉ bị rắn thôi miên rồi líu ríu đứng dậy. Tôi bước theo sau như một cái đuôi.
Bác không chấp nhận sự ăn chơi đam mê, đồng thời cũng không đòi hỏi được chìu chuộng. Tôi nhớ Bác có tật hay ở trần, nhiều khi ngủ quên bị lạnh sinh ho. Đáng lẽ phải mặc áo cho ấm rồi uống một viên thuốc ho như mọi người vào trường hợp đó, nhưng đằng này không, tôi thấy Bác cứ ở trần và cứ ho. Ho một lát thì nỗi giận chửi lên:
— Uở! Tổ cha mày! Sao cứ ho hoài vậy?
Tôi không nín cười được vì lối chữa ho kỳ quặc đó, Nhưng rồi vài ngày cũng hết bệnh.
Con người có tâm hồn lành mạnh đó, hôm nay bị xuống tinh thần. Tôi an ủi Bác:
— Cuộc Cách-mạng vô-sản nhắm giải phóng người bần cố nông, triệt hạ giai cấp địa chủ. Nhưng Chính-phủ đâu để cho Bác chết đói. Mọi người sẽ phải làm việc theo khả năng của mình, Bác già thì Bác sẽ lãnh một công tác nhẹ, chẳng hạn cho gà ăn ở một nông trại. Nhưng đó là nói chí cùng, chứ còn có bọn cháu đây, cháu làm nuôi Bác được mà.
Hai Bác tìm an ủi nơi lũ con của tôi. Đứa nào cũng thương ông thương bà, mỗi một lời là thưa ông thưa bà, xưng con lễ phép. Bác chơi với lũ nhỏ, lại dắt chúng đi thẩn thơ trong vườn, dắt ra cái bến để nhìn xuống dòng sông. Y như là dắt tôi hai mươi năm trước.
Ngày tổng động viên nhân tài vật lực, Bác bị đặt mức hai triệu hai trăm ngàn đồng. Đem nạp ruộng, Ủy-ban không nhận, bắt nạp tiền mặt và vàng. Bác về bỏ ăn, chỉ uống nước cháo cầm hơi. Tôi lại phủ dụ vừa lo vận động với Ủy-ban xét lại. Một buổi tối Bác khóc với tôi:
— Thôi, Bác giao cả gia sản cho cháu, tính liệu thế nào miễn Bác được yên thân, đừng ai kêu lên kêu xuống. Công Bác nuôi dưỡng gầỵ dựng cho cháu, ngày nay nhờ cháu…
Nước mắt lã chã rơi trên mặt bàn, Bác lấy ngón tay lau rồi bôi lên vai áo.
Vụ tổng động viên vừa tạm yên thì tiếp đến vụ thuế nông nghiệp. Lúa trong lẫm mỗi mùa lên không còn đầy ắp như xưa trong khi mức thuế từ ba tấn nhảy lên mười một tấn. Tôi đã phòng xa hạn chế sự chi tiêu, độn bắp và khoai thay một phần gạo, khóa chặt lẫm lúa không cho bán ra thế mà hôm chở đi nạp thiếu hơn bốn tấn. Lại phải xoay xở chạy Đông chạy Tây, bao nhiêu tư trang của vợ tôi, bao nhiêu cái gì bán được chúng tôi đều không tiếc. Mùa thuế đó nhiều nhà địa chủ bị bắt, đưa đi trại tập trung vì thiếu thuế. Tôi cảm thấy sung sướng được trả đôi phần món nợ hiếu thảo cho hai Bác khi nhìn hai Bác nợ nần không vướng, lao lý không mắc. Lời tục nói rằng « Nhà nghèo mới biết con hiếu». Tôi đã lo rằng nhà Bác giàu, mình làm con cháu biết, biểu lộ lòng Hiếu ra sao thì may thay thời cuộc đã khéo xếp đặt để cho tôi có dịp trả Hiếu phần nào.
Sau ngày đình chiến cuộc sống địa chủ có phần dễ dãi. Lúc bấy giờ chúng tôi trở về thành phố và Bác cùng Bác gái lại chia nhau cứ vài tháng từ nhà quê ra thăm lũ nhỏ. Bây giờ Bác đã già sinh ra tật nặng tai nên lũ nhỏ muốn nói chuyện hay kê miệng bên tai mà hét. Do tật nặng tai mà nhiều khi hỏi chuyện một đằng Bác trả lời một nẻo. Tôi hỏi:
— Mùa này lúa má có tốt không Bác?
