← Quay lại trang sách

Chương 8

XE CHÚNG TÔI RA KHỎI THÀNH PHỐ HỒI bốn giờ rưỡi sáng, giờ mở ấp chiến lược. Trời hãy còn tối đen. Những chiếc xe hàng nối đuôi nhau cứ cách vài trăm thước một chiếc, ánh đèn quét từng luồng ánh sáng. Mặt đường nhựa đen buồn bã kéo dài. Con tôi gục trên nệm xe ngủ tiếp giấc ngủ dở dang. Người em rể chong mắt nhìn ra hông xe. Tâm hồn tôi thấy trống vắng mỏi mệt, tôi nhắm mắt lại để nhìn về con đường quá khứ của mình, có thể tin rằng Bác tôi đã mất rồi không? Đã giã từ tôi vĩnh viễn, bây giờ đã nằm dưới lòng đất, suốt đời tôi không còn gặp mặt? Bác tôi mới đó mà! Khuôn mặt phương phi phúc hậu, ở trần cùi cũi giữa mùa Đông giá rét tạt từng gàu nước lên mình, đội gió lướt mưa trong đêm để kiểm soát một cái chuồng gà sợ quên chưa gài cửa. Bác tôi mới hiện diện khắp đó, trên cánh đồng nắng dãi chang chang che cái dù đen coi chừng thợ gặt, mặc quần đùi đội nón nỉ đứng dưới tàng cây chỉ cho thợ rong tre, đội khăn xếp mặc áo xa-tanh để đi họ đám cưới. Mới thoáng đó mà, như mới chừng mươi, mười lăm năm trở lại, Bác vạm vỡ bụng chưa mập ra, Bác xây xong nhà, đi ra Huế mua về tám câu liễn xa cừ, một bức hoành phi to cẩn ba chữ Hòa Vi Quý, một bức trướng lớn thêu con công treo đối diện với bức trướng cành mai bụi cúc. Bác lục đục quanh năm tu bổ trang hoàng nhà cửa, đặt bộ tam sơn, ngũ sự lư nến thật to thay vào bộ lư đồng nhỏ, tìm mua đôi lọ độc bình cao to bằng cái chóe, đặt ba bộ bàn thờ toàn bằng gỗ trắc chạm trổ con sóc đậu cành nho có chân nai quì bóng lộn. Bác mới đó mà, tươi tỉnh xinh trai, ba mươi tám tuổi, chăng pháo đốt mừng Giao-thừa rồi cắt hồng Tàu, táo Tàu, xá lị phân phát cho tôi. Bác mới cầm tay tôi dắt đi thơ thẩn...

— Bác ơi, cái xe gì sơn màu xanh?

— Xe cam-nhông...

—Chắc tại da nó màu xanh như da trái cam...

Nước mắt chầm chậm ướt đầm khóe mắt chảy dài xuống má, tôi lấy tay áo chặm lên không buồn nhích mình rút mùi-xoa lau. Bao nhiêu quá khứ vừa dựng lên đó bây giờ chỉ là ảo ảnh, có còn ai biết, có còn ai nhớ? Ngày nào còn Bác, có hai người nhớ, bây giờ Bác mất còn lại mình tôi, tôi giữ cho đến bao giờ, bao giờ?

Buổi sáng trắng phờ phạc.

Thôn xóm ở hai bên đường không có màu sắc thanh bình. Có lẽ tại những bóng nghĩa quân mặc đồng phục đen đi canh về, rải rác bước từng đoàn vài ba người trên những con đường ruộng. Những ngôi nhà mái xám đang ngủ sau một cái sân trống, cạnh những bụi chuối cây cau gây nơi tôi một cảm giác buồn vắng cam phận hơn là êm đềm như tôi vẫn thường nghĩ, ngày trước. Mũi kim tóc độ cứ quanh quẩn lên xuống 40 - 45 cây số, tôi bảo bác tài:

— Mình bứt ra khỏi đoàn ô-tô hàng này đi. Trời sáng rồi, đâu có sợ đường xấu. Mấy cái xe Jeep nhà binh đều vọt lên hết.

