← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III

ARGELOUSE quả tình là một đầu mõm trái đất; một nơi không ai có thể đi xa hơn nữa, nơi mà trong vùng gọi là một ấp: vài nông trại không có nhà thờ, không có tòa xã trưởng, không có nghĩa địa, rải rác chung quanh một cánh đồng lúa mạch, cách thị trấn Saint -Claire mười cây số, được nối liền với thị trấn này bằng một con đường có nhiều chỗ lún. Con đường đầy ổ gà và hố biến thành một lối cát sau khi chạy qua Argelouse. Từ đó cho tới biển còn tám chục cây số những bãi lầy, những đầm nước mặn, những gốc thông khẳng khiu, những truông, nơi cuối mùa đông bầy cừu trở thành màu xám tro. Các gia đình khá giả ở Saint-Claire đều xuất thân từ ấp hoang vắng này. Vào khoảng nửa thế kỷ trước, khi nhựa và gỗ thông bắt đầu tăng thêm số lợi tức còn do nghề chăn nuôi của họ, đời sống của những người hiện đang cư ngụ tại Saint-Clair tời lập nghiệp tại thị trấn đó, nhà của họ ở Argelouse trở thành nông trại. Những cây kèo có chạm trổ trên mái hiên, đôi khi một cái lò sưởi bằng đá hoa, chứng tỏ địa vị cao hồi xưa của những gia cư đó. Nay mỗi năm những ngôi nhà lại lún xuống một chút, cả một cánh mái rộng đã quá xưa trệ xuống gần sát đất.

Trong số có hai ngôi còn là nhà chủ ở. Gia đình Larroque và gia đình gia đình Desqueyroux vẫn giữ nhà của họ ở Argelouse y nguyên như của tổ tiên để lại. Jérome Larroque, xã trưởng và hội động quản hạt ở B; có một ngôi nhà chính ở ngoại châu thành quận lỵ, nhất định không chịu sửa chữa chút gì tại sở đất ở Argelouse, hồi môn của bà vợ ông ta (chết vì hâu sản trong khi Thérèse còn nằm trong nôi) và ông ta không thấy làm lạ thấy cô con gái thích về đó nghỉ hè. Từ tháng bảy cô gái về Argelouse với một bà chị lớn của ông bố, bà cô Clara, một cô gái già nghễnh ngãng, bà Clara cũng ưa chốn hoang vắng này vì ở đó, theo lời bà ta, bà không thấy cặp môi mọi người mấp máy và bà biết chắc rằng họ không thể nghe thấy gì khác hơn là tiếng gió hú trên những ngọn thông. Ông Larroque lấy làm bằng lòng vì Argelouse vừa giúp ông đỡ bận với cô con gái vừa đẩy cô bé lại gần Anneh Chàng Bernard Desqueyroux, để rồi ra cô bé sẽ phải lấy làm chồng như ý muốn của cả hai họ, tuy dự định này không chính thức.

Bernard Desqueyroux thừa hưởng của cha một ngôi nhà kế cận với nhà của gia đình Larroque tại Argelouse; không ai gặp Bernard ở đó trước mùa săn; Bernard cũng chỉ ngủ lại đó trong tháng mười, vì ở gần đó có đặt một cái chòi săn chim cu. Mùa đông, người thanh niên thuần phác này theo học về luật khoa ở Paris; mùa hè, chàng dành rất ít thì giờ cho gia đình: Bernard thậm ghét Victor de la Trave mà mẹ chàng lấy sau khi góa chồng, lão ta không một xu dính túi, nhưng ăn tiêu hoang rộng nổi tiếng khắp cả vùng Saint-Claire. Cô em cùng mẹ khác cha tên là Anne còn nhỏ tuổi quá nên chàng chẳng lưu ý tới. Bernard có quan tâm đến Thérèse nhiều hơn không? Cả vùng đều gán ghép hai người với nhau vì đất đai của hai người gần như đã định sẵn sẽ phải dính liền, về điểm này anh chàng khôn ngoan cũng đồng ý với dân trong vùng, Nhưng Bernard không phó mặc một việc gì cho may rủi và lấy làm kiêu hãnh vì biết sắp đặt đời mình chu đáo. Người con trai coi bộ sớm phì nộn thường nói: “Ở đời người ta chỉ khổ vì tại mình …” Cho tới ngày lấy vợ, Bernard biết chia đều những công việc và thú vui, chàng không dửng dưng với thức ăn ngon, với rượu, nhất là với thú săn bắn, nhưng chàng cũng làm việc “quần quật”, như lời bà mẹ vẫn nói. Người chồng bao giờ cũng phải học hành hơn vợ hồi đó Thérèse đã nổi tiếng thông minh, có lẽ đó là một đầu óc cứng cỏi … nhưng Bernard biết rằng người đàn bà phải chịu nhịn những gì; với lại, đám đó rất được, bà mẹ thường bảo cậu con: “nên có chân ở cả hai bên”, ông già Larroque có thể giúp ích cho chàng. Năm hai mươi sáu, sau mấy chuyến du lịch “đã được nghiên cứu rất kỹ từ trước” tại Ý, Tây-ban-nha và Hòa-lan, Bernard Desqueyroux sẽ cưới cô gái giàu nhất và thông minh nhất cùng truông này, có lẽ nàng, có lẽ nàng cũng xinh đẹp nhất, “nhưng không, ai tự hỏi cô ta xấu hay đẹp, ai cũng chịu cái duyên của nàng”.