Bác chậm rãi trả lời:
— Má con Bốn là bà Thí ở An-thổ đó.
Lũ nhỏ khoái chí cười rộ lên rồi đứa thì nhảy lại leo ngồi lên đùi vạch áo rờ bụng, đứa thì đếm xem ông có mấy chục sợi râu. Thằng Đức hỏi:
— Sao cái bụng của ông to vậy ông?
Bác chưa trả lời thì con Ngân rờ đầu hỏi:
— Sao ông cạo cái đầu vậy ông? Không sợ lạnh sao?
Bác trả lời:
— Có bận áo thì mắc mớ gì lạnh bụng?
Đại khái cứ những chuyện vu vơ như vậy mà ông cháu cười cả ngày.
Quen tật từ những ngày kháng chiến, đi đâu Bác cũng mặc áo bà ba. Tôi nói:
— Ở thành phố Bác nên mặc cái áo dài cho nó dễ coi. Áo dài Bác còn nhiều mà.
— Thiếu gì. Năm sáu cái.
— Vậy mà sao Bác không mặc?
— Nực nội. Bận áo cụt cho gọn.
— Tại mình nghĩ vậy chớ có gì mà nực? Áo dài chỉ hơn áo cụt có hai miếng vải trên đầu gối. Còn mặc áo dài có gì mà không gọn? Đi dạo phố, đi coi hát chớ đâu phải đi múa võ?
Bác nể tôi, nghe lời vài lần rồi sau đó vẫn chứng nào tật ấy, đi đâu cũng một bộ bà ba.
Mùa Đông năm đó, Bác gái đau bệnh bị bại một bên mình, tôi đưa đi bác sĩ chữa hơn sáu tháng không thuyên giảm. Bác đành về quê theo một ông thầy thuốc Bắc chuyên môn. Cứ ba bốn tháng Bác trai lại ra thăm chúng tôi rồi dắt lũ nhỏ về thăm Bà. Ông thầy thuốc Bắc chữa hết cách mà không bớt phải mở sách thuốc ra kê cứu những phương thang lạ. Chẳng biết ông rơi vào phương thang nào đó đòi hỏi một con xuyên sơn giáp, một cân xuyên đại ô đầu và năm lượng hồng hải cáp. Bác nói:
— Xuyên sơn giáp là con trút. Có mướn người đi bắt được một con trút rồi. Còn hai vị thuốc kia, đi hỏi tiệm thuốc Bắc nào cũng không có. Trong này tỉnh lớn để đi hỏi coi có tiệm nào có không.
Bác đi hỏi cùng khắp các tiệm, có mua được xuyên đại ô đầu, còn hồng hải cáp thì tuyệt nhiên không ai biết là món gì. Ngày nào cũng nhắc đi nhắc lại xuyên đại ô đầu và hồng hải cáp khiến lũ trẻ nhỏ thuộc lòng, cứ lâu lâu lại hỏi.
— Ông ơi! Ông kiếm được xuyên đại ở đâu chưa?
— Ông ơi! Hồng hải cáp là cái gì vậy ông?
Bác nghiêm trang trả lời:
— Tao cũng không biết. Chắc là cái vỏ sò vỏ mực gì đó. Hỏi tiệm nào cũng không có.
Thằng Đức nói:
— Xuyên đại ô đầu là con vịt ô đầu đó chớ gì.
— Đâu phải. Con vịt ô đầu là con vịt ô đầu.
Lũ nhỏ sung sướng cười lên. Mỗi lần kể tên các món ăn ngon, Bác hay nói đến thứ vịt đực béo, đầu có đoạn lông đen nháy mà Bác gọi là con vịt ô đầu. Lũ nhỏ nói đùa chơi mà Bác tưởng thiệt cứ lo dài dòng giải thích. Xuyên đại ô đầu và hồng hải cáp cuối cùng biến thành cái đầu đề cho lũ nhỏ đùa ông. Hết chuyện nói chơi thì lôi xuyên đại ô đầu và hồng hải cáp ra.
Sau ba năm chạy chữa thường xuyên vẫn không khỏi, Bác không còn tin ở ông thầy thuốc Bắc nào nữa. Bây giờ thì chỉ còn uống thuốc bổ để giữ sức. Bác ngồi khóc với tôi:
— Tao sợ bác gái mầy chết trước tao.
