← Quay lại trang sách

NGÀY THỨ BẢY Các vệ tinh quay nhanh-I

Cô nghĩ chúng tôi tìm thấy gì trong túi áo khoác của cô Synnøve Jensen quá cố?

Lúc đó là 7 giờ 5 phút ngày thứ Sáu, 16 tháng Năm 1969. Tôi ngủ chưa đầy năm tiếng, và sau đó nhảy vào ô tô không kịp ăn sáng. Beate rõ ràng ngái ngủ vừa đặt cả bộ sưu tập các loại bánh mì nhỏ lên bàn ở 104-8 phố Erling Skjalgsson. Patricia ngồi đối diện với tôi, cầm tách cà phê đen bốc hơi nghi ngút, mặc mỗi cái áo choàng tắm, theo như tôi thấy. Tuy vậy, cô nhìn tôi bằng cặp mắt trong sáng và lanh lợi như mọi khi và trả lời bằng giọng sắc sảo như thường lệ.

- Một bức thư rất giống với bức cuối cùng anh nhận qua bưu điện. Tôi phải thừa nhận là không thể nhớ chính xác từng từ, nhưng tôi sẽ rất vui được biết.

Tôi rút bức thư và gần như ném nó qua bàn, hoài nghi. Thông điệp ngắn ngủi, nhưng giống với bức thư cuối cùng tôi đã nhận là điều không thể phủ nhận.

Ở đây, bây giờ.

Thế là em gái của tên độc tài cũng đã chết.

Có thể còn nhiều kẻ tiếp theo nữa, nếu anh không sớm phát hiện ra ai trong chúng tôi đang làm điều sai trái…

Patricia đọc nguyên bản trong chớp mắt và sau đó ngước nhìn tôi lần nữa.

- Tôi chỉ có một câu hỏi, nhưng là câu rất quan trọng. Phong bì đựng bức thư này có dấu niêm phong không?

- Phong bì có niêm phong, vì còn hai bức thư nữa, đề cùng địa chỉ.

Tôi thực sự không hiểu tầm quan trọng của câu hỏi. Nhưng rõ ràng Patricia hiểu, vì cô gật đầu hài lòng và còn thốt một tiếng “Chà!” khe khẽ.

- Và… - Cả hai chúng tôi bất chợt nói cùng một lúc. Tôi ngừng và để cô nói nốt.

- Và có lẽ có một vạch nhỏ ở mặt sau phong bì đã niêm phong? Lần này không phải màu xanh lá, nhưng chắc là màu xanh da trời.

- Màu đỏ, - tôi nói với cô, dù sao cũng tặng cô cái gật đầu cảm kích.

Patricia lắc đầu, rõ là bực bội.

- Mong rằng vì tùy ý. Màu đỏ không thông thường bằng màu xanh da trời, nhưng cũng đủ là loại bút mực phổ biến có thể tìm thấy trong bất cứ văn phòng nào hoặc ở nhà mà không bị chú ý. Tôi phải nói rằng nó rất khớp với giả thuyết của tôi. Bây giờ chúng ta đã gần tới đó, vụ án sẽ sớm khép lại thôi.

Tôi gật đầu, hơi kính sợ, nhưng hơn hết thảy là hài lòng vì chúng tôi sắp kết thúc mọi thứ.

- Thực tế, tôi rất hy vọng có được một lời giải trong ngày hôm nay, hiển nhiên là đối với một số cái chết và sự kiện rõ ràng là không thể giải thích này. Nhưng để điều đó có thể xảy ra, anh phải thực hiện tất cả những gì có thể làm trong ngày hôm nay trong khi tôi ngủ, suy nghĩ, và nếu được thì mặc thêm một ít quần áo.

Tôi gật đầu và lấy cho mình một ổ bánh mì nhỏ. Nhìn đĩa đồ ăn, tôi mới nhớ ra mình đói biết chừng nào.

- Tôi sẽ làm. Tôi cho rằng tôi nên nói chuyện với các thực khách sống sót trước khi chúng ta gặp lại nhau? Tôi nghĩ sẽ tập hợp tất cả bọn họ tại Lâu đài Schelderup để giữ họ trong quá trình tiến triển của chúng ta, không để có thể xảy ra chuyện gì bất ưng.

Patricia gật đầu và uống cạn tách cà phê. Bất chợt, trông cô như thể đã thức dậy quá sớm.

- Một ý tưởng rất hay. Tôi đã định gợi ý như thế. Có lẽ rất thú vị xem ai nói gì khi họ gặp lại nhau. Hãy cho tôi biết ngay lập tức nếu có thêm các bức thư xuất hiện bất ngờ. Lúc này, còn việc gì nữa tôi có thể giúp anh trước khi anh đi?

Tôi hiểu lời gợi ý và ăn vội hết nửa ổ bánh đầu tiên rồi vội vã chộp nốt nửa kia mang theo.

- Còn một việc tôi đang băn khoăn. Nếu hung thủ vẫn còn ở đó lúc tôi gõ cửa và rõ ràng Synnøve Jensen vẫn còn sống, tại sao kẻ giết người không bắn cô ấy phát nữa? Ban đầu, tôi ngỡ cô ấy bị bắn ngay trước khi tôi vào, nhưng lúc đó tôi phải nghe thấy tiếng pằng chứ.

Ngay tức khắc, Patricia sôi nổi hẳn lên. Cô ngả người qua bàn và nhìn tôi nghiêm nghị đến mức tôi cảm thấy giống một lời buộc tội. Giọng cô phấn khởi và hăng hái khác thường lúc nói.

- Tôi sẽ giải thích cho anh ngay bây giờ. Vì kẻ bắn Synnøve Jensen là một người đặc biệt lạnh lùng, thông minh và ích kỷ. Chuyện này rất thương tâm. Kế hoạch là biến vụ giết người trông như một vụ tự sát, bằng cách để lại khẩu súng cạnh cái xác. Tuy vậy xảy ra một việc bất ngờ: phát súng không nhằm trúng đích, nên Synnøve Jensen bị để lại chết dần trên chiếc sofa. Kẻ sát nhân có thể rút ngắn nỗi khổ sở của cô ấy, nhưng nếu thế kế hoạch tự tử sẽ không ăn thua. Thay vào đó, kẻ giết người chọn cách đứng lại và kiên nhẫn đợi cho đến khi nạn nhân chết vì viên đạn đầu tiên. Có lẽ chúng ta không bao giờ biết việc này mất bao lâu. Tuy nhiên, thứ chúng ta biết là dự tính tàn nhẫn này sẽ thành công hoàn hảo nếu anh không phản ứng với cuộc gọi của Synnøve Jensen nhanh đến thế, nên anh đã tới trong lúc cô ấy vẫn còn sống.

Dẫu thiếu ngủ, gương mặt Patricia tỉnh táo và bận rộn. Cô vội vàng nói tiếp.

- Theo dõi một người chết đau đớn như thế thực sự là một hành động ti tiện. Anh nghĩ mà xem, càng bất nhân hơn khi đó là một phụ nữ trẻ, mang thai bị giết ngay trong nhà mình.

Tôi đồng tình với cô và để nửa ổ bánh chưa ăn trên tay xuống.

- Như cô nói, đây là ví dụ điển hình cho sự hiểm ác của con người.

Patricia xua bàn tay, bực tức.

- Khi tôi nói thế không chỉ về vụ này, rất có thể không phải cùng một thủ phạm. Nhưng tôi không thể quyết định cái nào là xấu hơn: mọi thứ tôi nghĩ đang rối tung. Nó thực sự là một trường hợp phi lý.

Giọng cô gần như cáu giận và tôi chợt nhận thấy gai ốc nổi lên trên đôi cánh tay trần của cô. Bất giác tôi cúi xuống và đặt bàn tay lên chúng. Sự tiếp xúc với hơi ấm cơ thể hình như được việc. Các nốt gai ốc biến mất và giọng Patricia thân thiện hơn bình thường lúc cô nói tiếp.

- Vấn đề quan trọng liên quan đến kẻ giết người đêm qua là những phút trước khi nổ súng đã xảy ra chuyện gì, khi kẻ sát nhân vào nhà trước rồi chĩa súng vào Synnøve Jensen? Sự thật là vòng đeo khóa của Magdalon Schelderup vẫn bị mất, nhưng chìa khóa nhà Synnøve Jensen không có trên vòng. Lúc này tôi chỉ có thể nghĩ tới một giải thích hợp lý nhưng lẽ tất nhiên có thể còn vài cái nữa.

- Vậy… - Tôi bắt đầu.