Thérèse mỉm cười với bức hí họa về Bernard nàng phác ra trong đầu: “Thật tình, anh ta coi bộ tế nhị hơn hầu hết những cậu mà ta có thể lấy làm chồng.” Đàn bà ở vùng truông này thường vượt xa đàn ông vì, ngay thời ở trường trung học, họ sống quanh quẩn với nhau và không trở nên thanh tao hơn chút; vùng truông này đã nắm giữ trái tim họ; tâm hồn họ cũng tiếp tục ở lại nơi đây; đối với họ không có gì hơn những thú vui mà vùng này dành riêng cho họ; sống khác những tá điền trong vùng, không nói tiếng thổ âm, bỏ những cung cách thô sơ, man dại, tức là phản bội, là dứt bỏ với vùng này. Dưới cái vỏ cứng của Bernard có một chút nhân hậu nào không? Khi sắp chết, tá điền trong vùng vẫn nói: “ Cậu ta mà chết đi ở đây không còn ông chủ nào nữa”, Thật vậy, chàng nhân hậu và đúng mực, và hết sức thật; chàng không hề bao giờ nói tới những gì chàng không biết; chàng biết tự lượng. Hồi trẻ, anh chàng Hippolyte thô kệch ấy không đến nỗi xấu – Bernard không quan tâm tới các cô gái bằng tới những con thỏ rừng mà chàng săn bắt ở ngoài truông…

Tuy nhiên, Thérèse, hai mi khép, đầu ngả vào tấm kính ở toa xe, không nhìn thấy Bernard cưỡi xe đạp hiện ra trong những buổi sáng ngày xưa, trên con đường từ Saint-Clair tới Argelouse, vào khoảng chín giờ, trước khi bắt đầu nắng gắt, không phải anh chàng vị hôn phu nhạt nhẽo, mà cô em gái nhỏ của Bernard là cô Anne với khuôn mặt ửng hồng – tiếng ve sầu đã bắt đầu bừng lên từ ngọn thông này qua ngọn thông khác và cái lò lửa vùng truông đã bắt đầu hun nóng dưới bầu trời. Cả triệu con ruồi bay lên từ những bãi cao: “Cháu khoác áo ấm vào đã rồi hãy vào phòng khách; lạnh như trong tủ nước đá…” Bà cô Clara còn nói thêm: “Khi nào hết mồ hôi cháu hãy uống nhé...” Anne la lên những lời chào hỏi vô ích với cái bà nghễnh ngãng: “Cô đừng rát cổ vô ích, bà ấy cứ trông môi cô mấp máy là hiểu hết...” Nhưng cô gái nhọc công dằn từng chữ, làm méo mó cả cái miệng nhỏ xíu: Bà cô trả lời không ăn nhập chi hết cho đến lúc hai người bạn phải bỏ chạy để cười với nhau cho thỏa thích.

