← Quay lại trang sách

Chương 18 TẠI NGÔI NHÀ Ở ĐƯỜNG PORTLAND

Kemp ngồi yên lặng một lúc lâu và nhìn chăm chăm vào sau lưng cái hình dáng không đầu bên cửa sổ. Rồi ông rùng mình, một ý nghĩ tác động làm cho ông đứng lên, nắm lấy tay người vô hình làm hắn quay lại không nhìn ra ngoài nữa.

Griffin ngồi xuống ghế, rồi bất chợt kể tiếp câu chuyện của mình.

- Tôi đã rời ngôi nhà ở Chesilstowe khi việc đó xảy ra. Đó là vào tháng mười hai năm trước, tôi thuê một căn phòng nhỏ ở London. Một căn phòng tồi tàn trong một nhà trọ ở khu ổ chuột gần đường Great Portland. Chẳng mấy chốc căn phòng đã đầy những thiết bị và dụng cụ được mua bằng số tiền của ông bố. Công việc được tiến hành một cách đều đặn, khá có kết quả và sắp sửa tới giai đoạn kết thúc.

Tuy vậy, tôi cũng chợt nhận ra được một tấn bi kịch vô nghĩa, khi đi chôn bố tôi. Đầu óc của tôi đang mải đắm chìm trong công việc nghiên cứu và tôi hoàn toàn không làm bất cứ một việc gì dù nhỏ đến đâu để cứu ông ta cả. Tôi nhớ lại đám tang với chiếc xe tang rẻ tiền, nghi lễ tạm bợ. Trên sườn đồi gió thổi mạnh như cắt da, chỉ có một người bạn học già cầu nguyện cho ông, và kêu khóc lạnh lùng. Tôi bỗng cảm thấy một chút thương hại cho bố tối. Đối với tôi, ông là nạn nhân của cảm tính ngu muội của chính mình. Sự gian dối hiện tại đòi hỏi tôi phải để tâm đến đám tang của ông, nhưng nó thật sự không phải là việc của tôi.

Trên đường từ đám tang trở về, lúc đang đi dọc theo đường High, hình ảnh cuộc sống thời sinh viên bỗng chợt sống lại trong tôi, vì tình cờ tôi gặp được cô gái mà tôi đã quen cách đây mười năm. Tất cả giống như một giấc mộng trở lại nơi chốn cũ. Tôi không cảm thấy tôi còn cô độc nữa. Tôi đã đánh giá đúng sự mất mát của tình thương, nhưng lại gộp nó vào sự ngu ngốc chung của mọi việc.

Trở về phòng trọ, hình như tôi trở lại với thực tế. Máy móc ở đó, các thí nghiệm sắp xếp sẵn sàng đang đợi ở đó và giờ đây những khó khăn chỉ còn lại rất ít.

Kemp ạ, sớm muộn gì tôi cũng kể hết với ông tất cả những tiến trình phức tạp ấy. Trừ một vài điều cần nhớ, tôi đã ghi lại bằng mật mã trong những quyển vở mà thằng cha du thủ du thực ấy đã giấu đi mất. Tôi phải tìm bằng được hắn, chúng ta phải lấy lại cho được những quyển vở ấy. Nhưng giai đoạn quan trọng nhất là phải đặt vật đã làm trong suốt vào giữa hai trung tâm phát xạ của một loại máy rung động ether mà sau này tôi sẽ kể cho ông. Không, đây không phải là những rung động Rõntgen. Tôi không biết diễn tả những tia rung động của tôi, nhưng chúng rất rõ ràng. Tôi chỉ cần sử đụng hai động cơ nhỏ được chạy bằng hai động cơ xăng rẻ tiền là có thể tiến hành được ngay.

Thí nghiệm đầu tiên của tôi được tiến hành trên một tấm khăn len trắng. Thật là một điều kỳ lạ khi nhìn thấy mảnh khăn trắng mềm mại ấy trong những tia sáng lóe lên, rồi từ từ tan loãng ra như một tia khói và biến mất. Tôi không thể tin là mình vừa làm được điều đó. Tôi để tay vào khoảng không ấy và có một vật như đã từng có trước đây. Tôi cảm thấy ghê sợ nên ném vội chiếc khăn ấy xuống sàn và phải khó khăn một lúc mới tìm lại được.