Bác tài chậm rãi lắc đầu:

— Dạ, không nên. Đi theo mấy «cha nội» đó nguy hiểm. Thầy không để ý thấy em cứ bám theo sau mấy cái xe hàng sao? Hễ tụi nó bò thì em bò, tụi nó nghỉ thì em nghỉ. Gặp công-voa thì để cho mấy chả chạy thật xa.

Luật đi đường thời chiến! Phải lắng tai nghe từng thứ luật lệ lưu hành.

— Báo chí có đăng tin xe đò bị giật mìn.

— Mấy khi! Có thỏa ước ngầm sao đó, có nộp thuế nộp má đàng hoàng.

Câu chuyện không thoát khỏi đầu đề chiến tranh. Chiến tranh dằng dai đến nỗi tôi biết rằng người đối thoại với tôi thế nào cũng sẽ thốt lên một câu đại ý bảo chiến tranh kéo dài thái quá. Chiến tranh bao trùm lên mọi sinh hoạt nên dù câu chuyện bắt đầu như thế nào, cuối cùng nó cũng sẽ dẫn đến ngõ cụt đó. Người dân thế giới dù thờ ơ với thời cuộc đến mức nào, dù cho lạc hậu chậm tiến đến mức nào, đến hôm nay cũng bắt buộc phải biết đến hai chữ Việt-Nam và súng đạn, máu, lửa thăng hoa xung quanh hai chữ đó.

— Thầy tính, trong hai mươi năm chiến tranh từ hồi Nhật thả bom Đông-dương đến nay, em cất nhà năm lần, dọn nhà trên dưới hai mươi lần............

(kiểm duyệt bỏ 20 dòng)

Bác tài thích nói chuyện là một triệu chứng tốt. Bảo đảm rằng bác sẽ không ngủ gục trên tay lái. Cho nêu dù tâm hồn rời rã tơi bời, tôi vẫn chốc chốc nói vài ba câu để canh chừng bác.

— Đố thầy biết cô Phùng-Há đi Pháp để làm gì không?... Người ta đồn cô mang mấy va-li kim cương hột xoàn. Chuyện mang hột xoàn kim cương là chuyện nhỏ, kể chi?

Anh quay lại tôi để tăng thêm vẻ long trọng cho điều anh sắp nói:

—... Mang giấy khai tử của ông Ngô-đình Nhu. Mang qua đưa cho bà Nhu.

— Chi vậy?

— Để bà Nhu hưởng gia tài. Gia tài biết mấy chục mấy trăm tỉ gởi bên nhà băng Thụy-sĩ.

Xe chạy đến Tuy-hoà. Những kỷ niệm với bạn bè gây niềm bùi ngùi. Xe rẽ vào đường Trần hưng Đạo đổ xăng. Những hiệu buôn tạp hóa mang nét vắng vẻ nhẫn nại của lọai tĩnh vật. Hiệu dự trữ thuốc Tây lòe loẹt như một cô gái quê làm đỏm, cố gắng tận lực để hợp thời. Con gái đi học có con trai chõ miệng đi cạnh tán tỉnh như ở mọi thành phố tôi đã đi qua. Xe Jeep nhà binh vụt tới bỏ rơi một tràng tiếng cười hắc hắc của người đàn bà mặc áo thun đỏ.

Trên chặng đường Hòa-đa — Mỹ-phú, tôi mường tượng thấy dáng tôi đi trong những ngày kháng chiến. Những con đường làng hun hút bờ tre đổ ra con đường quốc lộ, những lạch nước im mát bóng cây dứa chạy luồn dưới một khoảng cầu hẹp, cảnh đó không hề thay đổi. Con đường lượn quanh đồi núi. Nhiều mảng đồi bị xe ủi tan một phía, đất đỏ trơ trọi rực lên dưới ánh mặt trời. Những bụi găng bụi quít, móc ó, hồng quân mọc lúp xúp. Sao lắm cây có gai nhọn thế này? Đất không đủ màu mỡ cho cây nên lá phải giản lược đến cùng, mang hình gai để đỡ tốn nhựa nuôi. Hình ảnh của miền Trung khô cằn đó.