- Vậy, mặc dù đây là cách rất thú vị để bắt đầu một thứ Sáu, lúc này cả hai chúng ta nên làm việc riêng rẽ trong vài giờ. Tôi nghĩ phân chia công việc tốt nhất là anh tiếp tục thu thập thông tin trong khi tôi làm việc với thứ chúng ta đã có. Nhưng cứ gọi ngay cho tôi nếu anh phát hiện ra bất cứ vấn đề gì trong ngày.

Tôi hiểu lời gợi ý, rút tay lại và đứng dậy.

II

Các tờ báo cuối cùng ra trước dịp cuối tuần đều thuận lợi, căn cứ theo tình hình chính trị. Hội nghị của Đảng Lao động đã kết thúc nhưng vẫn thống trị các tin tức, và tất cả các báo, ngoại trừ tờ lá cải Friheten, đều ca ngợi sự nhất trí của Đảng với việc gia hạn tư cách thành viên NATO của Na Uy. Nhưng mặt khác, báo chí tỏ ra chia rẽ trước triển vọng của Đảng Lao động trong cuộc tổng tuyển cử mùa thu và ý nghĩa khả dĩ của sự ủng hộ bất ngờ tại hội nghị toàn quốc đối với yêu cầu đưa phá thai vào Na Uy. Vụ giết người ở Sørum đêm qua không được đề cập trong bất kỳ tờ báo nào. Nhưng báo chí nghe phong thanh về vụ việc và tổng đài đã báo cáo về sự gia tăng số lượt hỏi han. Tôi đã viết một thông cáo báo chí năm dòng về cuộc điều tra đang diễn ra, tuyên bố rằng sẽ không có bình luận gì thêm.

Lúc 12 giờ 5 phút trưa, một cảnh sát chạy vào phòng tôi báo có một nhân chứng của sự việc đêm trước vừa tới. Anh ta cũng báo trước cho tôi đừng hy vọng quá nhiều.

Tôi hiểu ý anh ta ngay lúc nhìn thấy nhân chứng. Đó là một ông già gầy gò, tóc hoa râm, mặc áo khoác màu nâu xuềnh xoàng, mắt cứ nhìn xuống sàn lúc xoắn cái mũ vải trong tay. Lúc chúng tôi bắt tay nhau, bàn tay ông ta yếu ớt và run run.

- Tôi mong anh thứ lỗi cho tôi nếu tôi làm mất thời gian của anh, nhưng… tôi không cho rằng tôi có tin quan trọng cho anh. Nhưng anh thấy đấy, đêm qua tôi ở trên quả đồi đằng sau nhà cô Synnøve tội nghiệp và trông thấy một chiếc ô tô đỗ ở đó. Chính vợ tôi bảo tôi người ta thông báo trên đài rằng bất cứ ai ở gần đó phải báo cáo với cảnh sát ngay lập tức. Tôi nghĩ tôi là người duy nhất ở đó; tôi chắc chắn không nhìn thấy người nào khác. Nhưng quả thực tôi không có gì nhiều để nói, có lẽ tôi không nên tới đây.

Tôi cam đoan với nhân chứng là ông đã làm đúng khi đến đây. Tuy vậy, vài phút sau tôi cũng phải thừa nhận ông ta không quan tâm nhiều để nói thêm. Ông ta sống trên mảnh đất thuê gần đó và đang dắt chó ra ngoài trên quả đồi đằng sau nhà Synnøve Jensen. Nhân chứng đi qua ngôi nhà vào khoảng 11 giờ rưỡi và ngạc nhiên thấy một chiếc ô tô đỗ ở đó trong bóng tối. Ông ta ngỡ là cảnh sát hoặc những nhân vật quan trọng khác nên đã đi vòng hơn là đi quá gần chiếc xe.

Nhân chứng không trông thấy ai ở đó, và không thể cho biết các chi tiết như màu sắc hoặc nhãn hiệu của xe. Nói chung ông ta biết rất ít về xe cộ. Ông ta xin lỗi và giải thích rằng ông không chú ý vì thực tế là chưa bao giờ ông có khả năng sở hữu một chiếc ô tô. Chiếc xe ông ta trông thấy có một mui và nhiều bánh xe, nhưng ông không dám miêu tả chi tiết hơn.

Cuộc trò chuyện khiến tôi thất vọng, nhưng hình như nhân chứng còn khổ sở hơn. Rốt cuộc, ông ta ngồi vùi mặt vào hai bàn tay

- Sau bảy mươi hai năm làm lụng trên các cánh đồng, tôi chẳng có gì nhiều, lại phải chứng kiến cô hàng xóm tội nghiệp bị giết trong nhà cô ấy. Tôi ở gần đó và không giúp được gì. Thật khủng khiếp, có lẽ Chúa sẽ tha tội cho tôi, - ông già than vãn.

Tôi cố an ủi ông ta và hỏi han đôi chút về những người hàng xóm, nhưng cũng không thu được gì nhiều hơn. Cả ông và vợ đều biết Synnøve Jensen có một cuộc sống không dễ chịu. Bố Synnøve là một con sâu rượu, còn mẹ cô bị trầm cảm. Nhưng những người hàng xóm đã đủ các vấn đề của riêng họ rồi và không muốn can thiệp. Không ai nói một lời bất lợi cho Synnøve, nhưng cũng không người nào biết rõ về cô. Cô làm việc rất chăm chỉ và thực ra, trong những năm gần đây cô chỉ về nhà để ngủ.

Cuối cùng, tôi yêu cầu nhân chứng đợi vài phút và đi gọi điện cho Patricia từ phòng làm việc của tôi. Tôi nghĩ không còn thu thập được gì từ ông ta nữa, nhưng không thể để ông ấy đi cho đến khi tôi trao đổi xong với cô.

Rõ ràng lúc này Patricia đã thức giấc và chăm chú lắng nghe tin tức ngắn gọn, mới nhất của tôi.

- Tôi chỉ có một câu hỏi với nhân chứng, nhưng có thể rất quan trọng. Khi ông ấy đi qua chiếc ô tô, cửa phía lái xe có mở không?

Tôi không hiểu câu này có liên quan gì, nhưng vẫn đi ra và hỏi nhân chứng. Ông ta ngước nhìn tôi ngạc nhiên, nhưng hoạt bát lên trông thấy.

- Không, tôi tuyệt đối chắc chắn thế, tôi có thể thề. Tôi ắt phải nhận ra nếu cửa phía tài xế mở. Lúc đó tôi sẽ đến xem có chuyện gì xảy ra. Đó là điều chắc chắn!

Ông già đột nhiên vui lên, gần như tươi cười. Ông nhắc lại vài lần rằng chắc chắn cửa xe không mở, rồi sau đó hỏi nhanh là điều đó có quan trọng không. Tôi vẫn chưa hiểu vì sao nó có ý nghĩa, nhưng đáp lại rằng có lẽ nó rất quan trọng, và nồng nhiệt cảm ơn ông ta, nhân danh cá nhân và toàn thể lực lượng cảnh sát. Ông già bắt tay tôi rất hài lòng và hầu như bay ra khỏi phòng.

Cánh cửa sập lại đằng sau ông ta, nhưng nửa phút lại mở ra. Ông ta trở lại, đề nghị tôi cho một bản khai bằng văn bản rằng cửa xe đóng, nếu điều đó có ích cho cuộc điều tra. Tôi cam đoan với ông rằng khai bằng lời cũng đủ hiệu lực, nhưng sau này chúng tôi sẽ liên hệ với ông nếu cần lời khai bằng văn bản. Ông cười vui vẻ và hứa sẽ ở nhà và dậy sớm, cho đến khi vụ này giải quyết xong.

Thế là giữa mọi thứ kinh hoàng, tôi ngồi với nụ cười nhẹ trên môi sau khi nhân chứng đã ra khỏi đồn. Dù câu hỏi kỳ lạ của Patricia có ý nghĩa gì đi nữa, chắc chắn nó cứu rỗi cả ngày và sức khỏe tinh thần của một nhân chứng đầy thiện ý.

III

Tim tôi đập thình thịch lúc tới gặp viên cảnh sát gác đêm ở Lâu đài Schelderup vào khoảng giờ ăn trưa. Tuy vậy, báo cáo của anh ta không gây lo lắng gì. Anh ta thức tại chỗ suốt đêm và không có dấu hiệu của bất cứ người nào định vào hoặc ra khỏi tòa biệt thự. Khoảng 10 giờ rưỡi, lũ chó sủa inh ỏi trong vài phút, sau đó khoảng 1 giờ sáng lại sủa lần nữa. Dường như cả hai lần là hoàn toàn vô cớ và cả đêm trôi qua không có sự cố nào.