Rồi một việc rất kỳ lạ nữa tiếp đến. Tôi chợt nghe có tiếng “meo, meo” ở sau lưng tôi. Ngoảnh lại, tôi thấy một con mèo trắng bẩn thỉu ở trên nắp hồ nước bên ngoài cửa sổ. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu: “Mọi thứ đã sẵn sàng cho ta”. Tôi mở cửa sổ và khẽ gọi con mèo. Con vật tội nghiệp ấy đang đói, tôi cho nó một ít sữa. Sau đó nó đi loanh quanh và ngửi khắp phòng như muốn ở đây luôn. Miếng vải len vô tình làm nó hơi khó chịu; ông có thể thấy nó phun phì phì vào đó! Nhưng tôi cho nó nghỉ thoải mái trên giường của tôi sau khi vổ về mang nó đi tắm rồi cho uống thuốc.

- Ông cho nó uống thuốc?

- Đúng vậy! Nhưng cho con mèo uống thuốc không phải là chuyện dễ, Kemp ạ! Cuối cùng thí nghiệm chưa đạt.

- Chưa đạt ở điểm nào?

- Ở hai điểm cụ thể là những cái vuốt và những tế bào sắc tố. Đó là gì nhỉ, ở đây mắt con mèo ấy mà. Ông có nhớ không?

- Lớp sắc tố tapetum.

- Phải, tapetum. Nó không biến đổi. Sau khi đã cho con mèo uống thuốc để biến máu của nó thành trắng và tạo nên những biến đổi khác, tôi cho nó uống thuốc phiện, rồi đặt nó nằm say sưa trên chiếc gối và đặt lên máy. Cuối cùng, tất cả đều mờ dần rồi biến mất, chỉ còn lại hai chỗ mờ mờ nhỏ trên hai con mắt.

- Thật kỳ lạ!

- Tôi không thể giải thích điều đó được. Con mèo tỉnh dậy khi nó vẫn còn đang lờ mờ chưa tan biến hết và kêu lên thảm thiết. Bỗng có tiếng gõ cửa. Tôi vội làm cho con mèo nó mê đi, rồi bước ra mở cửa. Đó là một bà già nát rượu ở dưới nhà. Bà ta nghi ngờ ngắm nhìn căn phòng với cái máy đang chạy, nhưng không thấy gì nên đành phải rút lui.

- Quá trình đó xảy ra trong bao lâu? - Kemp hỏi.

- Với một con mèo thì cần ba hay bốn giờ. Xương, gân và mỡ là những thứ biến sau chót, cùng với những chỗ đầu lông có màu. Chỉ có lớp sắc tô ở mắt là không chịu biến mất.

Công việc chấm dứt thì trời đã tối đen, tôi tắt máy và vuốt ve con mèo. Rồi tôi bước qua nó và đi vào giường ngủ vì quá mệt. Con mèo vẫn còn nằm bất động trên cái gối vô hình. Tôi cảm thấy hơi khó ngủ nên nằm thao thức suy nghĩ, xem xét thí nghiệm rất kỹ lưỡng nhiều lần. Trong lúc mơ màng, tôi nghĩ đến việc mình trở nên mờ dần và biến mất, cho đến mọi vật kể cả chỗ tôi đứng cũng biến mất, tôi đã chìm vào một cơn ác mộng bệnh hoạn.

Vào khoảng hai giờ con mèo bắt đầu tỉnh dậy và kêu meo meo trong phòng. Tôi cố gắng làm cho nó im lặng bằng cách nói chuyện với nó, và rồi quyết định đuổi nó ra. Tôi nhớ lại cơn sợ hãi khi tôi bật đèn lên, chỉ có đôi mắt tròn chiếu sáng xanh lè, không có gì quanh chúng. Nó vẫn không chịu im lặng nên tôi mở cửa sổ và xua đi. Tôi nghĩ nó đã đi ra vì tôi không hề nghe tiếng gì nữa.

Rồi chỉ có Chúa biết tại sao, tôi lại nghĩ về đám tang của bố tôi, về cơn gió.lộng trên sườn đồi ghê rợn cho đến sáng trắng. Tôi không hy vọng ngủ được nên khóa cửa và đi ra đường vào lúc sáng sớm.

- Ý anh muốn nói là trên đời này có một con mèo vô hình à?