Xe vượt qua đèo Tam-giang. Dưới mắt là cánh đồng Chí-đức, là đập Chợ Hôm, là thôn Hà-yến, là ga Chí-thạnh, Tôi thấy lại hình ảnh Bác tôi rõ ràng như thật bởi ở mỗi không gian mắt tôi đậu lại, như mới ngày nào tôi với Bác cùng đi. Ở khắp cánh đồng rộng màu mạ xanh này, rải rác chỗ nào cũng có ruộng của Bác. Miếng năm giạ, miếng bảy giạ, miếng ruộng gò, miếng úng thủy, nhà ông Cửu Tiến, trại anh Bí anh Nhứt, nhà ông chức Đầm... nơi những nhà tá điền thâm giao, trong suốt hai ba mươi năm trời Bác đã ngồi uống trà, cầm cái quạt phe phẩy hay ngồi nghe tiếng hạo lúa trong làn gió lồng lộng buổi chiều.

Tôi lại thấy nóng nơi khóe mắt. Còn bốn cây số nữa. Còn ba cây số nữa. Rồi xe rẽ vào con đường thôn, xe qua cái cầu ván. Xe dừng lại trước cổng.

Tôi cơ hồ không đi nổi một bước. Quang cảnh buồn như vậy sao? Cái nhà thấp như vậy? Cái sân hẹp như vậy? Cây cối không xanh nổi như tôi đã thấy? Thì ra cũng ngôi nhà đó, cũng cái sân kia nhưng tôi đã luôn luôn nhìn nó với đôi mắt trìu mến thương yêu của ngày thơ ấu.

Bà con lối xóm chạy đến đã choán hết một phần tâm trí tôi. Tôi bước lên nhà trên. Bàn thờ của Bác kia. Chỉ còn vỏn vẹn có bấy nhiêu đó là sở hữu của Bác. Vải sô trắng viết những chữ Nho đại tự. Cái nghi và cái khậu đều may bằng vải sô trên vẽ mấy cành hoa và những hàng chữ bằng mực Tàu. Bốn dải của cái nghi cũng bằng vải trên viết bốn chữ Xuân Hạ Thu Đông. Y như bao nhiêu năm trước người ta đã viết. Sự thô sơ làm xúc động tôi. Ông khuôn trưởng nói:

— Cụ mất vào lúc chiến dịch mở, đường xe kẹt không vô Tuy-hòa mua sắm được. Hôm hạ huyệt tình hình lại găng, thanh niên dân vệ tập trung về trụ sở Xã hết. Đi đưa đám mà sự máy bay họ bắn lầm...

Không, tôi không đòi hỏi một đám tang linh đình với nhiều nghi biểu. Bát âm nhã nhạc, kèn trống đãi đằng làm lạc hướng niềm đau của con cháu người ra đi. Tất cả phải đổ dồn trí não vào phần hình thức, giận dỗi mè nheo, lo âu bận rộn mà không để trọn tâm hồn nghĩ về nỗi mất mát của mình. Tôi không đòi hỏi những tấm nghi tấm trướng bọc nhung và thêu chỉ màu. Những tấm sô gai kia châm nhức vào tim tôi. Nó là tượng trưng cho sự thương khó, nhắc nhở đến sự thương khó. Những tấm trướng đẹp và sang sẽ làm tôi bằng lòng dễ dàng. Tôi sẽ được an ổn và điều đó sẽ không nhắc tôi nhớ đến Bác xót xa bằng. Đằng này không, vải sô kia không ngớt vò xé tâm hồn tôi. Sự đạm bạc của một đời người hiện rõ trên màu vải, trên mặt vải, trên những nét chữ, nét vẽ thô thiển vội vàng. Tô điểm để làm gì? Phải nhìn vào sự-thật của cuộc sống và cõi chết.

Cái khăn bàn trải không ngay. Đĩa tách có bợn nước trà vàng. Đúng là thiếu đôi mắt và bàn tay của Bác. Có Bác thì không có hạt bụi, không có sự xô lệch, không có vật nào nằm một chỗ bất thường.