Sau đó, tôi gọi điện tới Lâu đài Schelderup, yêu cầu mọi người tập hợp vào lúc 3 giờ. Sandra Schelderup đồng ý ngay lập tức.

Tôi không sao liên lạc được với một trong tám thực khách còn lại bằng điện thoại. Tôi cảm thấy tim đập nhanh hơn khi điện thoại của Ingrid Schelderup reo hết lần này đến lần khác mà không có trả lời. Tuy nhiên, tôi sớm hiểu sự việc có thể xảy ra và gọi đến bệnh viện, họ thông báo bà ta được đưa đến vào sáng nay. Viên cảnh sát gác qua đêm ở bên ngoài đã lái xe đưa bà tới bệnh viện một giờ trước đó trong tình trạng rất không ổn. Khi trở lại đồn, anh ta kể với tôi đêm trước tâm trạng bà ta có vẻ khá vui, và cả đêm trôi qua không có sự cố gì. Nhưng đến buổi sáng, tin tức về cái chết của Synnøve Jensen đã ảnh hưởng đến bà mạnh không ngờ, khiến bà ta suy sụp lần nữa. Bà Ingrid Schelderup đã được truyền thuốc an thần khi được đưa tới bệnh viện và chắc sẽ ngủ tới đầu giờ tối. Thật khó mà tin nổi. Dù sao, từ những điều viên cảnh sát thuật lại, có thể loại trừ Ingrid Schelderup giết Synnøve Jensen đêm qua.

Những người khác liên lạc dễ dàng nhưng khó thăm dò. Ông bà Wendelboe ở nhà với nhau cả buổi tối, còn Herlofsen ở nhà một mình. Con trai và con dâu của ông có thể xác nhận ông ở nhà, vì họ uống cà phê tối cùng nhau khoảng 10 giờ, nhưng sau đó họ không chắc chắn ông không ra khỏi nhà.

Magdalena Schelderup tuyên bố đã ở nhà nhưng không ai xác nhận điều này. Bà ta rất lo lắng vì không có bằng chứng ngoại phạm cho một vụ án mạng nữa.

Về phần Fredrik Schelderup, anh ta được bạn gái đến thăm nhưng đã yêu cầu cô ta về vào khoảng 10 giờ rưỡi, vì anh ta cảm thấy không đủ sức. Từ đó trở đi cho đến sáng, không ai nhìn thấy anh ta ngoài “tủ rượu và cái giường”.

Mọi người đều bị ảnh hưởng vì vụ việc tiến triển và họ càng xáo động hơn bởi tin tức về cái chết của Synnøve Jensen. Tất cả bọn họ đều một mực phủ nhận không biết gì về chuyện này.

Khi đã gọi cho mọi người xong, tôi ngồi và suy nghĩ sẽ nói gì với họ. Một điều tôi sẽ không nhắc đến lúc này là sự tồn tại của các bức thư. Chúng có thể là một đường dẫn quan trọng, nhưng tôi vẫn chưa biết sẽ dẫn tới đâu. Hoặc kẻ sát nhân để lại thư trong túi cô, hoặc Synnøve Jensen chịu trách nhiệm về chúng, trong trường hợp đó cũng có thể chịu trách nhiệm về hai vụ án mạng đầu tiên.

Tôi không thể ép mình tin vào ý niệm kẻ giết người để lại các bức thư trong túi của Synnøve Jensen. Dường như hung thủ không thể làm việc đó trong khi cô vẫn còn sống. Khả năng này cũng bị ngăn trở khi báo cáo về dấu vân tay tới: các dấu tay duy nhất trên phong bì là của Synnøve Jensen.

Dường như nó khá khớp với giả thuyết Synnøve Jensen giết Magdalon và Leonard Schelderup. Nếu cô ta biết về bản di chúc, cô ta có thể có động cơ cho cả hai vụ án mạng. Một bản sao di chúc trong phong bì đề tên Synnøve Jensen, để trong cái hộp kim loại ở nhà cô ta và cô có chìa khóa. Vậy thì ai giết Synnøve Jensen là một câu hỏi còn nóng bỏng hơn nhiều.

IV

Có thể hiểu được, bảy vị khách ngồi vào chỗ thường lệ của họ quanh bàn tại Lâu đài Schelderup lúc 3 giờ quả thật rất rầu rĩ. Họ lắng nghe tôi tường thuật tình hình sau cái chết của Synnøve Jensen. Tôi chấm dứt bằng kết luận rằng cuộc điều tra đã có một số đột phá quan trọng, nhưng chưa có người nào bị bắt giữ và bị gọi là nghi phạm chính thức.

Tiếp theo tin tức mới nhất của tôi là im lặng. Tôi đã chuẩn bị nghe những lời chỉ trích kịch liệt nhằm vào tôi và cuộc điều tra của tôi. Đã sáu ngày trôi qua, kể từ lúc họ ngồi ở chính cái bàn này và chứng kiến cái chết của Magdalon Schelderup, và kẻ sát hại ông ta vẫn chưa bị bắt. Thêm vào đó, hai thực khách nữa đã bị bắn.

May mắn thay, dường như không ai trong số những người có mặt muốn đương đầu với tôi. Maria Irene mỉm cười hầu như không thể nhận thấy lúc mắt tôi gặp mắt cô. Những người khác không biểu thị phản ứng gì lúc tôi nhìn họ, nhưng tỏ rõ sự oán hận lẫn nhau ngày càng tăng. Herlofsen quắc mắt nhìn vợ chồng Wendelboe, còn bà Wendelboe trừng trừng nhìn lại. Thỉnh thoảng, cả ba người gửi những cái liếc xéo hằn học vào Magdalena Schelderup, còn bà ta hút thuốc nhiều hơn thường lệ, vẻ cay độc hiện rõ trên mặt. Sandra Schelderup hết nhìn bà em chồng Magdalena đến con chồng Fredrik, nhưng vẻ mặt bà chưa lần nào tỏ ra dễ chịu. Fredrik Schelderup nhấp từng ngụm vang trắng và tạm thời khá thản nhiên với mọi sự.

Tôi chú ý xem ai là người nói trước. Hơi bất ngờ, giọng nói khàn khàn của Magdalena cất lên đầu tiên. Lời biện hộ của bà ta rất gây gổ.

- Tất cả chúng tôi đều hiểu rõ rằng đây là một vụ quá ư khó nhằn. Nhưng khi những người bị giết là anh trai tôi và là hai trong bốn người thừa kế của ông, thì mọi lý do để cân nhắc là ai được lợi nhiều nhất từ việc này.

Thế là ồn ào, hỗn loạn quá sức tưởng tượng. Chỉ có hai người ngồi yên lặng với bộ mặt bí hiểm. Đó là hai người tôi mến nhất: Petter Johannes Wendelboe già cả và nàng Maria Irene Schelderup trẻ trung. Tất cả những người khác bỗng nhiên náo loạn. Sandra Schelderup hằm hè nói rằng bà ta không chịu nổi những lời bóng gió như thế, lúc nào bà và con gái cũng là những người duy nhất có thể chứng minh rằng họ không hề dính líu đến hai vụ án mạng gần nhất.

Magdalena Schelderup đập lại rằng bà không hề nhắc tới một cái tên nào, nhưng nhắc nhở mọi người rằng liên minh là một khả năng và không người nào có bằng chứng ngoại phạm với cái chết của Magdalon Schelderup. Rồi, trong phạm vi thích hợp, bà nói thêm rằng có những người vẫn nuôi dưỡng hận thù từ hồi chiến tranh. Mặt Herlofsen đỏ bừng và ông ta vạch ra rằng trong phòng có ba người như thế, và hỏi Magdalena định ám chỉ ai. Bà Wendelboe mọi khi thận trọng, nay cũng can thiệp vào, mắt đầy lệ, bà nói lẽ đương nhiên Magdalena định nói Herlofsen, nhưng chính bà ta chứ không phải ai, nên cảnh giác khi đào bới những tội lỗi cũ từ thời chiến. Sandra Schelderup lại hằm hè và cắm cảu nói rằng rất dễ thấy ai là người được lợi từ di chúc, nhưng ở vị trí thuận lợi để bắt đầu có lẽ là người được thừa hưởng một khoản lớn không hề xứng đáng và không có bằng chứng ngoại phạm cho bất cứ vụ nào.

Vào thời điểm đó, các sự việc sôi sục lan tới Fredrik Schelderup cho đến lúc này vẫn bình tĩnh. Anh ta gào lên rằng anh ta không thể coi là đáng kính nữa khi cản đường người khác tới vận may bằng cách giết chết để giành lấy.