Trong góc toa xe tối, Thérèse ngắm những ngày trong trẻo đó của đời nàng trong trẻo và được chiếu sáng bằng một tia hạnh phúc mỏng manh, và cái ánh lửa vui sướng vẩn đục, hồi đó Thérèse đâu có dè phần của nàng ở đời chỉ có vậy. Không có gì báo trước cho Thérèse biết số phận của nàng ở trong một căn phòng khách đầy bóng tối, giữa một mùa hè gay gắt, - trên chiếc ca na pê (canapé) bọc reps [1] đỏ, gần bên Anne với tập ảnh chụp để trên hai đầu gối khép lại. Hạnh phúc đó tự đâu tới? Anne có ham thích nào giống như của Thérèse hay không? Anne ghét đọc sách chỉ ưa may vá, nói chuyện tíu tít và cười cợt? cưòi cợl. Chẳng có một ý kiến về bất kỳ một thứ gì, trong khi Thérèse đọc ngấu nghiến, cũng ham thích không khác nhau những tiểu thuyết của Paul de Kock [2] hay những Chuyện ngày thứ hai, Lịch sử thời Tổng tài chế, tất cả những sách bỏ quên trong những ngăn tủ một ngôi nhà ở vùng quê. Không một ham thích nào giống nhau, ngoài cái thú ở bên nhau những buổi trưa nắng gắt bủa vây mọi người ẩn kín trong bóng rợp. Thỉnh thoảng Annne đứng lên xem đã hết nắng chưa. Nhưng vừa hé cánh cửa sổ, ánh sáng tựa một luồng kim khí lỏng vụt ùa vào, tưởng như muốn đốt cháy bím tóc, thế là cô bé lại phải đóng kín cửa và ẩn núp như cũ.

Ngay tới lúc hoàng hôn, khi mặt trời chỉ còn làm ửng đỏ những gốc thông và một con ve cuối cùng còn ra rả gần sát đất, dưới bóng những cây sồi cái nóng vẫn còn nặng nề đọng lại. Hai người bạn nằm dài ở phía ngoài cánh đồng, tưởng như ngồi ở bên hồ. Những tảng mây xoa xuyến hiện ra trước mặt họ với những hình ảnh mau đổi, nhưng trước khi Thérèse kịp nhận ra người đàn bà có cánh mà Annne nhìn thấy trên trời thì cô bé đã bảo rằng đó chỉ là một con vật kỳ lạ đang nằm.

Vào khoảng tháng chín, sau bữa trưa, hai cô gái có thể ra ngoài và đi sâu vào xứ khát: ở Argelouse không hề có một ngọn suối; phải đi rất xa trên bãi cát mới tới ngọn con suối mang tên là la Hure. Nhiều ngọn suối cắt ngang những vũng thấp của những cánh đồng cỏ hẹp ở giữa đám rễ những cây trăn. Ngâm trong nước lạnh, bàn chân không của hai cô bé trở nên không còn cảm giác; rồi vừa mới khô đã lại nóng hổi. Hai người vào trong một căn chòi, tháng mười những người săn chim cu vẫn dùng, giống như khi nãy hai người ngồi trong gian phòng khách đầy bóng tối. Không có chuyện gì để nói với nhau, không một lời trao đổi; những phút giây trôi qua trong lúc ngừng chân vô tư lự khiến cho hai cô gái không nghĩ tới chuyện cục cựa, khác nào người đi săn khi6 trông thấy một đàn chim bay tới ra dấu để mọi người im lặng. Thành ra tưởng như một cử chỉ đủ làm bay mất mối hạnh phúc vô hình và thanh khiết của họ.

Người đầu tiên là Anne bỗng vươn vai, sốt ruột không chờ bắn chim sơn-ca vào lúc hoàng hôn; Thérèse vốn ghét trò chơi đó nhưng cũng đi theo vì chưa thấy ngán sự có mặt của bạn. Anne lấy cây súng nòng 24, vì không giật, treo ở lối đi vào. Thérèse đứng trên gò nhìn cô bạn ở giữa đồng lúa mạch đang nhắm mặt trời như muốn làm tắt đi. Thérèse trong khoảng không một tiếng; kêu say sưa vụt tắt, cô gái đi săn nhặt con chim bị thương, nương nhẹ trên tay, và vừa lấy môi vuốt ve những lông chim còn nóng hổi vừa bóp nghẹt con chim.

“Mai tới nữa không?

- Ồ! không; đừng tới mỗi ngày.”