Tôi đưa mắt nhìn quanh một vòng. Cái bàn toán vẫn treo ở khung cửa sổ cạnh cuốn lịch Tàu. Cái dĩa nghiên, viên mực xạ, cắm bút, những cuốn sổ ghi chép. Không thể lầm lẫn với cuốn sổ ghi chép của ai hết, bởi lẽ đó là những cuốn vở cũ, ngày xưa là của tôi ngày nay là của con tôi, Bác đem ra viết chữ Nho đè lên trên chữ bút thép. Lâu lâu có dịp tôi gởi những tập vở một trăm trang về nhưng Bác đều cất giữ xếp thành chồng để đó. Cái kính lúp đặt đè lên quyển lịch.

Quê hương của tôi đây, tuổi nhỏ của tôi đây! Nhưng sao mà xa cách hững hờ như tôi là người khách lạ? Lỗi của tôi hết. Tôi ra đi mười năm không hề dừng bước ghé thăm một ngày. Con chim bay về tổ cũ và đang đứng ngẩn ngơ nhìn cái tổ ngày nhỏ của nó. Bộ ván không thay đổi vị trí. Từ ngày tôi lên năm, đêm đêm nằm ngủ trên bộ ván gõ này. Ngày đó nó rộng mông mênh tha hồ mà lăn, lăn không tới góc. Gõ lên nước láng đen như mun soi thấy bóng mình. Bây giờ thì trông nó nhỏ lại, thấp xuống và nước láng không có vẻ huy hoàng như xưa.

Ba bộ bàn thờ uy nghiêm rực rỡ trong ngày Tết của mới năm nào, Bác đội khăn mặc áo dài lầm rầm khấn khứa mời ông bà về hưởng Xuân, sáng chiều thay nước pha trà như có thật ông bà ngồi đó. Bác dặn:

— Ba ngày Tết phải chong đèn luôn và không được để cho hương lụn.

Tôi và chú Ba dẫu chạy chơi đâu cũng nhớ chốc chốc chạy về đốt cắm hương mới. Đêm lại Bác thắp đèn một khoanh hương vòng và khi nửa khuya thức giấc tôi nhìn lên bàn thờ, nhìn ngọn đèn sáng và chấm đỏ ở đầu ngọn hương, thấy cuộc đời ấm cúng êm đềm. Bây giờ thì chắc không còn ai để lo tạo một không khí êm đềm như xưa nữa. Bác gái khóc:

— Sắp đặt va-li rồi. Đợi hôm sau đi vô thăm tụi bay. Ông nói nhớ lũ nhỏ. Đã mua bánh mè xửng, bánh tráng để đem theo, có mười ký đường cát trắng. Thế rồi tối đó xảy ra cớ sự như vậy. Ông nói: Bà mà nằm xuống rồi thì tôi bỏ nhà vô ở trong đó với lũ nó. Tôi không còn màng dinh cơ sự sản nữa.

Tôi nuốt nước mắt cảm thấm nỗi trìu mến cuối cùng mà Bác đã dành cho chúng tôi. Tôi sung sướng được coi là nơi nương tựa, là nơi tin cậy. Dẫu sao Bác cũng không có cảm tưởng là mình bị cô đơn và điều đó an ủi tâm hồn tôi, làm nóng một nơi nào đó trong mắl tôi, làm thắt lại trái tim tôi. Có vô được với chúng tôi hay chưa, hay mới chỉ sắp đặt dự tínhh mà cơ thể đã vội băng hoại rã rời, điều đó không quan hệ. Quan hệ là khi linh hồn phải rời bỏ xác thân lơ lửng đi về một cõi nào khác Bác còn giữ trọn niềm yêu mến tràn trề đối với « lũ nhỏ», niềm an thỏa biết mình sẽ được đón tiếp vui mừng bởi «lũ nhỏ». Như con suối kia xăm xăm mang khối nước của mình cho chảy tràn lan xuống khắp ruộng đồng, tin chắc là lá cỏ rễ cây sẽ vui mừng đón làn nước mát.