Không khí trong phòng náo động vì tất cả quay sang chống lại Fredrik Schelderup khá kỳ quái sau cơn giận dữ của anh ta, không đếm xỉa đến thực tế là anh ta nhanh chóng lấy lại bình tĩnh và ngay sau đó cố xin lỗi. Herlofsen và bà Wendelboe ngoảnh mặt không nhìn nhau và lúc này chằm chằm nhìn Fredrik. Kể cả Petter Johannes Wendelboe cũng kín đáo nhìn Fredrik Schelderup. Tôi để ý với một thoáng ghen tuông rằng rốt cuộc, Maria Irene cũng rời mắt khỏi tôi và nhìn người anh khác mẹ. Magdalena Schelderup bập bập dữ dội điếu thuốc thứ ba và qua làn khói, phun ra một câu hỏi liệu một lời tuyên bố như thế có thể coi là lời thú tội không.

Với câu này, Fredrik Schelderup đã để rơi hoàn toàn cái mặt nạ kiềm chế và hơi say của mình. Anh ta gầm lên mình vô tội và đập cái ly xuống bàn, mạnh đến mức gãy chân ly, và nói thêm rằng anh ta là người duy nhất quanh bàn có thể bảo đảm là không giết cha mình.

Trong phút chốc, cả căn phòng lặng ngắt. Sáu cặp mắt độc địa dõi theo Fredrik Schelderup lúc anh ta rót rượu vào cái ly không chân và uống cạn. Rồi anh ta đập vỡ phần ly còn lại xuống bàn rất hung hăng, đứng dậy và hỏi bây giờ liệu anh ta có thể coi mình bị bắt giữ không.

Tôi đáp rằng cơn bột phát và thái độ của anh ta đã bị ghi nhớ. Tôi sẽ không bắt giữ anh ta, nhưng từ nay trở đi anh ta chỉ được di chuyển từ Bygdøy đến Gulleråsen nếu được tôi cho phép. Hiển nhiên đây là một hành động khiêu khích mới. Fredrik tiến tới, đứng ngay trước mặt tôi và rít lên:

- Tự anh cũng có thể thấy cảnh ngộ của tôi lúc này. Cha tôi và em trai tôi đã bị giết, còn tôi đang bị buộc tội giết họ, và có thể tin rằng tất cả mọi người trong phòng này cũng đang cố giết tôi. Vì thế ngày mai hoặc anh có thể bắt tôi hoặc để cho tôi đi Nam Mỹ. Bây giờ nhà tù hay Brazil là những nơi duy nhất tôi có thể cảm thấy an toàn, tránh khỏi những con quái vật này!

Tôi chưa kịp trả lời, Fredrik đã lao ra khỏi phòng và tòa nhà. Sáu cặp mắt lặng lẽ quan sát tôi lúc tôi để anh ta đi. Tôi ghi vào tập giấy ghi chú bằng những động tác thái quá, chứng tỏ không quên cách cư xử của anh ta.

Sandra Schelderup đã lấy lại phần lớn sự bình tĩnh, nhưng giọng nói của bà vẫn sắc như dao khi yêu cầu một cảnh sát tiếp tục bảo vệ bà và con gái cho đến khi có cuộc bắt giữ. Magdalena lặp lại yêu cầu này. Tôi đồng ý với cả hai ngay lập tức. Bộ mặt của Magdalena Schelderup khiến tôi liên tưởng đến một con cú già khi bà ta gật đầu cộc lốc. Bà ta bắt tay tôi thật nhanh lúc đi qua và rời tòa biệt thự, không buồn nhìn những người khác lấy một cái.

Bà Wendelboe ngả người và thì thầm gì đó vào tai Hans Herlofsen, ông ta gật đầu đáp lại. Tôi nhìn họ dò hỏi và hỏi có ai muốn được cảnh sát bảo vệ qua đêm nữa không. Bà Wendelboe nhìn chồng, ông ta lắc đầu. Và giống như một phản ứng đồng cảm kỳ lạ, Herlofsen cũng làm như thế. Cả ba người đứng dậy ra về.

Tôi theo họ ra tiền sảnh và hỏi bà Wendelboe đã nói gì với Hans Herlofsen. Bà khẳng định chỉ xin lỗi vì cơn nóng giận của mình. Herlofsen xác nhận điều này, nhưng đề nghị hơi xẵng nhắc lại lời bà nói thêm. Bà tái mặt, nhìn ông ta khinh miệt nhưng vẫn kể với tôi bà đã nói rằng: “Chắc là Fredrik hoặc Magdalena.” Herlofsen gật đầu xác nhận, nói rõ rằng ông cũng tin thế, và vội vã rời khỏi tòa nhà.

Tôi đứng trên bậc thềm một lát với ông bà Wendelboe. Tôi nhắc lại lời đề nghị cử cảnh sát bảo vệ, và ngay lập tức nhận được lời từ chối của Petter Johannes Wendelboe.

- Không, cảm ơn anh. Chiều nay hoặc tối nay, chúng tôi chắc chắn sẽ không ra ngoài. Nếu bất kỳ người nào khác quyết định đến thăm chúng tôi một chuyến bất ngờ, mà có thể như thế lắm, họ sẽ được đón chào nồng nhiệt.

Tôi nghĩ đã bắt gặp một thoáng cười trên mặt Petter Johannes Wendelboe lúc ông nói câu này. Tôi chợt nghĩ rằng không như những người khác, dường như ông thích thú tình huống đầy kịch tính này. Nhưng tôi không thể phân biệt được có phải vì thứ gì khác ngoài hồi tưởng lại một số náo động của thời chiến. Một lát sau, ông lại đeo chiếc mặt nạ cứng rắn thường lệ. Cả ông và vợ bắt tay tôi rồi sau đó rời đi, không nói thêm lời nào.

Tôi nấn ná ở lại tiền sảnh vài phút, nghĩ ngợi các sự việc vừa qua và điều tôi hy vọng và mong đợi có thể tình cờ xảy ra. Maria Irene đi gần như nhún nhảy xuống cầu thang, vừa mỉm nụ cười tinh quái vừa xin lỗi rằng thật đáng tiếc là hiện giờ, không khí ở Lâu đài Schelderup chẳng mấy tốt đẹp.

- Nhưng chúng tôi hy vọng rằng trong tương lai sẽ tốt hơn, khi toàn bộ cơn ác mộng này chấm dứt, - cô nói thêm với nụ cười rộng mở hơn. - Anh nghĩ là nó còn kéo dài không? - Cô thì thầm hỏi. Tôi đáp lại là tôi hy vọng và nghĩ trong vòng vài ngày nữa sẽ có một giải pháp.

Maria Irene gật đầu và ngước nhìn tôi dò hỏi, nhưng sau đó lại gật với vẻ thông cảm khi tôi chỉ nhìn cô hết sức nghiêm nghị. Tôi được tặng một cái ôm ngắn trước khi cô nhẹ bước trở lại cầu thang.

Tôi đứng đó, ngước nhìn trong vài giây sau khi cô mất hút. Rồi mình tôi đi ra, chìm vào một ngày tháng Năm.

Tôi rời Lâu đài Schelderup, cảm thấy vô cùng bất an. Sau cuộc họp mặt các vị khách còn lại trong bữa tối cuối cùng của Magdalon Schelderup, tôi hiểu rõ hơn lời Patricia miêu tả họ là những người vệ tinh trong một vũ trụ đã mất trọng lượng. Tình hình vẫn rất không ổn định và không rõ ràng, dù tôi nhìn nhận theo cách nào cũng vậy. Nó càng mù mịt hơn khi tôi về đến văn phòng và khám phá ra một phát hiện mới trong nhà của Synnøve Jensen đã chết, để trên bàn tôi.

V

- Vậy cô làm gì với những cái này? Một vạch màu xanh da trời ở mặt sau phong bì thứ nhất, và một vạch màu đen ở mặt sau cái thứ hai.

Tôi đặt các bức thư xuống bàn, trước mặt Patricia.

Bức thư có vạch màu xanh da trời viết:

Ở đây, bây giờ.

Thế là một trong những người vợ của tên độc tài giờ cũng đã chết.

Có thể còn nhiều kẻ tiếp theo nữa, nếu anh không sớm phát hiện ra ai trong chúng tôi đang làm điều sai trái…

Nguyên văn bức thư có vạch màu đen là:

Ở đây, bây giờ.

Thế là một trong những người bạn của tên độc tài giờ cũng đã chết.

