← Quay lại trang sách

NGÀY THỨ TÁM Khi tấm màn sắt rơi xuống-I

Tôi ghét Sandra Schelderup hơn mọi người phụ nữ tôi nhớ được. Tuy vậy ý chí của bà ta khiến tôi rất ấn tượng. Trái ngược hẳn với thái độ hung hăng đêm trước, sáng ngày 17 tháng Năm 1969, mặc dù viễn cảnh tương lai u ám, trong phòng thẩm vấn của đồn cảnh sát chính, người đàn bà ấy đã rất tập trung và bình tĩnh thú nhận, giải thích với tôi. Sandra Schelderup đề nghị có một luật sư, nhưng đã từ chối khi không thấy được giúp đỡ ngay lúc này. Mình bà ta ngồi đó với tôi và một luật sư bên nguyên, rồi trả lời mọi câu hỏi của tôi một cách rõ ràng và chính xác.

Cái chết của chồng bà và vụ bắn con trai ông ta hai ngày sau đó là một cú sốc. Sandra Schelderup không biết gì về những cái chết đó. Buổi đọc di chúc là một sự bất ngờ ác ý, khiến bà giận dữ thay cho con gái, và tình hình căng thẳng trong những ngày tiếp theo gây cho bà những ý nghĩ ngày càng liều lĩnh. Bà ta thấy một cơ hội khi Leonard Schelderup chết. Số người thừa kế giảm xuống còn ba và Sandra Schelderup hy vọng rằng bất kỳ vụ giết người mới nào sẽ dồn thêm trách nhiệm cho kẻ chịu tội hai vụ đầu tiên. Trước hết, bà ta giấu vòng đeo chìa khóa của chồng rồi báo là bị mất. Bà ta giữ chiếc nhẫn của Magdalena Schelderup để sau này có thể dùng để đánh lạc hướng, như đã định làm đêm trước. Bà ta thú nhận đã lấy chiếc nhẫn trước khi Leonard Schelderup bị bắn, nhưng khẳng định giữ nó “chỉ để phòng hờ” sau khi nghe đọc di chúc, tuy lúc đó chưa có dự tính gì cụ thể. Tôi vẫn nghi ngờ, nhưng chuyển sang vụ giết Synnøve Jensen.

Các chi tiết trong lời thú tội của Sandra Schelderup vừa rõ ràng vừa thuyết phục. Đêm hôm đó, bà ta đã lẻn ra ngoài và lái một trong những chiếc xe của công ty đỗ ở bãi tương đối gần Lâu đài Schelderup, tới đỉnh đồi sau nhà Synnøve Jensen. Bà ta nhận dạng chìa khóa trên vòng đeo của chồng ngay lập tức. Sandra Schelderup đã chuẩn bị thay đổi kế hoạch vào bất cứ thời điểm nào, nhưng sức cám dỗ quá lớn khi tới đó mà không gặp ai và lẻn vào được trong nhà. Sự căm ghét người tình của chồng bao trùm. Bà ta đã bắn cô thư ký và đợi cô ta chết, hy vọng sẽ ngụy trang thành một vụ tự tử, nhưng đúng lúc đó, khi nghe thấy tôi đến bà ta đã chạy trốn.

Sandra Schelderup miêu tả cuộc rượt đuổi tiếp theo đúng như tôi nhớ. Bà ta đã đề nghị cảnh sát bảo vệ tại Lâu đài Schelderup để cầm chắc bằng chứng ngoại phạm, nếu có thể xảy ra một vụ giết người, rồi sau đó chịu thua sức cám dỗ. Cuộc chiến đấu cho tài sản kế thừa của cô con gái ngây thơ đã trở nên ám ảnh và bà ta đã thấy một cơ hội bảo đảm một gia tài thừa kế trọn vẹn cho Maria Irene và ra đi với kế hoạch đó. Fredrik Schelderup luôn căm ghét bà ta và bà ta cũng hoàn toàn khinh bỉ anh ta. Fredrik là người không có gia đình, chỉ lãng phí tiền của khi kiếm được. Vì thế bà ta thực hiện kế hoạch khi không thấy có cảnh sát canh gác ngôi nhà, song đã bị tôi đánh lừa.

Khi tôi hỏi Sandra Schelderup lẻn vào và ra khỏi nhà mình bằng cách nào mà không bị trông thấy, bà ta đáp có một con đường bí mật từ tầng hầm. Có lần Magdalon đã nhắc tới một cách vắn tắt rằng sau chiến tranh, ông ta đã làm một con đường bí mật vừa làm nơi ẩn náu vừa là đường thoát hiểm phòng khi xảy ra cuộc khủng hoảng trong tương lai. Tuy vậy, ông yêu cầu bà không bao giờ đi tìm nó cho đến sau khi ông ta chết, ngoại trừ có tình huống khủng hoảng. Vào đêm sau khi chồng chết, bà đã đi tìm nó, khi không còn sợ phản ứng của chồng và bà muốn xem ông ta có giấu thứ gì giá trị ở đó không. Sandra Schelderup đã tìm thấy một bộ sưu tập vàng và những tờ 100 đô la Mỹ, một viên kim cương rất quý giá và ba khẩu súng trong một cái hốc trên vách. Bà đoán số vàng, tiền và kim cương kia dễ dàng thành thứ giá trị trong trường hợp khủng hoảng. Trong những năm 1960, Magdalon đã vài lần nhắc đến nỗi sợ bị chính quyền Xô Viết chiếm đóng.

Sandra Schelderup phát hiện ra mọi thông tin đăng ký đã bị giũa sạch trên khẩu súng lục cũ nhất và lớn nhất. Thế là bà lấy khẩu này và để nó lại sau khi bắn Synnøve Jensen. Khẩu thứ hai nhỏ hơn, bà định dùng để giết Fredrik Schelderup. Bà dự định sau đó sẽ để khẩu súng này lại nhà Magdalena Schelderup nếu cần thiết. Sandra Schelderup lấy chiếc nhẫn cũng vì lý do này, và đã nghĩ đến việc sẽ để nó lại làm manh mối. Magdalena rõ ràng đang ở thế yếu và là một bà già lạnh lùng, không con cái, dẫu sao cũng chẳng còn sống được bao năm nữa.

Đây là một câu chuyện chẳng có gì đáng tự hào nhưng không may lại là sự thật, Sandra Schelderup vừa nói vừa vặn vẹo đôi tay, không nhìn vào mắt tôi. Tôi đồng ý với bà, nhưng cam đoan lời thú tội đã được ghi lại và sẽ được tòa án xem xét. Bà cảm ơn tôi với nụ cười mệt mỏi rồi bất ngờ xin lỗi vì đã đẩy tôi vào tình huống này. Sandra Schelderup đã bị những người khác trong gia đình và bạn bè của họ không tin cậy và dần dà trở nên căm ghét tất cả bọn họ, nhưng không có gì chống lại tôi và chỉ cầu mong tôi tiến bộ trong sự nghiệp. Con gái bà cũng biểu lộ sự thông cảm và thán phục lớn lao với tôi, bà nói thêm bằng giọng nhỏ nhẹ hơn. Lúc này bà đã nhận ra mình hành động không đúng đắn vì con gái, và bà hy vọng sẽ có thể tự giải thích với cô càng sớm càng tốt. Tôi thấy đây là thời điểm thích hợp để chấm dứt cuộc thẩm vấn.

Lúc này đã 9 giờ sáng ngày 17 tháng Năm 1969 và tôi cảm thấy một sự khuây khỏa lớn lao bao trùm khắp người. Tôi gọi điện cho sếp, ông rất hài lòng vì vụ án đã được phá và mong ngày mai sẽ nghe thêm nhiều chi tiết nữa. Tôi định viết một thông cáo báo chí thì nhận ra một số chi tiết vẫn bị khuyết, và tôi phải báo cho Maria Irene Schelderup về những tiến triển gay cấn trong đêm càng sớm càng tốt.