Cô bạn không mong gặp nàng mỗi ngày; nói vậy là phải, không nên cãi lại; chính Thérèse cũng thấy phản đối là vô lý. Anne không thích trở lại; có lẽ chẳng có gì ngăn cản cô ta hết; tại sao cứ phải gặp nhau mỗi ngày? Thérèse tự nhủ: “Thế nào rồi cũng đến ghét nhau.” Nàng đáp: “Ừ... ừ... nhất là đừng coi như một bổn phận: lúc nào thích thì đến... lúc nào không có vụ gì thú hơn.” Cô gái cưỡi xe đạp khuất dạng trên con đường đã tối, tiếng chuông xe kêu keng keng.

Thérèse quay về nhà: các tá điền chào từ xa: trẻ con không dám tời gần. Giờ đó là lúc bầy cừu tràn ra dưới những gốc sồi, bất chợt chúng hè nhau chạy bừa, chú chăn cừu la lên. Bà cô đứng chờ nàng trên thềm, giống như những người nghễnh ngãng khác, bà nói không thời để cho Thérèse khỏi nói. Tại sao lại hồi hộp như vậy? Thérèse không buồn đọc sách; chẳng thiết gì hết; lại đi lang thang: “Đừng đi chơi nữa: bữa ăn sắp dọn lên rồi.” Thérèse quay lại bên bờ đường - trống trải cho tới hết tầm mắt. Chuông reng ở trước cửa bếp. Không chừng tối nay phải thắp đèn. Sự im lặng đối với bà nghễnh ngãng, ngồi yên lặng khoanh tay để trên tấm khăn trải bàn, có lẽ không nặng nề như với cô gái đang ngơ ngác.

Bernard, Bernard làm sao đưa anh ta vào cái thế giới mơ hồ này, Bernard thuộc loại những người đui, loại những con người bình dị nhưng riết róng? Thérèse nghĩ: Ngay câu đầu Bernard sẽ chặn lại: “Tại sao cô lại chịu lấy tôi? tôi có theo đuổi cô đâu…” Tại sao ta lại chịu lấy Bernard? Đúng thế, Bernard không hề tỏ ra vội vã. Thérèse còn nhớ bà mẹ Bernard, bà Victor de la Trave, không ngớt nhắc mãi: “Cậu ấy có thể chờ được, nhưng cô ta muốn thế. Khổ quá, cô ta không quen những lề nếp của chúng mình; chẳng hạn cô ta hút thuốc lá như một chú lính thợ: cô ta tự tạo ra cái lối như vậy, nhưng con người bản chất ngay thẳng lắm, thẳng như ruột ngựa. Gia đình tôi sẽ khiến cho cô ta trở nên có lề nếp ngay. Đã đành là vụ hôn nhân này không hoàn toàn tốt đẹp. Vâng… Bà Bellade bà ngoại cô ta … tôi biết lắm … nhưng người ta cũng dễ quên, phải không? Cứ kể ra thì cũng có đôi chút tai tiếng, nhưng vụ đó cũng được giấu giếm kỹ. Bà có tin ở huyết thống không? Ông bố có những tư tưởng ngoại đạo, đã đành; nhưng ông ta luôn luôn làm gương tốt cho con, một ông thánh ngoại đạo đấy. Ông ta lại có thế lực nữa. Ai cũng cần đến cả. Với lại cũng phải bỏ qua đi ít nhiều. Lại nữa, tùy bà có muốn tin lời tôi hay không: nhà cô ta giàu có hơn nhà tôi nhiều. Không ai tin, nhưng đúng như thế. Cô ta lại mê cậu Bernard nhà tôi, thế là tốt lắm.”

Thật vậy, nàng tỏ ra say mê Bernard: không một cử chỉ nào lại dễ dàng hơn. Trong phòng khách ở Argelouse hay dưới gốc những cây sồi ở bên rìa cánh đồng, cứ đưa mắt nhìn Bernard là tự nhiên nàng tỏ ra đủ tài khéo để anh chàng thấy tràn đầy một mối thương yêu thơ ngây. Có một con mồi như vậy ở dưới chân, Bernard lấy làm vinh hạnh lắm, nhưng không ngạc nhiên. Bà mẹ thường nhắc cậu con: “Đừng trêu chọc con nhỏ, nó còm cõi đi mất đấy.”