Có thể còn nhiều kẻ tiếp theo nữa, nếu anh không sớm phát hiện ra ai trong chúng tôi đang làm điều sai trái…

Patricia ngồi ngẫm nghĩ một lát, sau đó mỉm cười thận trọng.

- Đây thực sự là tin tức rất đáng nản, nhưng ràng buộc khá chặt chẽ với giả thuyết của tôi về cách mọi sự việc khớp nhau. Vậy những bức thư này giấu giữa các trang của hai cuốn sách khác nhau trên bàn cạnh giường của Synnøve Jensen? Và cả hai phong bì đều đã niêm phong?

Tôi gật đầu, không hiểu hết ý nghĩa của câu hỏi này. Patricia bắn câu hỏi tiếp theo đầy tính chuyên môn.

- Còn bức thư trong túi áo Synnøve Jensen, anh nói chỉ tìm thấy dấu vân tay của cô ấy trên phong bì? Trên bức thư có vân tay không?

- Chỉ có trên phong bì. Không có dấu vân tay nào trên thư hết.

Patricia gật đầu trịnh trọng, nhưng cũng buột ra một tiếng thở dài nặng nề. Tôi lo lắng hỏi nó không khớp với giả thuyết của cô sao? Cô đáp thực ra nó rất khớp, nhưng nhấn mạnh một kết luận hết sức nản lòng. Tôi hơi lúng túng với ý cô, bởi trong cảnh ngộ hiện tại của mình, tôi sẽ vui hơn nhiều với bất cứ kết luận nào cho bất kỳ vụ nào trong ba vụ án mạng. Trong thâm tâm, tôi đã đếm các ngôi sao may mắn của tôi không phải trên các báo chí ngày 17 tháng Năm, nhưng cũng không quá lạc quan như cách sếp tôi đánh giá tình trạng cuộc điều tra.

Patricia nhìn tôi vài giây không nói năng gì. Vẻ mặt cô thân thiện khác thường, gần như trìu mến. Cô cứ ngồi đó nhìn tôi. Vì lý do này hoặc lý do khác, tôi nghĩ đến Maria Irene. Một tình huống chẳng dễ chịu chút nào. Bởi vậy, tôi phá vỡ sự im lặng bằng một câu hỏi.

- Cô đang nghĩ gì mà mê mải thế, Patricia?

Câu trả lời nhanh và bất ngờ.

- Chỉ băn khoăn tại sao anh vẫn còn sống!

Chắc chắn trông tôi khá choáng váng vì câu này. Cô nói tiếp ngay tức khắc.

- Đừng tưởng tôi nhầm lẫn, tôi rất mừng vì anh vẫn còn sống. Nhưng chẳng lẽ anh không ngạc nhiên hoặc thấy khá kỳ cục sao? Hãy hình dung tình huống đêm qua lúc anh tới, kẻ sát nhân ra sao nhé. Hung thủ vừa bắn Synnøve Jensen và đứng đằng sau cô ta, khẩu súng đã nạp đạn trong tay khi anh gõ cửa, khá phiền phức. Phải nói đây rõ ràng là một kẻ thông minh và nhẫn tâm khác thường, giải pháp có thể hiển nhiên nhất là bắn anh ngay lúc anh vừa mở cửa, rồi sau đó trốn thoát. Thay vào đó, hung thủ thực hiện kế hoạch dàn dựng một vụ tự tử theo kiểu liều lĩnh đến lố bịch, để súng lại bên cạnh Synnøve Jensen rồi trốn lên gác, không vũ khí. Có thể hiểu là kẻ sát nhân không biết ai gõ cửa hoặc có lý do để tin rằng có nhiều cảnh sát ở bên ngoài. Nhưng vô cùng lạ lùng nếu hung thủ biết chỉ có mình anh đứng đó.

Tôi thực sự không nghĩ việc tôi còn sống lại kỳ lạ đến thế. Nhưng tôi hiểu ý cô khi cô diễn đạt như thế này và hỏi ngay lập tức liệu cô có giả thuyết nào về mối liên quan ở đây. Tôi nhẹ người thấy cô gật đầu thận trọng.

- Thực ra tôi chỉ thấy có một khả năng. May mắn nó rơi vào đúng chỗ cùng giả thuyết toàn diện của tôi về cách mọi sự việc khớp nhau. Nhưng tôi vẫn chưa hoàn toàn chắc chắn, nên còn do dự vì kết tội giết người khi chưa có bằng chứng cụ thể là một bước rất nghiêm trọng.

Cô lưỡng lự rồi đột ngột hỏi:

- Anh thấy tình huống này ra sao?

Tôi nhận thấy Patricia không sẵn lòng tiết lộ giả thuyết của cô khi chưa biết tôi nghĩ gì, và tôi hơi lơ là vì để lộ ý nghĩ này trong một không gian khép kín và rất không trịnh trọng. Thế là tôi lao vào những giả thuyết liều lĩnh.

- Tôi phải công nhận rằng tôi không biết chắc gì hết. Tôi nghĩ cô đúng khi nói có hơn một người dính líu ở đây. Hôm qua, tôi suýt bắt giữ Hans Herlofsen. Hôm nay, giả thuyết chính của tôi Magdalena Schelderup là Ông hoàng Bóng tối, đã giết hai thành viên Kháng chiến trong thời chiến tranh, nhưng Synnøve Jensen đã viết các bức thư, và giết cả cha lẫn con Schelderup. Synnøve Jensen đã lên kế hoạch vài vụ giết người, phần lớn là Magdalena làm trực tiếp, rồi sau đó hạ gục cô ta vì thế.

Patricia mở to mắt nhìn tôi trừng trừng trong giây lát.

- Anh đã vượt qua chính mình, - cô nhận xét, rõ ràng nghiêm túc.

Niềm vui của tôi chỉ kéo dài trong mười giây. Vì khi cô nói tiếp, nó chẳng dễ chịu gì.

- Tôi không tin có thể nhiều sai lầm đến thế trong hai lời tuyên án, và ở giai đoạn cuối của một cuộc điều tra án mạng như thế. Magdalena Schelderup không phải là Ông hoàng Bóng tối, cũng không phải là người giết Synnøve Jensen. Synnøve Jensen không giết cả cha lẫn con, cô ấy chưa bao giờ lên kế hoạch giết bất kỳ ai, và cũng không viết bất cứ lá thư nào. Để làm rõ chuyện này, kẻ giết Synnøve Jensen không phải là Ông hoàng Bóng tối.

Đây đúng là một kiểu nói quanh, kể cả với Patricia. May mắn, tôi vẫn còn thủ sẵn quân bài chủ, và quyết định chơi ngay lập tức.

- Cô chắc chắn kẻ giết Synnøve Jensen không phải là Ông hoàng Bóng tối? Không phải cùng là khẩu súng đã dùng ư?

Patricia dứt khoát lắc đầu.

- Đừng nực cười thế. Đây chỉ là một sự trùng hợp khác thường, nếu như cùng loại súng, hoặc nó biểu hiện tính hài hước khá méo mó của kẻ sát nhân.

Đắc thắng, tôi rút ra một tờ giấy và ném xuống bàn giữa chúng tôi.

- Bây giờ thì chính cô rất sai lầm, Patricia thân mến của tôi ơi, và tôi có thể chứng minh điều đó. Tôi lấy báo cáo viết tay này từ chuyên gia đạn đạo đi cùng tôi, chỉ để phòng hờ. Khẳng định 100% rằng các viên đạn giết chết Hans Petter Nilsen và Bjørn Varden trong năm 1941 từ cùng khẩu Walther tìm thấy trong nhà Synnøve Jensen hôm qua. Số đăng ký đã bị xóa, nên chúng tôi không thể truy nguyên nó, nhưng chắc chắn là đúng một thứ vũ khí.

Sau này tôi rất tiếc không mang theo máy ảnh. Trong chớp mắt, bộ mặt Patricia biến thành mặt của người phụ nữ ngạc nhiên nhất mà tôi từng thấy. Đó là gương mặt của một người bỗng nhiên trông thấy toàn bộ nhận thức về cuộc đời, toàn bộ quan điểm sống vỡ vụn ngay trước mắt mình.

Rồi cũng bất ngờ như thế, cái cười toe toét, nhẹ nhõm lan khắp mặt cô.

Tôi kinh ngạc thấy Patricia reo to, hân hoan: “EUREKA!”

Rồi cô bắt đầu cười, tiếng cười to, sặc sụa. Mất gần một phút, cô mới lấy lại bình tĩnh và nói.