II

Tôi nhẹ người thấy mọi thứ bên ngoài Lâu đài Schelderup yên tĩnh. Viên cảnh sát canh gác đã thức suốt đêm. Khoảng nửa đêm, đàn chó sủa to và không ngừng trong vài phút. Song không có người nào cố vào hoặc ra khỏi tòa nhà. Tôi có thể yên lòng vì Maria Irene vẫn ở đó. Rõ ràng cô ngủ không ngon và trong đêm đã bị nhìn thấy ở bên cửa sổ hai hoặc ba lần.

Bên trong Lâu đài Schelderup, một tổ pháp y điều tra tầng hầm đang lúc sôi nổi nhất; họ đã tìm thấy một cánh cửa ngụy trang rất khéo dẫn vào đường hầm bí mật đúng như Sandra Schelderup miêu tả. Cái hốc bà ta nhắc đến cũng đã tìm thấy, và họ đưa cho tôi một danh sách các thứ còn lại, rất khớp với lời khai của bà ta.

Maria Irene xin lánh trong phòng riêng. Tôi rất căng thẳng xem lần này cô tiếp đón tôi ra sao, nhưng sớm nhận ra nỗi lo của tôi là vô căn cứ. Ngay khi cánh cửa đóng lại đằng sau chúng tôi, cô ôm tôi. Cô ngủ kém, nên đã thức dậy vài lần trong đêm, và rất lo lắng khi sáng sớm phát hiện ra phòng mẹ cô vắng người.

Sự bình thản của cô gái mười tám gây xúc động sâu sắc. Cô chăm chú lắng nghe tôi thuật lại các sự kiện gay cấn trong đêm, kể cả việc tôi đánh nhau với mẹ cô. Thật cảm động khi cô kêu lên: “Anh không bị thương chứ?” Cô nói thêm rằng tôi không nên nghĩ xấu về mẹ cô, mặc dù bà đã làm nhiều việc khủng khiếp. Tôi cảm thấy nhẹ hẳn người và sung sướng cam đoan với cô rằng con cái không phải chịu trách nhiệm về hành động của cha mẹ.

Tôi nhận thấy mẹ cô tỏ ý muốn nói chuyện với cô càng sớm càng tốt. Maria Irene hờ hững đáp chắc chắn sẽ có ngày cô đến nhà tù thăm mẹ, nhưng ngay sau chuyện này không phải là khoảng thời gian thích hợp. Ngoài ra, cô mong tôi sẽ có đủ lòng tốt tới thăm cô ngay khi cuộc điều tra chính thức kết thúc.

- Sau chuyện này, em cần có một người nào đó để trò chuyện và dựa vào hơn bao giờ hết, - cô buồn bã kết luận. - Lần này, ít nhất em có thể hứa với anh là mẹ em sẽ không làm phiền chúng ta, - cô nói thêm và thoáng cười lặng lẽ.

Tôi thận trọng ôm cô và rất hài lòng với hoàn cảnh của mình lúc rời khỏi Lầu đài Schelderup. Tôi tự nhủ sẽ chẳng bao giờ có lý do tốt hơn để kỷ niệm ngày Quốc khánh Na Uy. Chỉ đến khi đã ở trong xe trên đường về đồn, tôi mới nhận ra rằng tôi chưa gọi điện cho Patricia sau cuộc bắt giữ Sandra Schelderup.

III

Patricia chăm chú lắng nghe tôi thuật lại vụ bắt giữ trong đêm, nhưng cô càng kích động hơn lúc tôi kể về cuộc thẩm vấn và chuyến thăm Lâu đài Schelderup. Cuối cùng, khi tôi hỏi cô nghĩ tôi còn nên hỏi Sandra Schelderup những gì, cô đáp nhanh và mạnh mẽ.

- Có chứ, nhất định rồi. Câu hỏi đơn giản và quyết định trong tiểu thuyết cổ điển của Simenon: người phụ nữ mà bà ta khẳng định đã giết mặc bộ đầm màu gì?

Chắc hẳn tôi ngớ người, còn Patricia mất hết kiên nhẫn với tôi.

- Anh hãy hỏi người bị bắt hợp tác đến bất ngờ của anh câu đó, rồi gọi ngay cho tôi khi có câu trả lời! - Patricia cắm cảu, rồi đặt ngay điện thoại xuống, hấp tấp lạ thường.

Mười phút sau, tôi gọi lại cho cô. Cô trả lời ngay sau hồi chuông đầu tiên, có vẻ vẫn còn tức.

- Bà ấy nói bộ đầm màu xanh da trời, đúng là thế. Ngoài ra, bà ta còn tả tỉ mỉ căn phòng và chiếc sofa là nơi Synnøve Jensen ngồi khi chết. Tôi thấy tất cả có vẻ rất thuyết phục.

Tôi đã hy vọng và nghĩ câu này sẽ làm Patricia bình tĩnh lại. Thay vào đó, cô càng trở nên cáu tiết hơn. Trước tiên là một tiếng thở dài nặng nề ở đầu dây bên kia, rồi sau đó nổ bùng:

- Chó chết!

- Cô có ý gì vậy? - Tôi hỏi.

Sau đó, tôi lo lắng hỏi liệu có cách bí ẩn nào đó giải đáp các vấn đề với sự hiểu biết của chúng tôi về cái chết của Leonard Schelderup và Magdalon Schelderup. Giọng nói ở đầu dây bên kia không vui hơn:

- Không, cả hai cái chết này chắc chắn giải quyết được rồi. Nhưng chuyện này có nghĩa là vẫn còn nhiều vấn đề liên quan đến việc phá vụ sát hại Synnøve Jensen. Anh đến gặp tôi ngay khi có thể, và tôi sẽ giải thích tại sao.

Tôi lưỡng lự. Cô nhận thấy ngay và vội nói tiếp:

- Trên đường anh tới đây, hãy suy nghĩ về việc tính toán thời gian của sự kiện xảy ra ngày 8 tháng Năm 1945, nhưng lần này là chuyện liên quan tới ngày 15 tháng Năm 1969. Lần này không mất quá nhiều giây để hành động mà là quá ít. Có cái gì đó khó giải thích hơn. Nếu người anh đuổi theo trên con dốc đằng sau nhà Synnøve Jensen là Sandra Schelderup, nếu anh ở ngay đằng sau bà ta từ mười lăm đến hai chục mét, nếu cửa ô tô đỗ trên dốc vẫn còn đóng… làm thế quái nào bà ta có thời gian để mở cửa, vào trong xe và nổ máy rồi lái đi trước khi anh đến đủ gần để kịp nhìn thấy mặt bà ta?

Tôi cảm thấy máu dồn lên đầu và sàn nhà chao đảo dưới chân tôi, rồi cảm thấy như có một bàn tay lạnh giá bóp chặt cổ tôi. Cuối cùng tôi nghe thấy tiếng mình nói có lẽ cô đúng, và tôi sẽ tới đó sớm hết mức có thể.

Patricia chỉ nói “tốt” trước khi đột ngột đặt máy. Có vẻ như ý cô không định nói như thế.

IV

- Có lẽ có khả năng động cơ ô tô vẫn nổ sẵn và cửa xe đã mở. Theo lời nhân chứng, cửa xe đóng là điều không thể. Và anh đã nghe thấy tiếng khởi động xe. Vậy thì, Sandra Schelderup đang nói dối. Phải có hai người ở bên ngoài, dưới tấm màn che tối tăm của đêm đó. Một kẻ phạm tội giết người và bị anh truy đuổi. Kẻ kia ngồi đợi sẵn trong xe, mở cửa và nổ máy ngay khi nghe thấy tiếng bước chân. Chỉ có một người duy nhất có thể đi cùng Sandra Schelderup, còn hiện nay Sandra Schelderup sẵn sàng chịu trừng phạt để bảo vệ cô ta.