Lạy bàn thờ Bác. Biết nói gì đây? Lạnh lẽo, hắt hiu, trống vắng. Linh hồn của Bác có còn vất vưởng trong ngôi nhà mà Bác đã thương yêu tận tình? Chữ Trung Tín viết trên mảnh vải đỏ. Hoa lai-ơn, hoa huệ không có trong lọ mà chỉ có bông điệp, bông trang. Trọn vẹn là nếp sống quê mùa. Chiến tranh kéo lùi cuộc sống chậm lại ba mươi năm. Những tấm liễn sô gai, cái cỗ bồng chuối, những cành hoa không-phải-mua làm tôi rưng rưng nhớ đến những hình ảnh thuộc ba mươi năm trước.

Chúng tôi đi xuống mộ Bác. Đi, về, làm việc, hy vọng và chết, những người trong xóm đều dùng con đường này. Cuộc đời thật hẹp. Mười năm rồi từ ngày đình chiến tôi mới trở về. Con đường mòn mỏi. Nhiều khuôn mặt lạ. Những đứa con nít ngày ra đi bây giờ lưng gài lựu đạn. Những đứa con nít bây giờ đã nghiêm trang bế con, vuốt ve con. Sự sống luân lưu kế tục trong một yên ổn rung rinh. Những ngôi nhà mới cất làm tôi bỡ ngỡ nhưng các khuôn mặt hiện ra nơi cửa không làm tôi lầm. Chỉ có già đi, đen đủi thêm, nhăn nheo thêm và dáng người thấp lại. Có lẽ một phần tại những căn nhà đều thấp.

Mộ Bác đắp đất vun lên. Giá tôi về kịp tôi sẽ chọn đỉnh núi cao hơn là để Bác nằm nơi đây. Ngày nhỏ, cứ vào hăm sáu tháng Chạp theo Bác đi tảo mộ, tôi cứ đi lượn trên đầu núi nơi đó trống gió có hương thơm mát của lá, có những bụi cây vô danh nở hoa tím hoa vàng, có rải rác những con chim màu lông lẫn với màu đất sỏi. Hăm sáu tháng Chạp, chợ phiên Hôm đã nồng nàn hương vị của ngày Tết. Tiếng pháo tre nổ đì đùng làm mạch máu tôi như nhảy tung lên. Những đứa trẻ con theo mẹ đi chợ về tay cầm bó pháo thăng thiên và đồ chơi. Đó là con chút chít gốm hai khuôn đất sét sơn đó dính vào nhau bởi một lớp giấy xếp khiến khi kéo ra đẩy vào thì phát ra âm thanh chút chít. Đó là con gà cồ bằng đất sơn đỏ, thổi vào bụng thì kêu ò ó o. Mứt gừng, mứt bí, mứt chanh, nho táo chà là, cốm bột bánh in... cái Tết không mê hoặc bằng món ăn mà bằng niềm rộn ràng của sự vui chơi sung túc. Đứng ở đầu núi tôi thấy mình nhỏ lại và mọi vật cũng nhỏ lại. Con đường ô-tô lượn vòng rất xa và những chiếc ô-tô chạy chậm chạp khiêm tốn như những con bọ rùa. Bác thắp bó nhang cắm ở đầu ngôi mộ, lâm râm khấn vái. Cha tôi cầm rựa phát những bụi rậm. Chú Ba là một người tá điền cầm cuốc rẫy. Tôi sục sạo vào các bụi cây tìm hái trái ổi trái găng. Hết mộ này đến mộ khác, đi từ triền núi này sang triền núi khác. Đi lại trên sống lưng hòn núi, nhìn gió thổi làm ngã rạp những bụi cỏ, ở dưới tầm mắt mình là thôn xóm nhà cửa ruộng lúa soi mía nằm khép nép..., tâm hồn mình thấy nhẹ nhàng thoải mái. Tôi chắc Bác thích khung cảnh khoáng đãng của đầu núi này hơn là phải nằm dưới chân núi thấp kia. Dưới kia quá gần với cuộc sống nhân gian mà khi không cần đến nó thì tôi tưởng chẳng còn ai trìu mến làm gì.