- Xin thứ lỗi vì thái độ kỳ cục của tôi. Nhưng nhờ anh mà mảnh ghép cuối cùng, quan trọng nhất lúc này đã rơi vào đúng chỗ. Thật không tin nổi vì sao đôi khi số phận lại trớ trêu đến thế.

Tôi nhìn cô, bối rối. Cô cười khúc khích chút nữa, nhưng rồi đột nhiên lại nghiêm nghị.

- Đừng thương cảm hoặc những thứ xa xỉ không cần thiết khác nữa. Thực ra, có một chi tiết duy nhất còn lại liên quan đến cái chết của Leonard Schelderup. Hãy lái xe đến bệnh viện thăm Ingrid Schelderup, và hỏi bà ấy ngay khi tỉnh giấc, khẩu súng lục ổ quay ở đâu trước khi bà ấy để nó lại trên sàn, cạnh cửa ra vào. Khi anh đã biết, hãy trở lại đây ngay, lúc đó tôi sẽ giải thích chi tiết này khớp với hai vụ án mạng kia như thế nào.

Tôi lại nhìn cô, vừa ngạc nhiên vừa ngờ vực.

- Tôi tưởng cả hai chúng ta đã nhất trí rằng Ingrid Schelderup không thể làm gì liên quan đến cái chết của con trai bà?

- Không ai nói bà ấy làm bất cứ việc gì liên quan đến cái chết của con trai. Tuy vậy, khẩu súng lục ổ quay dùng để bắn con trai bà đã ở nơi khác khi bà ta tới đó vào sáng hôm ấy. Nó nằm ở đâu khi bà ta vào nhà có ý nghĩa sống còn với câu hỏi ai bắn Leonard Schelderup. Khi tôi đã khẳng định giả thuyết của mình là ai bắn anh ta, tôi hy vọng sẽ cho anh thấy mọi sự việc khớp nhau ra sao, kể cả chi tiết ai rắc bột lạc vào thức ăn của Magdalon Schelderup và ai bắn Synnøve Jensen!

Lời gợi ý này quá ư hấp dẫn nên không thể từ chối, nhất là dựa vào cuộc nói chuyện gần nhất với sếp của tôi. Tôi đứng dậy và định rời đi.

Patricia ngăn tôi lại bằng một nhận xét ngắn gọn cuối cùng lúc tôi vừa đứng lên.

- Trích dẫn Sherlock Holmes từ một trong những tiểu thuyết hay nhất của Conan Doyle, tuy có sai một chút: chi tiết tôi muốn anh chú ý là đàn chó đã làm gì trong đêm.

Tôi bỡ ngỡ hẳn.

- Nhưng… nếu cô muốn nói đến lũ chó canh gác tại Lâu đài Schelderup, thì chúng hoàn toàn không làm gì trong đêm Leonard Schelderup bị giết.

Patricia gật đầu hài lòng.

- Chính xác.

Chắc trông tôi cực kỳ hoang mang, còn Patricia vẫn bí ẩn và vui vẻ, cô vẫy tay ra hiệu tôi ra khỏi cửa.

Ba phút sau, tôi đã ở trong xe lái tới bệnh viện. Trên đường tới đó, tôi ngẫm nghĩ về nhận xét lạ lùng của Patricia lúc chia tay và thấy nó chẳng liên quan gì đến việc lũ chó canh gác tại biệt thự Gulleråsen im ắng trong đêm Leonard Schelderup bị bắn tại nhà riêng ở Skøyen. Nhưng tôi cảm thấy yên tâm khi biết rằng Patrica đã nhận ra một điều gì đó mà tôi không thể, lời giải thích và biện pháp của cô chỉ trong tầm với.

VI

Ingrid Schelderup ngủ rất lâu và chỉ vừa thức giấc khi tôi tới bệnh viện. Tôi phải đợi một thời gian cho đến khi bà đã sẵn sàng nói chuyện với tôi. Thực ra tôi đợi suốt nửa giờ dài dằng dặc, đến khoảng 8 giờ rưỡi tôi mới được dẫn vào phòng bà. Lúc đó tôi đã tìm ra mối liên quan giữa ai bắn con trai bà và ý nghĩa của việc khẩu súng lục ổ quay ở chỗ nào. Tôi phải thừa nhận rằng trong phạm vi vụ này, bất cứ chi tiết nào cũng có vẻ rất hợp lý.

Ingrid Schelderup giữ phong thái đàng hoàng rất tốt, mặc dù trải qua tấn thảm kịch lớn nhất trong đời bà. Bà ngồi trên ghế, hơi sụp xuống, nhưng ăn vận chỉnh tề. Mặt bà thiếu sinh khí và cử động chậm chạp. So với lần đầu chúng tôi gặp nhau vào sáu ngày trước, nom bà già hơn ít nhất sáu tuổi. Tôi nghĩ có thể nhìn thấy nhiều tóc bạc hơn trong mái tóc đen. Suốt cuộc trò chuyện ngắn ngủi của chúng tôi, thân hình bà dường như chìm sâu vào trong ghế. Đầu bà trên cần cổ gầy guộc chuyển động tới, lui rất nhẹ và ánh mắt của bà vẫn sinh động. Chúng xoáy vào tôi từ lúc tôi bước qua cửa. Bà gật đầu yếu ớt, nhưng không nói hoặc cử động gì hết.

Tôi thận trọng ngồi xuống cái ghế đặt trước bàn của bà, nên chúng tôi chỉ cách nhau khoảng một mét.

- Tôi xin lỗi buộc lòng phải làm phiền bà. Chúng tôi rất thông cảm với nỗi đau buồn lớn vì mất con của bà, và chúng tôi không có lý do gì để tin rằng bà dính líu tới bất cứ vụ án mạng nào…

Bà lại gật đầu, nhẹ đến mức gần như không thể nhận thấy, nhưng vẫn không nói gì. Cái nhìn căng thẳng, sợ hãi của bà dán vào tôi.

- Dù sao, hiện giờ chúng tôi có lý do tin rằng bà đã cho chúng tôi thông tin giả về một chi tiết quan trọng có ý nghĩa sống còn với cuộc điều tra.

Mọi vật trong phòng đứng im phăng phắc trong vài khoảnh khắc nín thở. Tôi vẫn e ngại một cơn giận bùng phát. Nhưng tôi chỉ thấy một cái gật đầu rất nhẹ. Lần này, chỉ thế thôi.

- Khẩu súng lục ổ quay dùng để bắn con trai bà vẫn nằm trên sàn cạnh cửa ra vào khi bà rời đi. Nhưng nó không ở đó khi bà đến. Lúc ấy, nó ở đâu?

Tôi thấy Ingrid Schelderup nuốt nước bọt, trong lúc mặt bà vẫn đờ đẫn. Ngay sau đó, tôi nhận ra bà đang cố nói nhưng không thể thành lời.

- Nó ở trên sàn cạnh con trai bà, đúng không?

Bà gật đầu.

- Và lý do chúng tôi không tìm thấy dấu vân tay của cậu ấy trên khẩu súng là vì bà đã lau sạch.

Ingrid Schelderup lặng lẽ gật đầu lần cuối. Rốt cuộc, bà đã tìm được giọng nói. Nó không to hơn tiếng thì thào, nhưng thật mừng khi nghe thấy nó phá vỡ sự im lặng căng thẳng giữa chúng tôi.

- Tôi không biết mình làm gì, rồi sau đó không thể nhớ ra mình đã làm gì. Ranh giới giữa thực và mơ rất mờ mịt. Bây giờ mọi thứ cừ lờ mờ. Nhưng vâng, tôi phải làm thế.

Bỗng nhiên không còn gì hơn để nói. Sự thật về cái chết của Leonard Schelderup rõ ràng đến đau đớn, cho cả mẹ cậu và tôi. Bà là người mở lời trước.

- Nhưng thực ra, anh phải tin rằng… Leonard không giết cha nó. Hoàn toàn ngược lại, cái chết của cha nó đã giết nó. Cuộc sống của Leonard chưa bao giờ thoải mái, nhưng nó là chàng trai tốt bụng nhất trên đời. Nó chưa bao giờ làm bất kỳ ai đau đớn, ngoài bản thân.

Tôi gật đầu an ủi bà.

- Tôi tin bà. Nhưng mặc dù bà bối rối và kiệt sức vì đau buồn, chắc bà hiểu việc sẽ xảy ra - nếu việc Leonard tự bắn mình lộ ra, mọi người sẽ tin rằng cậu ấy đã bắn chết cha mình, rồi ân hận vì chuyện đó. Bà đã hiểu tầm quan trọng của việc xóa dấu tay.

Ingrid Schelderup gật đầu.