Lập luận của cô ít khi sai; cuối cùng trên đường vào thư viện của Patricia tôi đã hiểu ra, tuy muộn còn hơn không bao giờ. Tôi đã nóng lòng mong mỏi Patricia trình bày một đáp án khác, nhưng theo cách này cũng không hẳn bất ngờ.

- Vậy điều cô đang nói lúc này, bằng ngôn ngữ dễ hiểu, là cô cho rằng Maria Irene Schelderup lái xe khi Sandra Schelderup đi giết Synnøve Jensen?

Trông Patricia càng chán nản hơn và cô lắc đầu.

- Không. Không may là sự việc còn tệ hại hơn thế. Điều tôi đang nói, bằng ngôn ngữ dễ hiểu, là Sandra Schelderup lái xe khi Maria Irene Schelderup đi giết Synnøve Jensen. Điều đó không phải là tôi nghĩ thế, mà tôi biết thế.

Tôi không ngờ câu này, và chắc chắn nó tệ hơn lường trước. Tôi ngồi chết điếng và nhìn Patricia chằm chặp.

Cho đến lúc này, chưa người nào ở cả hai bên bàn động đến tách cà phê bốc khói nghi ngút. Patricia uống một hơi cạn tách của cô.

- Buồn thay, có thể đây là lời giải duy nhất. Thực ra, suốt cuộc điều tra tôi đã có nhiều nghi vấn. Hãy nhớ rằng không có chìa khóa vào nhà Synnøve Jensen. Trong đời, Synnøve Jensen sẽ không bao giờ để Sandra Schelderup vào trong nhà, vì cô vừa sợ vừa ghét bà ta. Nhưng có thể cô ấy cho Maria Irene vào vì vốn là người chất phác và cả tin, Synnøve Jensen mến cô ta và tưởng cô ta là một đứa trẻ ngây thơ.

Sâu thẳm tận đáy lòng, niềm vui chiến thắng và những giấc mơ tương lai của tôi rơi vỡ và sụp đổ tan tành. Tôi cố phản đối một cách yếu ớt.

- Nhưng chắc là còn nhiều cách giải thích có thể khác… ví dụ, Synnøve Jensen mở cửa cho Sandra Schelderup vào vì tin rằng đó là tôi.

Patricia rót một tách cà phê nữa và uống, rồi lắc đầu tàn nhẫn khi uống cạn.

- Có thể, nhưng khả năng rất cao là không thể. Synnøve Jensen không có cả chuông cửa. Nhất định là khi có người gõ cửa, cô ấy sẽ nhìn qua cửa sổ, và cô ấy đã làm thế trong chuyến thăm đầu tiên của anh. Nhưng ở đây có vài vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều. Trong lúc tuyệt vọng, điều Synnøve Jensen cố nói với anh khi cô ấy vẫy tay về phía cầu thang rồi sau đó vỗ nhẹ lên bụng, động tác thứ nhất là kẻ sát nhân đã chạy lên gác, thứ hai là kẻ đó là con. Lý do khi anh bỗng nhiên nhớ đến Leonard Schelderup lúc anh chạy lên con dốc vì tiếng bước chân của kẻ chạy trước mặt nhắc anh nhớ đến anh ta trong tiềm thức, vì ngay từ đầu cuộc điều tra, anh đã nhận thấy em gái của Leonard có bước chân nhẹ nhàng giống hệt anh ta.

Cả hai chúng tôi ngồi đó, suy nghĩ rất u ám. Patricia nhấc bình cà phê lên lần nữa xem còn không, nhưng rồi cô giơ bàn tay bực tức khi thấy nó trống rỗng.

Tôi thử hỏi Patricia làm thế nào cô khám phá ra sự tồn tại của đường hầm. Cô đáp bằng giọng lơ đãng và dè dặt rằng cô đã triển khai giả thuyết đó ngay từ đầu. Với tính cách một chiến sĩ Kháng chiến cũ của Magdalon Schelderup, sống trong một tòa nhà mà không có lối thoát bí mật có vẻ như không thích hợp. Ý nghĩ này được khẳng định bởi những lần chó sủa trong đêm Synnøve Jensen bị giết, rất khớp với thời điểm dùng đường hầm khi kẻ giết người xuất phát từ Lâu đài Schelderup. Lũ chó đã nhận ra các âm thanh và chuyển động dù các cảnh sát trực không trông thấy ai.

- Tôi phải nói rằng cô lại đúng, và nó thực sự biến chuyện này thành một câu chuyện vô cùng đáng buồn, - rốt cuộc tôi thừa nhận.

Patricia thở dài một tiếng buồn hơn.

- Nhưng điều đau đớn nhất là…, chúng ta có thể ngồi đây và biết kẻ sát nhân là ai, nhưng không có bằng chứng xác đáng về điều đó trước tòa. Về phương diện pháp lý, như thế chưa đủ hiệu lực để thông qua bản án; trên thực tế nó chỉ đủ hiệu lực tạm giam người nào đó. Lời thú tội của Sandra Schelderup rất khôn khéo, và theo tôi hiểu, anh đã đệ trình một báo cáo viết tay trong đó anh tuyên bố không thể nhận ra người anh truy đuổi. Vấn đề thời gian mở cửa xe trở thành lời nói để chúng ta chống lại bà ta. Tôi như nghe thấy luật sư đang phản đối chi tiết bàn tay đặt lên bụng. Có thể xem nó là một bằng chứng không khi một người phụ nữ mang thai đang hấp hối đặt tay lên bụng?

Patricia cầm tách cà phê của tôi và uống thẳng một hơi. Rồi cô ngồi đó, dường như mọi sức lực đã bị rút cạn khỏi cơ thể. Tôi nghe thấy tiếng mình run run vì xúc động khi cố tóm tắt toàn bộ sự việc.

- Cô đúng mọi thứ. Chúng ta biết kẻ sát nhân thực sự là ai, nhưng trừ khi tìm ra một số bằng chứng theo đúng nghĩa của luật pháp, chúng ta đành phải để cô ta đi với khoản thừa kế kếch xù.

Patricia gật đầu, gần như không nhận thấy. Mặc dù đã tiếp nhận một lượng lớn caffeine, cô ngồi gần như chết trên xe lăn. Chỉ có cái nhìn chứng tỏ cô còn sống.

- Mặc dù những nỗ lực lớn lao của cô, tôi chưa bao giờ thấy thứ mong muốn nhất trong đó, - tôi nói thêm.

Nhưng hôm nay, chắc chắn Patricia không còn trong tâm trạng muốn được tâng bốc nữa. Cô ngồi thờ ơ trên xe lăn thêm vài giây nữa. Rồi đột nhiên, cô đấm xuống bàn với sức mạnh không ngờ.

- Thế là cho đến bây giờ tất cả vẫn chưa khép lại. Một kẻ bất cần đạo lý, ích kỷ và hiểm ác từ đầu chí cuối, kẻ đã bắn một phụ nữ trẻ mang thai ngay tại nhà riêng của mình, rồi đứng đó quan sát Synnøve Jensen cùng đứa con chưa ra đời chết dần, một cái chết vô cùng đau đớn. Có thể cô ả không bị trừng phạt, rồi ra đi cùng khoản thừa kế kếch xù cộng thêm vào nữa.