Lạy vong linh Bác. Những bụi cây, mô đất, con dế con trùn sẽ là bạn láng giềng của Bác thay thế con cháu họ hàng. Cháu bất hiếu không hầu hạ được bên giường, không tự mắt nhìn khuôn mặt Bác lần chót.

Tôi phát phó công việc, đặt kiểu xây mộ, nhờ người gọi thợ vừa tiếp đãi bà con. Ba giờ chiều phải lên xe, phải dự trù xe chạy trong bốn giờ để về tới thành phố trước khi cổng ấp chiến lược đóng. Giã từ Bác gái, giã từ họ hàng, giã từ ngôi nhà mến thương, giã từ những ngày thơ ấu! Xe chầm chậm lăn đi.

«Bác ơi!» tôi muốn kêu to lên. Trên đoạn đường này Bác đi đi lại lại bao lần? Mới ngày nào Bác cầm cái roi nhỏ bằng hai cộng tranh đi tìm tôi đang bắt chuồn chuồn ở dãy dây bìm trước nhà ông Chánh. Rồi cũng mới gần đây Bác cầm cái roi nhỏ hơn thế đi tìm thằng con tôi. cũng mê đi bắt chuồn chuồn ở dãy cây táo cạnh chợ chiều. Bác ơi! Bác ơi! Tôi kêu lên những tiếng thiết tha tuyệt vọng trong tâm hồn tôi và tôi để cho nước mắt tha hồ chảy lăn trên má.

Những ngày tiếp theo, hình ảnh của Bác lảng vảng không thôi nơi tâm hồn tôi. Bác ra đi đã tạo một khoảng trống lớn. Tôi cảm thấy cô đơn trơ trọi như một thân cây đứng giữa đầu non, chịu sức thổi tàn bạo phũ phàng của gió từ mọi phương ùa tới. Bởi vì dù đã già yếu Bác vẫn còn là chỗ tựa an ổn cho chúng tôi. Ruộng nương nhà cửa đó Bác còn dư sáng suốt để sắp đặt cai quản. Mái nhà không thể dột, hàng rào không thể ngã, ruộng nương không thể bỏ hoang. Không thể có việc gì mà Bác không lo chu đáo, lo hết sức mình, xây đắp bảo vệ đến cùng bằng mọi cách. Bây giờ Bác ngã xuống như thân cây cổ thụ đã ngã xuống rồi và những thân cây nhỏ khác bấy lâu vẫn nép dưới tàng che chở của nó phải ráng mà chịu sức thổi của gió, sức nóng của mặt trời, sức xối xả của mưa. Tôi có nhiệm vụ phải thay Bác và đó không phải là một bổn phận nhẹ. Niềm cô đơn còn rộng lớn khi tôi bị bắt buộc phải nhận thấy cái chóng vánh của cuộc sống, cái vô nghĩa của đời người. Bao nhiêu triết lý đã đề cập đến sự thực này, cố gắng xoa dịu niềm đau như miếng thuốc dán làm êm những vết thương nhức nhối. Riêng tôi thì vì ngẫu nhiên mà những dòng chữ của Lobsang Rampa đã an ủi tôi đôi chút, những dòng chữ khi ông đề cập đến cái chết của anh ông:

«Anh Paljor ở nơi cái xác thân của anh không được lâu. Cái xác thân đó [1] yếu quá để thích ứng nổi với đời sống khó khăn mà chúng tôi phải nhận chịu. Trước khi lên bảy tuổi, anh giã từ chúng tôi để về nước Nghìn Ngôi Đền. Tôi cũng nhớ rõ cách người ta mang thân xác anh đi để đập nát nó và hiến cho kên kên theo tập tục xứ tôi.»