- Tôi xin lỗi, - đột nhiên bà nói, giọng bà khản đặc vì nước mắt.

Tôi đứng dậy định ra về, đột nhiên bà hỏi một câu khá bất ngờ:

- Cô thư ký tội nghiệp bị bắn đêm qua… tôi không biết rõ cô ấy lắm, xét cho cùng cô ấy xuất thân khác hẳn chúng tôi. Nhưng tôi hy vọng vì quyền lợi của cô ấy và của tôi… rằng sự việc không có gì khác cho cô ấy nếu tôi kể thật với anh từ trước?

Tôi rất muốn trả lời là không. Nhưng tôi phải trung thực, nên nói rằng vào lúc này, không ai có thể trả lời câu đó, có thể không người nào bị chết. Rốt cuộc, tôi nhận thấy một cử động ở thân hình đang chìm lún trên ghế. Với sự nhanh chóng đáng sửng sốt, bà ta đưa hai bàn tay lên che mặt.

Tôi vội cảm ơn bà đã giúp đỡ và ra khỏi phòng, lặng lẽ hết mức có thể. Tôi đã nghĩ sẽ chính thức hỏi bà còn phủ nhận việc rắc bột lạc vào thức ăn của chồng cũ không, nhưng lúc này tôi chắc chắn bà không làm. Và tôi sợ hỏi bà có biết hoạt động tình dục bí mật của con trai mình không, nhưng chuyện đó rõ ràng không còn gì quan trọng nữa.

“Chúng ta chẳng còn gì quan trọng để nói với nhau nữa,” người tình mùa hè mười bảy tuổi đã nói với tôi như thế trên sân ga Åndalsnes từ nhiều năm trước. Khá lạ lùng, nhận xét này cứ vang trong tai lúc tôi khép cửa phòng bệnh của Ingrid Schelderup sáu mươi tuổi vào ngày thứ Sáu, 16 tháng Năm 1969. Tôi có cảm giác tương tự rằng chúng tôi sẽ không gặp lại nhau và không còn gì quan trọng để nói với nhau nữa.

Chỉ khi đang trên đường về, tôi mới nhận ra mình sợ biết chừng nào việc thuật lại với Petter Johannes Wendelboe. Bây giờ ông sẽ phải đi những bước tưởng như vô tận tới phòng vợ, kể lại với bà sự thật là Leonard Schelderup đã tự kết liễu đời mình chỉ vài giờ sau khi bà gọi điện đe dọa cậu.

Tôi vẫn chưa thể thăm dò ai đã giết Magdalon Schelderup. Nhưng tôi tự nhủ bất cứ ai đã khởi đầu một chuỗi sự kiện cũng là kẻ tuyên bố sẽ có thêm nhiều nạn nhân nữa, kể cả một số người đang sống. Lúc đó, tôi nghĩ đến nhận xét của Patricia rằng tất cả mười thực khách tại bữa tối cuối cùng của Magdalon Schelderup đều là người vệ tinh. Hiện giờ hai người trong số đó đã bị đâm nhào và hai người khác đã chệch khỏi quỹ đạo, nhưng không chắc họ có tìm thấy đường đi của mình lần nữa không. Vẫn còn một, nếu không phải là hai kẻ sát nhân đang ẩn nấp trong hàng ngũ của họ. Lúc lái xe tới số nhà 104-8 phố Erling Skjalgsson, tôi càng thiếu tự tin hơn bao giờ hết về việc ai có thể là kẻ đó.

VII

- Vậy là cô đã có nó rồi. Cô đã giải được điều bí ẩn ai bắn Leonard Schelderup. Câu trả lời là Leonard Schelderup tự bắn mình.

Patricia gật đầu ủ rũ và hít một hơi dài, chuẩn bị cho một trong những phát biểu dài hơn của cô.

- Đáng lẽ tôi phải đủ can đảm rút ra kết luận đó sớm hơn, nhưng tôi chưa tin chắc về khẩu súng. Vấn đề không phải là nó nằm ở đâu, mà là nó không nằm ở chỗ nào. Tôi không muốn liều lĩnh buộc tội bà Ingrid Schelderup khốn khổ một cách không cần thiết. Lời giải thực ra rất hợp lý cho bất cứ người nào hiểu biết tối thiểu về tâm lý. Chẳng có gì ngạc nhiên nếu Leonard Schelderup đã có ý định tự vẫn từ trước đó, vì bí mật lớn lao của riêng anh ấy, cùng mối quan hệ phiền toái với người cha và gia đình. Như lời em gái nói, Leonard mạnh mẽ trên đường đua là nơi anh cảm thấy hoàn toàn thoải mái, nhưng yếu đuối ở nơi anh thấy mình lạc lõng. Rồi bị ép chệch khỏi quỹ đạo, Leonard rơi vào vị trí rất dễ gặp nguy hiểm và không dự đoán được trong không trung. Khi lấy khẩu súng ở Lâu đài Schelderup, rõ ràng anh ấy đã coi tự sát là một lựa chọn. Cuối cùng, nó đã đẩy anh ra khỏi dòng chảy của hàng loạt sự kiện diễn ra trong ngày. Đầu tiên, bà cô của Leonard giục anh thú tội, rồi sau đó anh bị một người lạ gọi điện dọa dẫm. Chúng ta không bao giờ biết chắc cái gì là giọt nước tràn ly. Tôi nghĩ hoàn toàn có thể cuộc nói chuyện với anh đã giúp anh ấy qua cơn khủng hoảng đầu tiên sau cú điện gọi, còn trên thực tế, chính người tình của Leonard đã vô tình là cú huých cuối cùng, chí tử vào đêm đó. Dẫu có đủ loại tài năng, suốt đời Leonard Schelderup vẫn là một người rất cô đơn. Sau từng ấy năm, rốt cuộc anh đã tìm được tình yêu của mình. Hãy hình dung sự tuyệt vọng khi người duy nhất Leonard thực sự tin cậy và yêu thương cũng giục anh thú tội. Lúc đó, còn ai trên cõi đời này tin anh nữa?

Patricia lắc đầu hối tiếc và buồn bã kết luận:

- Lẽ tất nhiên là người tình của Leonard không hiểu tường tận. Mặc dù chính Leonard Schelderup tự kéo cò súng, song vẫn cảm thấy dường như anh bị sát hại. Một phần vì xã hội bảo thủ không cho phép anh sống theo cách mình muốn, chỉ vì anh khác người. Phần vì con người hiểm độc và tàn nhẫn đã đặt anh dưới sức ép không thể chịu nổi bằng cách dàn dựng hoàn hảo vụ đầu độc Magdalon Schelderup.

Tôi lờ mờ nhận ra Patricia có quan niệm tự do không ngờ về tình trạng đồng tính luyến ái, bất chấp nền tảng gia đình bảo thủ của cô. Tuy nhiên, tôi mải tập trung vào những tiến triển trong cuộc điều tra đến nỗi không dừng lại thảo luận về chủ đề này.

- Than ôi, chúng ta không thể làm nhiều cho vấn đề trước, nhưng chắc chắn có việc có thể làm gì đó cho vấn đề sau. Ai đã rắc bột lạc vào thức ăn của Magdalon Schelderup?

Patricia uống cạn tách cà phê rồi ngồi lặng im, suy tính.

- Có thể nói đó là phần đáng nản nhất trong toàn bộ sự việc. Mấy ngày qua, tôi nhận thức được rằng hai người vừa mất mạng có lẽ là những thực khách tốt bụng nhất quanh bàn khi người đàn ông mà tất cả bọn xoay quanh theo quỹ đạo đã chết. Như tôi đã nói, vụ sát hại Synnøve Jensen quá ư nhẫn tâm. Tuy vậy, bột lạc trong thức ăn của Magdalon Schelderup và kế hoạch đằng sau nó là đỉnh cao hiểm ác của loài người và là tác phẩm của một người cực kỳ quỷ quyệt và ích kỷ.

Tôi hồi hộp đợi cái tên của kẻ giết Magdalon Schelderup. Nhưng thay vào đó, Patricia bắt đầu suy ngẫm về bản chất của ông ta.