Tôi nhủ thầm rằng vấn đề còn lớn hơn thế. Patricia sắp thua một cô gái cùng trang lứa, người không chỉ đi được, mà còn được hưởng mọi thú vui trên đời. Cảm giác này càng củng cố thêm vì lời bình luận tiếp theo của cô.

- Lúc này tôi cảm thấy hệt như anh lúc anh đang đuổi theo kẻ giết người. Tôi có thể thấy cô ta ở đằng trước tôi, có thể nhìn thấy mặt cô ta và thậm chí còn gọi tên cô ta, nhưng vẫn không thể bắt được cô ta.

Chẳng còn gì nhiều hơn để nói. Thế là chúng tôi im lặng ngồi đó một lúc lâu.

Patricia long lanh nước mắt khi rốt cuộc, cô giơ tay lên.

- Thực sự bây giờ tôi không còn vắt thêm được gì nữa từ quả chanh này, nên cũng chẳng ai có thể làm được. Cô ta vừa có vẻ ngây thơ vừa may mắn. Những sự việc đã biết không phải là chứng cứ chống lại cô ta. Bởi thế anh nên để mặc tôi một mình, khóc lóc cay đắng cho tấn thảm kịch này. Tôi chắc anh không cần Beate đưa anh ra ngoài nữa.

Tôi miễn cưỡng để Patricia lại một mình trong tâm trạng thất vọng. Nhưng giọng cô mạnh mẽ và rõ ràng, tôi chẳng còn biết nói gì làm cô vui lên.

Chỉ sau khi khép cửa lại đằng sau, một ý nghĩ mới mẻ chợt đến với tôi.

Tôi dừng trong giây lát, rồi quay lại và ngập ngừng trở về phòng với bước chân thận trọng.

Tôi không lường trước cảnh tượng trước mắt tôi. Patricia nằm vắt qua bàn, mặt úp xuống. Không hề có cử động hoặc âm thanh nào khiến tôi lạnh người vì sợ, trong thoáng chốc tôi lo cô cũng mất mạng theo một cách bí ẩn nào đó. Nhưng sau đó, may mắn thay, tôi nghe thấy tiếng cô thổn thức.

Tôi rón rén đi ra lần nữa, lặng lẽ hết mức có thể, rồi gõ vào cánh cửa. Mất vài giây, Patricia mới thì thào bảo tôi vào. Khi tôi vào lần nữa, cô đã ngồi trên xe lăn, nhưng nom suy sụp và rầu rĩ. Tôi nghĩ có thể nhìn thấy mắt cô đỏ hoe nên đứng đợi bên cửa.

- Có một tình tiết nhỏ liên quan đến Maria Irene Schelderup ở Lâu đài Schelderup mà trước đây tôi không muốn nhắc tới… nhưng có lẽ bây giờ tôi nên nói, mặc dù không chắc nó có thể giúp được bao nhiêu.

Tôi ngoảnh đi lúc nói và thầm cầu nguyện mình không bị đỏ mặt như một cậu học trò. Lúc tôi quay lại, ngôn ngữ cơ thể của Patricia đã thay đổi hoàn toàn. Lúc này cô đang ngồi thẳng và gần như đứng trên các ngón chân trong xe lăn, dường như sẵn sàng nhảy qua bàn.

- Vậy hãy ngồi xuống và kể tôi nghe, - cô giục tôi.

Thế là tôi ngồi xuống và kể cho cô.

Tôi cảm thấy lạ lùng khi bắt đầu bằng câu: “Tôi đã khiêu vũ với Maria Irene…”

Patricia trợn mắt, nhưng may thay cô chỉ nói:

- Về nguyên tắc, sự mơ hồ cũng có ích lợi thực tế dù rất nhỏ. Hãy kể cho tôi nghe thật chính xác và càng tỉ mỉ càng tốt: cô ấy nói gì, trông cô ấy như thế nào và chuyện gì đã xảy ra.

Patricia nín lặng lắng nghe và rất tập trung trong lúc tôi kể. Rồi một nụ cười chầm chậm lan khắp mặt cô.

- Nó là thứ duy nhất được coi là bằng chứng đủ hiệu lực cho một phán quyết trên tòa. Tuy nhiên, có một chi tiết rất thú vị mà anh vừa kể, chắc chắn sẽ giải thích cho một loạt các câu hỏi khác, - cô nói.

- Bây giờ tôi đã có cô ta trong tầm tay, - Patricia vừa nói thêm vừa vui sướng cọ xát hai bàn tay. - Nếu lúc này bị gục ngã, cô ta là một nạn nhân đích thực cho tham vọng quá đáng của chính mình, - Patricia nhận xét với tiếng cười khúc khích rồi sau đó, cô cười phá lên, không hề thương xót.

V

- Đến bây giờ tất cả mọi sự đều có thể hiểu được, dù bi thảm và tệ hại. Mẹ tôi đã giết một người và định giết người nữa vì tình yêu lệch lạc với tôi và khao khát tăng phần tài sản thừa kế của tôi. Tôi hết sức bối rối vì chuyện này. Nhưng tại sao tôi lại bị gọi đến đây, anh còn muốn tôi nói gì nữa sao?

Maria Irene nhìn tôi qua bàn trong phòng thẩm vấn với ánh mắt nài xin và bối rối. Luật sư của cô, Edward Rønning Con, ngồi cạnh cô cũng làm thế. Luật sư bên nguyên ngồi cạnh tôi cũng nhìn tôi dò hỏi.

- Trước hết, vấn đề là mẹ cô không thể phạm tội giết người một mình như bà ấy miêu tả. Chúng tôi có một nhân chứng khẳng định cửa ô tô đóng. Không thể có khả năng cho người chạy đằng trước tôi kịp mở cửa xe, vào trong, khởi động máy và lái đi trước khi tôi tới đó.

Hình như cả ba người dần dần hiểu ra việc này. Maria Irene thận trọng gật đầu.

- Trong cuộc điều tra này, anh thực sự phải nghĩ đến mọi sự. Nhưng một lần nữa, tôi e rằng không thể giúp anh được. Bây giờ như anh nói, tôi không nghi ngờ mẹ tôi có một kẻ đồng lõa lái xe nhưng tôi không hề biết kẻ đó là ai. Theo tôi biết, mẹ tôi không có người tình bí mật, cũng không có bất cứ người bạn nào sẵn sàng giúp bà một việc như vậy.

- Đúng thế, - tôi nói.

Sự im lặng trong phòng thẩm vấn càng trở nên ngột ngạt hơn. Maria Irene đã hiểu ý nghĩa, nhưng cố câu giờ hết mức có thể trước khi chịu thừa nhận.

- Thế nên anh đang ngụ ý là tôi đã đi cùng mẹ tôi và lái xe? Nhưng thế thì vô lý quá, vì tôi còn chưa có bằng lái xe.

- Đúng vậy, thân chủ tôi còn chưa có bằng lái xe, - Rønning Con lặp lại một cách dứt khoát.

Tôi phớt lờ viên luật sư và nhìn thẳng vào Maria Irene.

- Tôi không nói cô lái xe. Thực ra, tôi muốn nói rằng mẹ cô lái xe và cô đã phạm tội giết người.

Lần này phản ứng của luật sư cả bên nguyên và bên bị xảy ra ngay lập tức. Còn Maria Irene ngồi đó, vẫn yên lặng trong vài giây trước khi tạo ra một bộ mặt có phần hơi thái quá.

- Chuyện này ngày càng trở nên lố bịch hơn. Trong đời, tôi chưa bao giờ phạm một tội gì thuộc bất cứ loại nào.

Cô ta đang ra sức thuyết phục và thấy vẻ hoài nghi trên mặt của cả hai luật sư, tôi vội tiếp ngay.