Rampa giảng rằng ở Tây-tạng không có tục chôn xác chết bởi lẽ đá cứng không đào huyệt được và nơi nào có đất thì lớp đất đó quá mỏng. Cũng không có tục hỏa thiêu bởi vì không có đủ củi để đốt. Gỗ củi phải mua từ Ấn-độ. Khi có người chết, người la mang xác đến một mô đất hoang vu đã định sẵn, xung quanh có những tảng đá lớn đứng bao vây. Xác được đặt trên một phiến đá rộng. Người ta cột tay chân xác chết vào bốn cây cọc. Người chủ lễ lấy dao mổ bụng. Tay chân và đầu được chặt lìa ra khỏi thân, Kên kên từng bầy tụ họp lại đứng vây quanh trên các tảng đá. Mổ bụng xong, người chủ lễ thò tay moi lấy quả tim ra, trao cho con kên kên đầu đàn. Nó loạng choạng bước tới nhận. Một con khác tiến tới nhận buồng gan. Rồi tới quả thận và đùm ruột được trao cho các kên kên thủ lãnh khác. Thịt và da được cắt ra thành từng mảnh dài và chia cho cả đoàn kên kên còn lại. Trong một thời gian kỷ lục, cả thân xác chỉ còn lại đống xương. Người ta dùng búa đập cho nát đống xương đó và bầy chim lại thu dọn tiếp.

Người Tây-tạng không coi thân xác là thiêng liêng. Nó không có giá trị hơn một bộ quần áo cũ. Với họ, không có sự Chết. Cũng như buổi chiều về chúng ta trút bỏ bộ áo quần đi làm, trong giấc ngủ linh hồn trút bỏ thân xác. Khi thân xác hư hao mòn mỏi thì linh hồn trút bỏ luôn. Chết là Tái Sinh. Chết là sống một cuộc đời khác. Con người, — hay là linh hồn con người, — thì vĩnh cửu. Thân xác chỉ là một thứ quần áo tạm thời.

Ở một đoạn sau, Lobsang Rampa viết về tục lệ tắm trẻ ở Tây-tạng. Đại khái ông kể rằng người ta bế đứa trẻ sơ sinh đến một dòng suối. Bà nội cởi áo đứa nhỏ, dìm nó xuống nước, chỉ để hở đầu. Bố, mẹ và họ hàng nó đứng vây quanh. Trên cao độ hơn sáu ngàn thước, nước lạnh như cắt, thân đứa nhỏ đó thẫm lại rồi đổi sang màu xanh.

Nó hết khóc nổi, hết phản kháng nổi. Nó im như chết. Bà nội kéo nó ra khỏi nước, lau khô, mặc áo. Nếu nó còn sống là Trời Phật muốn cho nó sống. Nếu nó chết tức là nó đã tránh được bao nhiêu đau khổ của cuộc đời, sau này.

Quan niệm sống chết thật đơn giản như đi vào và đi ra. Tôi có được đọc qua Trang-tử Huệ- tử, tôi có đọc một ít kinh Phật nhưng khi Bác giã từ chúng tôi thì chính những dòng những trầm tĩnh của Lobsang Rampa đến đúng lúc để khuyên giải tôi đôi phần.

Chú thích:

Nguyên tác cuốn sách của Lobsang Rampa viết bằng tiếng Anh nhan đề là The third Eye. Rampa là nhà giải phẫu, bác sĩ y-khoa, cử-nhân văn-chương và phi hành gia. Ông thuộc dòng quý phái Tây-tạng, tu chứng ---> đến bậc Lama hồi mới mười sáu tuổi, được khai huệ nhãn hồi tám tuổi.

Đoạn văn này Jacques Legris dịch: Paljor n'habita pas son corps longtemps. Il était trop faible pour s'adapter à la vie difficile qui nous était imposée. «Il», theo đúng cú pháp, là Paljor. Nhưng tôi cố ý dịch là « cái xác thân của Paijor» Rampa là Bậc Thầy, có thể có nhiều ngần ngại không cho tôi hiểu một tư tưởng đích thực của Rampa gửi trong chữ « II » đó bởi vì tôi không có dịp đọc được chính bản viết bằng tiếng Anh. Mà cho dù có đọc được thì sự ngăn ngại cũng không nhờ đó mà dễ vượt qua vì Rampa có thú thật là ông không hề được học « những bài học tiếng Anh chân chính » mà chỉ được học ở trại tù binh Nhật-bản, nhờ những bệnh nhân Anh Mỹ cũng bị cầm tù như ông dạy giùm. Còn việc viết ra tiếng Anh thì ông đã phải «mò mẫm».