- Tôi đã hiểu từ rất sớm rằng tất cả các thực khách ngồi quanh bàn đều là người vệ tinh xoay quanh Magdalon Schelderup. Nhưng tôi chưa hiểu đầy đủ những người không thể tách rời sự chi phối và cá tính quá ư nổi bật của ông ta bắt đầu phân tán như thế nào. Anh nên thường xuyên cảnh giác với những dự báo về mặt tâm lý của những người đã chết. Tuy nhiên, có thể chắc chắn rằng đằng sau cái mặt nạ của mình, Magdalon Schelderup khổ sở vì bản tính tự yêu mình quá mức. Đây là một căn bệnh mà nhiều bậc kỳ tài nổi tiếng trong lịch sử phải chịu đựng, kể cả triết gia Nietzsche. Các triệu chứng là cái tôi được đề cao quá mức thường dẫn đến kết quả là đồng thời thiếu hẳn sự quan tâm đến người khác và là một nhu cầu bệnh hoạn về quyền lực. Với Magdalon Schelderup, cuộc sống chỉ là vấn đề đòi quyền lợi của mình. Ranh giới giữa cuộc chơi và người chơi ngày càng lan rộng hơn bao giờ. Đây chính là điểm then chốt của điều bí ẩn trong cái chết của ông ta.

Patricia nín lặng một lúc lâu sau lời mở đầu này. Tôi nhận ra cô muốn đợi thêm chút nữa trước khi tiết lộ tên kẻ đã giết Magdalon Schelderup, nên thay vì đòi hỏi manh mối, cô nói tiếp.

- Còn nhiều yếu tố khác nhau, tất cả đều chỉ cùng một hướng. Nhưng quan trọng nhất là các bức thư. Một là câu hỏi tại sao kẻ giết người lại chịu khó gửi chúng cho cảnh sát. Rồi đến việc chúng rất khác nhau. Bức thư đầu tiên rất chi tiết, bức thứ hai gửi qua chuyến thư còn những bức khác tìm thấy trong nhà Synnøve Jensen hết sức chung chung và mập mờ. Chúng không cho biết thông tin gì về những người chết sau đó. Trên thực tế, chắc chúng ta sẽ vứt bỏ chúng như sản phẩm của một người điên, không như bức thư đầu tiên và rất ít điểm tương tự. Cũng lạ là bức thư thứ nhất gửi qua bưu điện trước khi Magdalon Schelderup chết, trong khi bức thứ hai không gửi bưu điện cho đến sau cái chết của con trai ông ta.

Tôi nhìn cô, hoài nghi.

- Cô định nói bức thư thứ nhất do người khác viết so với các thư kia?

Patricia lắc đầu.

- Tôi đã cho đấy là một khả năng. Nhưng dần dần, tôi thiên về khả năng lựa chọn, dựa trên những điểm tương đồng hiển nhiên về mặt kỹ thuật giữa các bức thư, và thực tế không có ai trông thấy bức thứ nhất. Các bức thư này do cùng một người viết, nhưng vì lý do nào đó hắn hoặc ả biết về người chết đầu tiên rõ hơn những người tiếp theo. Bây giờ chúng ta biết rằng Leonard Schelderup tự sát, dường như đủ hợp lý là không ai có thể biết chi tiết trước hoặc sau.

- Nhưng nếu các bức thư do cùng một người viết, xét theo các tình huống, chúng phải do Synnøve Jensen viết chứ? Cô giải thích ra sao về thực tế các bức thư cuối cùng tìm thấy trong nhà Synnøve Jensen chỉ có dấu vân tay của cô ấy trên đó? Hay chính kẻ giết cô ấy đã bỏ các thư ở đấy?

Patricia lại lắc đầu, nhưng rất nhẹ.

- Về mặt lý thuyết, kẻ giết người đã để bức thư trong túi áo Synnøve Jensen, nhưng không phải các thư trong các cuốn sách của cô ấy. Cô ấy là người đã gửi bức thư sau cái chết của Leonard Schelderup qua bưu điện.

Tôi càng cảm thấy bối rối hơn.

- Tôi chắc chắn rằng khi chúng ta thảo luận về giả thuyết của tôi lúc sớm hôm nay, cô hoàn toàn loại bỏ việc Synnøve Jensen dính dáng đến các bức thư kia mà?

- Tôi không nói là Synnøve Jensen không gửi một trong các bức thư qua bưu điện, hoặc cô ấy không gửi thêm nữa. Tuy vậy, cô ấy không hề viết chúng. Trên thực tế, các tình huống còn cho thấy cô ấy còn không đọc chúng.

- Vậy thì không phải cô ấy gửi bức thư đầu tiên ư?

Lại một cái lắc đầu nữa, nhưng lần này rõ ràng hơn.

- Không. Nếu Synnøve Jensen biết bất cứ thứ gì về bức thư đầu tiên, chắc chắn cô ấy đã báo cho anh ngay lập tức. Cái chết của Magdalon Schelderup là một cú sốc cho người tình của ông ta, và chắc chắn cô ấy không hay biết mình được hưởng bao nhiêu trong di chúc. Bức thư thứ nhất, và chỉ riêng bức ấy thôi, do một người khác gửi qua bưu điện. Và cũng chính người đó, ngày hôm sau đã rắc bột lạc lên thức ăn của Magdalon Schelderup, theo một kế hoạch xảo quyệt và khéo léo.

Patricia dừng lại gây hiệu quả và uống cạn thêm một tách cà phê đầy. Vẻ biểu cảm trên mặt cô đáng sợ nhất, tôi chưa từng thấy. Tôi phải giục cô tiếp tục.

- Bởi vậy cô nói rằng hung thủ là một người đàn ông và hắn đã viết tất cả các bức thư, nhưng chỉ gửi qua bưu điện bức thứ nhất. Bức thứ hai do Synnøve Jensen gửi, và cô ta không biết bên trong viết gì?

Patricia gật đầu và buột một tiếng thở dài nặng nề.

Cô rút cuốn dạy chơi cờ của Nga khỏi chồng sách và đặt lên bàn.

- Khi phân tích một thế cờ phức tạp, trước hết người ta phải hình dung ra vài nước có thể để tiến. Rồi sau đó, phải cân nhắc các quân cờ sẽ đáp ứng ra sao với các nước đi khác nhau. Việc này có thể quá khó khăn, nhất là khi các nước cờ phức tạp và không rõ ràng. Người đàn ông gửi bức thư đầu tiên và đưa các bức khác cho Synnøve Jensen ở vị trí như thế. Trong chừng mực nào đó, hắn có thể dự báo các nước cờ tương lai, nhưng không thể chắc chắn sẽ xảy ra chuyện gì sau cái chết đầu tiên. Về bản chất, con người khó đoán hơn các quân cờ, vì thế các biện pháp có thể trong trò chơi này càng bấp bênh hơn. Chính vì thế các bức thư mơ hồ hơn. Tại sao Synnøve Jensen được giao vài bức thư để cô gửi căn cứ theo người đã chết. Có vài khả năng, còn Synnøve Jensen là một phụ nữ chất phác và trung thành, nên đã đánh dấu bằng những vệt mực nhỏ ở mặt sau phong bì để nhớ thứ tự gửi thư theo đúng các tình huống.

- Vậy người đàn ông giao thư cho cô ấy cũng chính là người đã rắc bột lạc vào thức ăn của Magdalon Schelderup?

Patricia gật đầu:

- Hắn là người duy nhất có thể sai Synnøve Jensen tới bưu điện gửi thư và cô ấy là người duy nhất hắn có thể giao phó một nhiệm vụ như thế.

- Có lẽ người đàn ông này cũng là người cha đích thực của đứa con chưa ra đời của cô ta?

Patricia mỉm nụ cười chua xót.

- Chắc chắn là thế.

Tôi vắt óc suy nghĩ. Những ứng viên còn lại là Fredrik Schelderup, Petter Johannes Wendelboe và Hans Herlofsen, và lẽ tất nhiên cả Leonard Schelderup hiện giờ đã chết. Một trong số họ phải có quan hệ với Synnøve Jensen. Tôi không thể biết là ai.

- Người rắc bột lạc có biết tình trạng bệnh tim của Magdalon Schelderup không?

Patricia nhìn tôi không hiểu.

- Đương nhiên là hắn biết.

- Nhưng tại sao người này cần viết sẵn các bức thư ấy và giao cho Synnøve Jensen? Tại sao hắn không đợi xem chuyện gì xảy ra rồi tự gửi thư đi?

Câu hỏi đó chắc chắn làm tôi thành một kẻ non kém. Lúc này Patricia nhìn tôi bằng con mắt hơi kẻ cả, dường như tôi là một cậu bé chẳng hiểu tí gì.

- Vì một lý do rất xác đáng là hắn đã chết!

Sự thật như một cú đấm vào đầu tôi lúc cô nói câu này. Và ảnh hưởng thật tàn bạo. Đây hiển nhiên là một sự thật kinh hoàng.

- Vậy người đã dự tính mọi chuyện, gửi thư qua bưu điện, rạch nát lốp xe, g