- Có lẽ đúng là cô chưa bao giờ phạm tội trước buổi tối nói trên. Nhưng tối hôm đó, cô đã phạm tội giết người. Tôi ở đủ gần để nhận ra bước chân của cô, giống lạ lùng với người anh quá cố của cô. Hơn nữa, cô là người duy nhất Synnøve Jensen cho vào trong nhà. Cô gõ cửa và được cho vào, cô rút súng ra và bắn cô ấy, rồi đứng đó đợi cho người phụ nữ khốn khổ kia chết, cô còn xảo quyệt thả khẩu súng xuống rồi chạy và nấp khi tôi gõ cửa.

Sáu con mắt chòng chọc nhìn Maria Irene, sự quan tâm ngày càng tăng dần. Cái nhìn chăm chú của cô ta vững vàng xoáy vào tôi, vẫn bình tĩnh và tự tin như thường lệ.

- Tôi rất tôn trọng anh, nhưng mọi chuyện này là nhảm nhí, suy đoán vô căn cứ. Tôi ở nhà, trên giường của tôi tại Gulleråsen khi tấn thảm kịch này xảy ra ở Sørum. Rõ ràng tôi chỉ có một mình, bởi vậy chẳng có gì ngạc nhiên vì không có người làm chứng.

Rønning Con lao tới giúp thân chủ theo một cách dài dòng đến lê thê.

- Thưa thanh tra thám tử, có lẽ tôi được phép nói rằng anh đang buộc tội rất nghiêm trọng dựa trên chứng cứ khá mỏng manh. Hình như chúng tôi bị bẫy trong một tình huống cổ điển, lời của người này chống lại người khác - trong trường hợp này là lời của anh chống lại của thân chủ tôi - liệu cô ấy có mặt tại hiện trường gây án hay không. Theo các nguyên tắc luật cơ bản, lời nói của thân chủ tôi có trọng lượng như của anh. Vì thế tôi sẽ hỏi tại sao trước kia thân chủ tôi không bị buộc tội này, khi anh khẳng định đã nhận ra cô ấy trong đêm xảy ra vụ giết người?

Tôi gật đầu.

- Một câu hỏi rất đúng lúc, thưa luật sư. Câu trả lời là vẫn còn nhiều điều chưa chắc chắn về sự dính líu của mẹ thân chủ anh, nên chúng tôi đợi có bằng chứng vững vàng hơn và hiện giờ chúng tôi đã có.

Cả ba người im lặng, trừng trừng nhìn tôi, trông Maria Irene ngạc nhiên thực sự và hơi nhếch lông mày.

Tôi lấy khẩu súng ngắn ra, đưa cho mọi người xem sáu viên còn lại trong ổ đạn trước khi đặt nó xuống bàn.

- Đây là vũ khí giết người. Thiếu hai viên đạn vì một viên đã giết Synnøve Jensen, còn một viên tôi bắn cảnh cáo trên đầu kẻ sát nhân. Cô và mẹ cô đã tìm thấy vũ khí giấu trong đường hầm bí mật tại Lâu đài Schelderup. Cô đã dùng nó mà không biết rằng đây chính là khẩu súng cha cô đã dùng để thủ tiêu hai thành viên khác cùng nhóm Kháng chiến với ông ta trong thời chiến tranh.

Maria Irene kiên quyết lắc đầu.

- Tôi không biết cha tôi đã bắn bất cứ người nào thuộc nhóm Kháng chiến trong thời chiến tranh, và từ trước đến nay tôi chưa lần nào trông thấy khẩu súng đó. Tôi không biết gì về đường hầm bí mật cho đến sáng nay.

Tôi vội nói tiếp ngay khi cô ta vừa ngậm miệng.

- Hoàn toàn chắc chắn trong trường hợp cô không biết về các tội ác của cha cô trong thời chiến. Nhưng không đúng là cô chưa bao giờ trông thấy khẩu súng này, hoặc cô chưa bao giờ ở trong con đường bí mật.

Tôi ngừng một lát ngắn, đầy kịch tính.

- Có lẽ cô sẽ nhớ ra vào thời điểm mà cuộc điều tra bắt đầu chưa lâu, tôi đã khiêu vũ với cô một lát trong phòng cô?

Một lần nữa, cả hai viên luật sư sửng sốt. Maria Irene gật đầu, với một thoáng cười nhếch khóe miệng.

- Bước đột phá trong các tiêu chuẩn điều tra thông thường chỉ được tạo ra khi hy vọng có bằng chứng vững chắc. Tôi đã có thứ đó.

Tôi mở cặp rút ra một vật, rồi đặt nó lên bàn. Viên kim cương đỏ thắm và sợi dây chuyền vàng lấp lánh trong ánh sáng.

- Tôi đoán cô có thể xác nhận cô đã đeo viên kim cương này?

Maria Irene chợt nhận ra mối liên quan. Cô nhìn viên kim cương trước, rồi nhìn tôi, rồi nhìn lại viên kim cương, cặp mắt cô sẫm lại lúc suy nghĩ. Giọng nói của cô vẫn rất tự chủ khi trả lời.

- Không. Chắc anh nhớ nhầm. Trước đây tôi chưa bao giờ trông thấy cái dây chuyền này và chắc chắn là chưa bao giờ đeo nó!

Căn phòng lặng như tờ khi cô nói xong. Tôi trừng trừng nhìn cô với cảm giác kinh hãi tột cùng. Cô nàng Maria Irene Schelderup mười tám tuổi nói dối không hề chớp mắt. Đúng như tôi mong cô làm thế.

Tôi tiếp tục theo kế hoạch của Patricia và nhanh chóng nói tiếp:

- Có lẽ cả cô và mẹ cô không hay biết rằng đây là một viên kim cương cực kỳ giá trị đã bị mất từ năm 1915, khi đó ông bà nội cô đã được trả một khoản tiền bảo hiểm rất lớn vì họ khẳng định sợi dây chuyền đã bị lấy trộm. Nhưng cô biết và biết rất rõ là cô đã đeo viên kim cương này lúc khiêu vũ cùng tôi. Nó được giấu trong đường hầm bí mật cùng khẩu súng đã dùng trong vụ giết người. Cô đã lấy viên kim cương ở đó mà mẹ cô không biết.

Maria Irene lại lắc đầu. Giọng cô vẫn kiềm chế và má cô vẫn khô.

- Tôi chỉ có thể nhắc lại, tuyệt đối là không. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy khẩu súng trước khi anh để nó xuống bàn, tôi chưa bao giờ ở trong đường hầm bí mật, và trước đây tôi chưa bao giờ trông thấy sợi dây chuyền này.

Giọng viên luật sư của cô hơi dao động, nhưng vẫn vững vàng khi anh ta lại đưa ra lời bênh vực.

- Chắc chắn là chúng tôi vẫn ở trong tình trạng lời nói của người này chống lại người kia: đó là thanh tra thám tử chống lại thân chủ tôi như trong trường hợp lúc trước. Lời nói của thân chủ tôi vẩn đáng tin không kém của anh.

Tôi hờ hững gật đầu.

- Tất nhiên là không. Miễn là thân chủ trẻ của anh có thể cho lời giải thích đáng tin là tại sao có dấu vân tay của cô ấy trên sợi dây chuyền.

Cả ba cặp mắt nhất loạt chĩa vào Maria Irene. Cô im lìm gần như chết lặng trên ghế. Tôi cố để một mắt vào kim giây của đồng hồ trên bức tường đằng sau cô. Sau bốn mươi giây dài dằng dặc đến không thể chịu nổi, Maria Irene quay sang luật sư của mình và hỏi:

- Bây giờ tôi có phải trả lời câu này không?

- Không. Về mặt pháp lý cô không có nghĩa vụ trả lời bất cứ câu hỏi nào của thanh tra thám tử ngay tại đây và ngay bây giờ.