Rồi bỗng một buổi sáng Bác cầm cái bình trà rót vào tách cho Bác gái uống, cái bình trà rơi xuống đất bể tan. Tay trái Bác bị tê cứng. Rồi chân trái cũng tê theo. Lật đật chở đi bác sĩ ngay. Bác sĩ giải thích bệnh chứng cho tôi nghe và tôi biết là không có phương gì cứu chữa lại được. Tuy vậy tôi cũng lo đưa đi chạy điện, tôi nhờ ông thầy châm cứu, tôi tìm mua cho được cao hổ cốt. Thuốc men liên miên, tay có thể giở lên bỏ xuống được nhưng chân thì bước thấp bước cao. Tôi nài hai Bác vào ở chung với chúng tôi nhưng hai Bác không chịu.
— Còn nhà cửa vườn ruộng, bỏ đi sao được. Thôi, cứ vài tháng thì vô ở chơi mươi ngày. Ở ngoài đó cũng có thầy có thuốc.
Tôi biết cố nài cũng vô ích. Làm sao mà bỏ cho được ngôi nhà tự mình ra công xây cất, khu vườn tự mình trông coi trồng trọt, những miếng ruộng tự mình mua mãi lần hồi. Tâm hồn của mình, quá khứ của mình in vết trên từng viên đá viên gạch; trên từng bụi chuối bờ tre. Con chim áp muỗi màu lông xanh xám đó, mỗi buổi chạng vạng tới đứng trên đầu nhà thả từng tràng tiếng hát, mình nghe từ hồi năm mười tuổi cho đến nay hơn bảy mươi tuổi trên đầu, quen thuộc với mình quá nở nào sống xa nó được?
Tháng Ba nồng nực buổi sáng màu vàng, tiếng con chim tu hú từ chòm cây rậm bên doi cát Phú-mỹ vượt sông vượt bãi lảnh lót đưa sang. Những con bò mặt dài ngây ngô đi hết bầy này tiếp theo bầy khác trên con đường xóm trước nhà, tiếng móng va chạm lốp đốp xuống mặt đường sỏi đá, mùi khai nồng của phân và nước tiểu và rơm rạ còn vương vãi trong không khí. Có thể nào sống xa những tiếng động quen thuộc, những mùi thơm mùi hôi quen thuộc đó chăng? Cuộc sống thân ái êm đềm đến nỗi người ta biết tiếng ho dữ dội giữa khuya đó là của ai, tiếng guốc gõ lộp cộp chậm rãi trên mặt đường vào mờ đất là của ai, tiếng gàu thiếc va chạm vào bờ giếng công cộng vào chặng bốn giờ chiều là của ai. Sự lặp lại đều đặn đến nỗi người ta có tâm trạng mong nhớ đợi chờ khi nó chưa kịp xảy ra. Làm sao sống xa được những người láng giềng? Ông hương Sáu dáng cao cao hay quấn cái khăn lông trùm kín đầu những buổi chiều tháng Giêng trời động gió lạnh thổi ngăn ngắt, ngồi chồm hổm ở đầu hố, tay cầm một hòn đá gõ vào một hòn đá khác vừa nói chuyện làng chuyện nước. Ông câu Yên chuyên môn lặp lại điều người khác vừa nói, bàn tay mặt luôn luôn đặt sau lưng, thọc vào lưng quần. Bà Xửng răng rụng hết khiến cái hàm dô ra, chuyện nhà ai cũng biết, nói hoài không biết mệt, con kêu về ăn cơm, ăn xong lại te tái chạy sang nói tiếp. Không, tôi biết Bác không thể nào sống xa cái không khí sinh hoạt quen thuộc êm đềm đó. Nó xoa dịu thần kinh của con người, nó buông thả cho bắp thịt nghỉ ngơi, nó vỗ về an ủi như người mẹ ôm con vào lòng.
Đầu mùa Thu năm Tỵ, một buổi tối Bác đi tiểu chợt ngã xuống. Vực vào nhà. Thầy thuốc cấp cứu, đổ thuốc liên miên nhưng Bác cứ kêu mệt. Đến mờ sáng Bác tắt thở. Một người em ở nhà quê vội đáp ô-tô ra kể lại như vậy. Tôi thu dọn về gấp nhưng vừa có tin bộ đội hành quân, hai bên dàn trận giữa chặng đường đi. Hai ngày cuộc hành quân chấm dứt tôi lên xe với đứa con nhỏ và người em rể.