“Ta bằng lòng lấy Bernard vì...” Thérèse, đôi mày nhíu lại, một bàn tay che trên cặp mắt, cố gắng hồi tưởng lại. Có cái thú trẻ con sau đám cưới thành chị dâu của Anne. Nhưng chính Anne thấy làm thích thú chuyện đó; còn Thérèse không thấy sự liên lạc đó đáng kể. Thật tình, tại sao lại đỏ mặt? Hai ngàn mẫu đất của Bernard không phải nàng không ham. “Cô ta vốn sẵn có máu tư sản.” Vào lúc sau những bữa ăn kéo dài, rượu mạnh được bưng ra trên mặt bàn ăn đã dọn sạch, Thérèse thường ngồi lại với đám đàn ông vì mải nghe chuyện họ nói về tá điền, về cọc chống hầm mỏ, về nhựa thông và dầu nhựa thông. Nàng rất ham nghe ước lượng giá trị những sở đất. Không còn hồ nghi gì khi cho rằng nàng bị mê hoặc vì chuyện làm sở hữu chủ một cánh rừng lớn: “Với lại, chính Bernard cũng ham những rừng thông của ta…” Nhưng không chừng Thérèse đã nghe theo một tình cảm thầm kín hơn mà nàng đang muốn bộc lộ: có lẽ nàng không tìm trong hôn nhân quyền ngự trị hay sỡ hữu, mà chỉ tìm một chốn nương thân. Nàng vội vàng, như vậy, phải chăng vì một mối kinh hoàng? Một cô gái thực tế, một người nội trợ trẻ tuổi, nàng đã vội tìm một địa vị, kiếm một chỗ ngồi vĩnh viễn: nàng muốn được yên tâm trước một nguy cơ mà chính nàng cũng không rõ. Trong đời chưa bao giờ nàng tỏ ra khôn ngoan hơn hồi đính hôn: nàng bám chặt lấy khối gia tộc, “cô ta kiếm một địa vị”; nàng đi tu. Nàng chạy trốn.

Mùa xuân đó, vào thời Thérèse mới đính ước, hai người đi trên con đường cát từ Aegelouse tới Vilméja. Lá vàng trên những cành sồi làm hoen nền trời xanh dương; những cây đuôi chồn khô ngập đầy dưới đất, đây đó chổi lên những nhánh non một màu lục gắt. Bernard nói: “Cô hãy coi chừng tàn thuốc; có thể còn cháyđược; trong truông không có lấy một giọt nước.” Nàng hỏi: “Có phải trong lá cây đuôi chồn có thanh toan không? Bernard không biết chất đó có nhiều đến độ thành một thứ độc dược hay không. Chàng âu yếm hỏi: “Cô có ý muốn chết hay sao?” Nàng cả cười. Bernard ngỏ ý ao ước nàng trở nên bình dị hơn. Thérèse nhớ lại lúc đó nàng nhắm mắt, trong khi hai bàn tay to lớn ôm lấy cái đầu bé bỏng của nàng, và một giọng nói ở bên tai nàng:

“Trong đầu này còn một vài ý tưởng sai lệch nữa.” Nàng đáp: “Bernard ạ, công việc của anh là trừ khử nó đi.” Hai người tới xem thợ hồ cất thêm một phòng nữa trong nông trại ở Vilméja. Chủ trại này, người Bordeaux, định để cho cậu con út về đây ở, “người đó đau ngực chết”. Người chị hắn cũng chết vì bệnh này. Bernard hết sức thờ ơ với gia đình Azévédo: “Họ thề sống thề chết rằng không phải gốc Do Thái… nhưng cứ ngó mặt họ mà coi. Thế mà còn ho lao; đủ các thứ bệnh …” Thérèse bình tĩnh như không. Dịp đám cưới, Anne sẽ từ trường nữ tu ở Saint- Sébastien về. Cô ta sẽ cùng với cậu con trai nhà Deguilhem đi quyên tiền tại nhà thờ. Cô ta có nhờ Thérèse, “ngay trong chuyến thư sau”, tả cho cô ta biết các cô phù dâu bận áo gì: “Liệu có thể lấy được mẫu hàng không? Tất cả các cô phù dâu đều có bổn phận phải ăn bận sao cho hòa đồng…” Chưa bao giờ Thérèse trải qua một thời kỳ bình thản như vậy – nàng cho là bình thản nhưng thật ra đó chỉ là sự ngủ thiếp, nửa chừng, của con rắn ở trong bụng nàng.

Chú thích:

[1] Thứ đồ dệt bằng tơ hay len riêng dùng để bọc nệm.

[2] Charles-Paul de Koch, tiểu thuyết và kịch gia Pháp (1794- 1871) rất nổi tiếng một thời ở Âu-châu (Dịch giả chú)