Rønning Con đã phá vỡ sự im lặng căng thẳng giữa cô ta và tôi.

- Tuy vậy tôi có nghĩa vụ thông báo với cô rằng liên quan đến bất kỳ phiên tòa nào trong tương lai cũng sẽ coi chứng cứ là vấn đề chính, nếu cô không thể có câu trả lời đáng tin cậy với câu hỏi thích đáng của thanh tra thám tử ngay bây giờ.

Đồng hồ trên tường tích tắc thêm mười lăm giây nữa. Maria Irene mấp máy môi hai lần, dường như cô sắp nói, nhưng cả hai lần đều dừng lại, không thốt ra âm thanh nào.

Lẽ ra tôi nên có dư thời gian để sẵn sàng cho một vụ bùng nổ. Tôi đã khám phá ra từ trước rằng những người điềm tĩnh khác thường hay bùng nổ dữ dội dưới sức ép quá lớn. Tôi biết Maria Irene có người mẹ tính khí dễ nóng giận. Nhưng cô ta ngồi đó, rõ ràng vẫn êm ả và bình tĩnh, với bộ mặt thanh thản đến mức tất cả chúng tôi đều mất cảnh giác khi trong cơn cuồng nộ, cô gạt phăng sợi dây chuyền khỏi bàn và vồ lấy khẩu súng. Tôi chỉ lờ mờ nhận ra cả hai viên luật sư đều chúi xuống gầm bàn, từ hai phía.

Maria Irene nhảy dựng lên và lùi lại ba bước nhẹ như tên, cái nhìn xoáy vào tôi. Cặp mắt cô sáng lấp lánh, dữ dội đến nỗi trong giây lát tôi rất sợ chúng sẽ nổ thành nhiều mảnh tung tóe khắp phòng.

Trong giây phút ngắn ngủi, một lần nữa tôi cảm thấy cơn thèm muốn mạnh mẽ được tiếp xúc thân thể với Maria Irene y hệt như tôi đã trải qua vài ngày trước, trong phòng cô. Nhưng sau bốn mươi tám giờ qua, mọi thứ đã thay đổi. Cô không chỉ giết chết một phụ nữ trẻ khác, cô còn thản nhiên nói dối tôi. Giờ đây, khi đối mặt với bản tính thực sự ích kỷ và nhẫn tâm của cô, tôi chỉ muốn giật phắt khẩu súng khỏi tay cô và vặn ngoéo hai cánh tay cô ra sau lưng.

Tôi nhẹ người trong giây lát khi bất chợt nhìn chằm chặp xuống nòng khẩu súng đã nạp đạn. Mặc dù cảm giác bứt rứt theo bản năng, tôi cũng cảm thấy rất hài lòng và đắc thắng. Rốt cuộc, cái mặt nạ sắt mềm dẻo của Maria Irene đã vỡ tan tành. Cặp mắt cô bừng cháy và bàn tay mảnh dẻ của cô run run nguy hiểm vì sức nặng của khẩu súng. Lúc cô phá vỡ sự im lặng, giọng nói của cô cũng run rẩy đáng sợ.

- Tôi không ngờ anh thông minh đến thế! - Cô nói, giọng nhỏ nhẹ thú vị tuy thất vọng.

Tôi tận hưởng tình huống rõ ràng là hiểm nghèo và thầm biết ơn sự chuẩn bị kỹ càng của Patricia trước khi trả lời.

- Trong trường hợp này, cô lại đánh giá tôi quá thấp. Vì tôi đủ thông minh để thay đạn trong vũ khí giết người bằng đạn rỗng trước khi để nó trong tầm với của cô, - tôi nói với cô, bằng giọng bình tĩnh, không mảy may bất an.

Và theo kiểu khó tin nhất, mọi sự căng thẳng trong phòng biến thành thứ có thể miêu tả là gần như yên bình chỉ trong vài giây. Tôi vẫn ngồi và quan sát ánh lấp lánh đe dọa tắt dần trong mắt Maria Irene. Rồi tôi đứng lên và chìa tay lấy khẩu súng. Cô đứng, lưỡng lự trong giây lát trước khi chậm rãi đưa nó cho tôi. Bàn tay cô không run nữa và trong thoáng chốc, tôi ngỡ bắt gặp một nét cười.

Rồi tôi ngồi xuống, ngay ngắn, hài lòng vì khả năng tự chủ của mình. Tôi đã khao khát đến cháy bỏng đè sấn lên người Maria Irene và vặn ngoéo tay cô ra sau lưng, nhưng thay vào đó, tôi đã giữ được bình tĩnh và lẳng lặng thưởng thức niềm vui chiến thắng lúc quan sát Maria Irene ngồi lún sâu trong ghế.

Chỉ đến lúc đó, tôi mới phát hiện ra luật sư bên nguyên cũng đã trở lại ghế ngồi. Rønning Con ló ra dưới mép bàn và nói, giọng đều đều đến ngạc nhiên:

- Căn cứ vào tiến triển mới nhất trong vụ án, có thể có lợi cho các bên nếu tôi có một lời khuyên vắn tắt riêng tư với thân chủ tôi.

Tôi gật đầu thân hữu với anh ta, rồi cầm khẩu súng và vẫy tay ra hiệu cho luật sư bên nguyên. Sợi dây chuyền vàng và viên kim cương vẫn ở trên sàn cạnh cửa. Tôi thận trọng cúi xuống và nhặt chúng lên lúc đi qua.

Luật sư bên nguyên và tôi dừng lại bên ngoài cánh cửa. Ông ta chúc mừng cuộc điều tra của tôi đã thành công. Ban đầu, tôi chỉ nói một cách giản dị rằng đây là một vụ phức tạp và bi thảm, với nhiều mảnh ghép dần dần rơi vào đúng chỗ. Khi ông ta chúc mừng tôi đến lần thứ tư, tôi tự cho phép mình nói rằng tôi rất hài lòng vì thành tích của mình. Đúng lúc đó, cửa bật mở và Rønning Con vẫy tay mời chúng tôi vào.

- Nhằm tránh bất kỳ sự hiểu lầm thêm nữa trong vụ này, tôi chỉ muốn khẳng định rằng kết quả của cuộc điều tra án mạng hiện nay đương nhiên không có ý nghĩa quan trọng với di chúc của Magdalon Schelderup. Rõ ràng thân chủ tôi không làm gì với cái chết của cha và người anh khác mẹ của cô. Synnøve Jensen không phải là người thừa kế, và bào thai không có quan hệ pháp lý trước khi sinh ra.

Tôi nhìn luật sư bên bị như bị thôi miên vì kinh tởm. Rồi tôi nhìn luật sư bên nguyên, ông ta gật đầu cộc lốc. Tôi gật đầu đáp lại, dù miễn cưỡng.

- Bây giờ mọi sự đã rõ ràng, thân chủ tôi sẵn sàng thú nhận vụ giết Synnøve Jensen và hợp tác với cảnh sát để giải quyết những chi tiết cuối cùng của vụ việc. Cô ấy sẽ nhận tội giết người. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ viện dẫn vài tình huống giảm nhẹ. Ngoài lời thú tội, những tình huống này bao gồm tuổi tác của cô, tài sản của gia đình và sự giáo dục khá bất thường của cô, cũng như cơn sốc về tình cảm và tâm trạng tiếc thương vì những cái chết đột ngột của người cha và người anh. Cô ấy khai rằng mẹ cô đã lên kế hoạch và thuyết phục cô thực hiện, chúng tôi có mọi hy vọng rằng lời khai đã sửa lại của mẹ cô sẽ xác nhận cho lời giải thích này.

Cảm giác thắng lợi lúc đầu của tôi nhường chỗ cho những cảm xúc phức tạp hơn nhiều. Có gì đó trong mối liên hệ giữa giọng điệu của viên luật sư với bộ mặt vô cảm của Maria Irene khiến tôi muốn gào to, thất vọng vì sự nhẫn tâm và những cảm xúc khác của con người, vì cách cư xử vô nhân đạo của cô ta với Synnøve Jensen.

Giọng nói của viên luật sư đều đều không ngớt, như thể anh ta đang ở trước tòa.

- Luật sư bào chữa sẽ đề nghị bảy năm tù giam, hy vọng sau bốn năm sẽ được phóng thích vì thái độ tốt.

Nỗi khiếp sợ bản chất vô nhân tính của Maria Irene không hề giảm bớt, thay vào đó là sự thán phục miễn cưỡng mà tôi cảm thấy trước thái độ bình tĩnh đã trở lại của cô ta. Chính Maria là người chìa tay ra lúc chúng tôi đứng lên để rời đi, và chúc mừng tôi đã thực hiện một cuộc điều tra triệt để đến thế. Cô ta nói thêm rất nhanh rằng cô không hề giữ mối oán hận cá nhân nào với tôi và rất vui mừng nếu sau này chúng tôi gặp nhau “ở những hoàn cảnh dễ chịu hơn trong đời”.

Bàn tay cô khô, lạnh và cứng trong tay tôi. Tôi rút tay ra sớm hơn thường lệ và lạ lùng thay, tôi cảm thấy mùi khói thuốc lá bên ngoài phòng thẩm vấn khá dễ chịu và khoan khoái.

VI

- Rốt cuộc, té ra cô ta mới ngốc làm sao!

Patricia mỉm cười mãn nguyện và kịp thu nụ cười về trước khi lấy một ít súp lơ. Đồng hồ trên tường vừa điểm mười một tiếng. Lúc đó đã cuối buổi tối 17 tháng Năm 1969, ngày chúng tôi kỷ niệm Quốc khánh Na Uy, nhưng lúc này quan trọng hơn, là ngày chúng tôi ăn mừng kết thúc một cuộc điều tra án mạng nữa thành công. Adrenaline vẫn đang bơm trong tĩnh mạch của chúng tôi, còn lúc này chúng tôi đang ăn ngon lành món chính trong một bữa tiệc mừng thực sự.

- Sai lầm then chốt của cô ta là chối không biết gì về sợi dây chuyền thay cho khẩu súng lục. Lẽ ra cô ta nên nhận đã lấy sợi dây chuyền mặt kim cương ở đường hầm bí mật và đeo trong cuộc gặp anh, để không thể kết nối cô ta với khẩu súng và vụ giết người. Nhưng tôi đoán rằng cô ta không phải là người thông minh, chỉ gặp may mà thôi.

Tôi gật đầu. Tối nay, hầu như tôi chấp nhận mọi điều Patricia nói.

- Cô nên thỏa lòng vì thành tích đạt được, thực sự rất đáng kể. Cô không chỉ phá được ba vụ án rõ là khó hiểu từ thời hiện tại, mà còn giải quyết được ba vụ án mạng từ hồi chiến tranh, - tôi nói với cô.

Nụ cười của Patricia càng nở rộng hơn.

- Và xin đừng quên một vụ gian lận bảo hiểm đã quá hạn, - cô bổ sung. - Trường hợp viên kim cương đã lâu năm đến mức không chắc có người nào trong công ty bảo hiểm còn sống để nhớ, nhưng sự thật luôn luôn lộ ra dù đã qua nhiều thập kỷ.

Tôi gật, nhưng không nói gì.

- Hình như anh không quá vui, dù trên thực tế hiện giờ cuộc điều tra đã khép lại và các vụ án mạng đã được giải quyết, - cô nhận xét sau khi tạm dừng.

Tôi lắc đầu.

- Khi tôi đếm lại số người trong mười thực khách ở bữa tối cuối cùng của Magdalon Schelderup, hiện đã có hai người chết, hai người ngồi tù và hai người mấp mé suy nhược thần kinh… Kế hoạch quỷ quyệt của chủ nhân nhằm lan rộng nỗi sợ và sự hỗn loạn trong các vị khách đã đạt hiệu quả đáng ngại.

Patricia tư lự nhún vai, đồng thời lắc đầu.

- Có và không. Đây thực sự là một kế hoạch xảo quyệt, đã lấy mạng một vài vị khách và hủy hoại cuộc sống của những người khác. Nó còn cho thấy bà Wendelboe và Ingrid Schelderup sẽ đương đầu với cuộc sống ra sao sau chuyện này. Nhưng nhiều người khác từ thời chiến vẫn còn sống, gồm Mona Varden và Maja Karstensen, cuối cùng họ đã có câu trả lời về chuyện gì thực sự đã xảy ra. Herlofsen chắc chắn có cuộc sống khấm khá hơn dù những tàn tích có dài đến đâu, và có lẽ cũng là trường hợp của Magdalena Schelderup và vợ chồng Wendelboe. Có lẽ Fredrik Schelderup không đáng được thế, nhưng anh ta sẽ có một cuộc sống còn thảnh thơi hơn trước. Sandra Schelderup và con gái phải chịu hoàn toàn trách nhiệm vì tính ích kỷ và tham lam của họ. Chúng ta đã có mặt đúng lúc để cứu vãn mạng sống và tài sản thừa kế của anh chàng Fredrik Schelderup vô dụng, nhưng không cứu được Leonard, cậu em tử tế hơn nhiều hoặc cô Synnøve Jensen siêng năng và chất phác. Thật không may, nhiều điều tra viên án mạng chỉ có thể xử lý các tội ác kinh khủng và đưa ra trước quan tòa. Bình thường rất khó phá được vụ án trước khi nó xảy ra.

Tôi hiểu rõ điều đó, nhưng vẫn không thể ép mình vui lên. Patricia nhận ra chuyện này và tiếp tục rất nhanh.

- Về phần Magdalon Schelderup, có thể nói ở chừng mực nào đó ông ta đã thành công trong canh bạc vĩ đại cuối cùng của mình, nhưng không thành công trong hành động quyền lực. Nếu lúc này Magdalon Schelderup dù trên thiên đường hay dưới địa ngục có thể nhìn thấy chúng ta, tôi có thể cam đoan với anh rằng tận đáy lòng, ông ấy sẽ nguyền rủa chúng ta vì đã bị lột mặt nạ. Vấn đề chỉ là không lâu nữa, cả đất nước Na Uy sẽ biết Magdalon Schelderup không chỉ tự tử, mà còn là kẻ vô đạo đức và kẻ phản bội trong thời chiến tranh. Không những thế, ông ta còn muốn gieo rắc cái chết và sự hủy diệt trong gia đình và bạn bè. Tính cách thực sự của ông ta dần dần bại lộ và sẽ bị lên án công khai là một kẻ nhẫn tâm. Còn về phần anh, hy vọng rằng anh sẽ nổi tiếng và được công nhận, rất xứng đáng với thành tích của mình.

Tôi phải thừa nhận rằng điều cuối cùng Patricia nói đã có tác dụng nâng cao tinh thần của tôi lên chút ít.

- Phải, cảm ơn cô, phải nói rằng nó đang tràn ngập. Đầy ắp các thư, điện chúc mừng, mặc dù hôm nay là ngày hội của toàn dân, chắc chắn báo chí cuối tuần rất đáng để đọc. Nhưng hãy nhớ rằng cả tuần qua tôi phải ở ngoài đó gặp những người này, kể cả Maria Irene. Tôi hết sức thất vọng vì người chịu trách nhiệm một tội ác quái gở đến thế lại thoát quá nhẹ nhàng. Synnøve Jensen và đứa con chưa ra đời đã ra đi mãi mãi, trong khi Maria Irene sẽ được phóng thích trước khi cô ta hai lăm tuổi, và kiếm được nhiều chục triệu krone từ vụ giết người.

Patricia gật đầu đồng tình, nhưng cũng mỉm cười.

- Lẽ đương nhiên đây là một nghịch lý. Rốt cuộc, cô ta bị trừng phạt quá nhẹ và sẽ có thêm nhiều tiền hơn xứng đáng được hưởng. Nhưng anh phải tự an ủi là anh đã làm mọi việc có thể và cô ta sẽ không thoát tội. Tôi có thể cam đoan với anh rằng mỗi ngày trong tù sẽ là địa ngục với một dã thú ăn thịt người như cô ta, và cô ta sẽ không bao giờ được hưởng sự bầu bạn trong nhà tù nữ Breitvedt. Sẽ là một con đường dài và khó nhọc nếu Maria Irene muốn tìm một người chồng tốt, sau khi vụ án đăng tải trên báo chí. Nhưng quan trọng nhất là kế hoạch thừa hưởng tất cả số tiền và một mình điều hành công việc kinh doanh của Maria Irene sụp đổ vì chúng ta đã ngăn chặn vụ giết người anh khác mẹ của cô ta.

Tôi phải công nhận Patricia lập luận rất đúng, nhưng tôi vẫn không vui vì hoàn cảnh. Cô không lảng tránh hiện thực này và nói tiếp sau một lát ngừng lại suy nghĩ.

- Giữa tấn thảm kịch này, có điều thực sự vui là Maria Irene đã thành nạn nhân vì tham vọng ngu xuẩn của chính mình ở mức độ như thế. Cô ta cố bẫy anh, rốt cuộc chính cô ta là người mắc bẫy!

Patricia cười vang rồi tấn công món kem tráng miệng, ăn rất ngon lành. Tôi chợt thấy cô là một người trẻ trung rất phức tạp. Đằng sau mặt nạ, cô đã dành nhiều cảm xúc mạnh mẽ cho vụ này.

Chính tôi cũng nhẹ nhõm vì kết quả vụ án và muốn tiếp tục chủ đề này thêm. Tôi hỏi Patricia liệu cô đã tìm ra lời giải cho câu hỏi của cô: vì sao tôi vẫn còn sống? Bất chợt, cô trở nên rất nghiêm túc nhưng ngay sau đó, một nụ cười tinh quái nở trên môi.

- Trên thực tế, đó là một trong những điều khiến tôi tin Maria Irene chính là người giết Synnøve Jensen. Tôi thấy chẳng có lý gì khiến Sandra Schelderup không bắn anh trong tình huống ấy. Ngoài ra, còn có thể có hai lý do khiến Maria Irene Schelderup để súng xuống và bỏ chạy. Một là cô ta thấy anh quá ư điển trai và hấp dẫn đến mức không thể bắn chết anh, và có lẽ cô ta còn hy vọng cuỗm được tất cả tài sản thừa kế và cả anh luôn.

Tôi gật đầu. Lời giải thích không hợp lý cũng chẳng vô lý.

- Còn lý do có thể thứ hai?

Patricia nuốt thìa kem cuối cùng và ngồi thẳng lên.

- Tôi đánh liều nói đây, không giả vờ ngu hơn anh đâu… Lý do thứ hai tất nhiên cô ta coi anh là người ngây thơ và khờ dại đến mức không hiểu chuyện xảy ra và cô ta sẽ trốn thoát mà không bị nhìn thấy.

Đây là một lựa chọn chẳng mấy hấp dẫn, nhưng buồn thay tôi phải thừa nhận mức độ hợp lý và phi lý ngang nhau.

- Vậy cô tin giả thuyết nào là đúng sự thật?

Patricia tặng tôi một nụ cười hài lòng và trêu chọc.

- Anh bạn của tôi ơi, anh thừa hiểu tôi ghét phạm sai lầm hơn hết thảy, bởi vậy thà tôi không có kết luận trước khi tôi chắc 100% là đúng. Có thể là một sự kết hợp, tôi tin một giải thích này hơn cái khác, nhưng chỉ có Maria Irene nói cho chúng ta biết cái nào là đúng. Mà tôi đoán anh không muốn hỏi cô ta.

Chắc chắn là tôi sẽ không hỏi. Lúc ngồi đó tôi chợt thấy rằng mặc dù tâm trạng rõ ràng thay đổi đột ngột, cả về thể chất lẫn tinh thần của Patricia đều sung mãn hơn so với năm ngoái. Nếu trước đây tôi chưa nhận ra điều đó, tôi chắc chắn đã làm được lúc 12 giờ 15, khi Beate xuất hiện đột ngột với một chai vang Pháp tuyệt ngon. Tôi uống một cốc nhỏ, còn Patricia uống cạn hai cốc lớn và trở nên cởi mở lạ lùng. Sau cốc thứ nhất, cô cười lớn và nhận xét rằng cô rất muốn được ở trong phòng thẩm vấn và thấy Maria Irene với “cái mặt nạ và quần dài nhất định tụt xuống”. Tôi không nhớ trước kia đã nghe thành ngữ này ở đâu và rất ngờ Patricia đã bịa ra nó.

Khoảng 12 rưỡi đêm, tôi đứng dậy và tới gần Patricia để ôm tạm biệt cô, tôi phát hiện ra năm nay cô có một thứ khác hẳn. Patricia không mở khuy áo như Maria Irene đã làm hai ngày trước. Nhưng cô đã mở hai khuy trên cùng. Và tôi thấy, mặc dù tình trạng khiếm khuyết, cô đã trở thành một phụ nữ trẻ xinh đẹp. Má tôi áp vào má cô trong thoáng chốc, và lúc tôi lùi lại, mắt chúng tôi gặp nhau trong giây lát. Tôi có cảm giác giống hệt đã có tại Lâu đài Schelderup mấy ngày trước, khi tôi khiêu vũ với Maria Irene Schelderup. Không hiểu sao, ngay lúc đó tôi hiểu rằng nếu tôi thử hôn Patricia cô sẽ không cự tuyệt, và dĩ nhiên cô sẽ hôn lại tôi say đắm. Sự căng thẳng và thời cơ kéo dài trong một lát nín thở. Lần này không ai gõ cửa. Cuối cùng, tôi quay sang bên và đặt một nụ hôn nhẹ lên má cô, thay cho nụ hôn say đắm lên miệng cô.

Bây giờ, khi nghĩ lại tình tiết này, tôi vẫn không rõ có phải nó giống đến lạ lùng tình huống với Maria Irene, tình trạng khiếm khuyết của Patricia, sự khác biệt tuổi tác giữa chúng tôi, hay cái gì đó nữa mà tôi không hiểu đã khiến tôi lùi lại. Nhưng rõ ràng tôi đã làm thế. Sau đó tôi rời khỏi phòng, có phần hấp tấp hơn dự định.

Tôi cảm thấy một nhu cầu cấp bách phải ra ngoài, lao vào màn đêm và suy nghĩ thấu đáo một mình.

Lẽ tất nhiên Patricia vẫn ngồi tại chỗ, trên xe lăn bên bàn. Trên đường ra tôi thoáng nhìn lại, nụ cười của cô bí hiểm chưa từng thấy. Rồi, với một cái ngáp ngắn kín đáo, cô chúc tôi về nhà may mắn và kết thúc bằng câu nếu tôi tiếp tục làm thêm những vụ án mạng thú vị mà cô có thể giúp đỡ, cứ liên lạc với cô không nên do dự. Nhưng lúc đó, tôi đã chạy qua cửa và bước vào đêm tối an toàn.