- Sao lại không nhỉ? Nếu nó chưa bị giết. - Người vô hình nói. - Nhưng có lẽ nó chỉ sống được đến bốn ngày sau thôi. Vì dưới đường Great Tichfleld có tiếng kêu chói tai, tôi thấy một đám đông tụ tập ở một chỗ gần đó và cố tìm xem tiếng mèo kêu ấy phát ra từ đâu.

- Anh kể tiếp đi!

Người vô hình ngồi yên lặng một lúc, sau đó lại đột ngột kể tiếp câu chuyện.

- Sáng hôm đó, trước khi có sự thay đổi đột ngột làm tôi phải rời bỏ căn phòng ở đường Great Portland, tôi ngồi một mình trên sườn đồi lộng gió, cảm thấy rất bệnh hoạn và lạ lùng. Đầu óc mệt mỏi của tôi cố gắng xác định rõ vị trí để phân chia kế hoạch ra mà hành dộng. Tôi ngạc nhiên thấy rằng mình không làm sao đạt đến thành công, vì bốn năm làm việc liên tục căng thẳng đã làm cho tôi kiệt sức và mất hết cảm giác. Tôi cố hết sức để hồi phục sự nhiệt tình trong tuyệt vọng và hiểu rất rõ rằng chỉ cần mình uống thuốc hoặc nghỉ ngơi là có thể phục hồi lại năng lực. Quyết tâm của tôi rất rõ ràng là tất cả công việc phải được hoàn thành, và phải được hoàn thành một cách sớm nhất vì số tiền mà tôi có hầu như gần cạn. Tôi nhìn quanh sườn đồi, nơi đám trẻ con đang nô đùa cùng các cô gái và cố gắng nghĩ về những lợi ích tuyệt vời mà người vô hình sẽ có trên thế gian. Sau một lúc, tôi về nhà, uống một liều mạnh thuốc chống mệt mỏi và leo lên giường đánh một giấc.

Rồi có tiếng gõ cửa đánh thức tôi dậy. Đó chính là ông già Do Thái, chủ nhà trọ. Ông ta vừa đe dọa, vừa hỏi về chuyện tôi tra tấn con mèo đêm hôm qua. Ông ta nôn nóng muốn biết tất cả về chuyện đó, bởi vì luật pháp đất nước này nghiêm cấm mổ xẻ sống thú vật. Tôi chối là không hề có con mèo nào trong phòng tôi cả. Ông ta lại nói về chuyện cái máy làm rung chuyển cả nhà. Đó là sự thật. Ông ta bước vào phòng xem xét khắp nơi. Tôi sợ ông ta biết được bí mật nên không, cho đến gần chỗ tôi để cái máy đã chuẩn bị sẵn sàng. Vì nếu ông ta thấy được có thể xảy ra những chuyện không hay. Tôi bổng thấy mình bị xúc phạm vì tôi đã trả tiền thuê căn phòng thì phải có quyền tự do sử dụng nên yêu cầu ông ta ra khỏi phòng, ông ta phản đối vì cho rằng mình có quyền. Tôi nổi điên chộp lấy cổ áo, xô ông ta ra khỏi phòng, đóng sầm cửa và khóa lại, rồi ngồi xuống mà người cứ run lên.

Ông ta làm ầm ĩ bên ngoài, nhưng tôi vẫn bỏ mặc không thèm để ý đến. Lát sau, ông ta bỏ đi.

Nhưng chuyện này sẽ dẫn đến một hậu quả thật tai hại, vì tôi không biết ông ta sẽ làm gì và cũng không biết ông ta sẽ nhờ chính quyền can thiệp. Tôi có thể phải chuyển đi nơi khác, nhưng mọi việc quá chậm trễ khi tiền túi đã cạn. Tôi chỉ còn đúng có hai mươi bảng, mà hầu hết đều gửi ở ngân hàng. Tệ hơn nữa, căn phòng của tôi có thể còn bị khám xét, và như vậy là toàn bộ công trình của tôi bị phơi trần. Tôi có thể làm gi bây giờ?

Biến mất! Phải làm như vậy thôi!

Nghĩ đến công việc sắp kết thúc có thể bị gián đoạn, tôi nổi giận và hoạt bát hẳn lên. Tôi vội vã mang ba quyển vở ghi chép và quyển ngân phiếu, đi thẳng đến một trạm bưu điện gần nhất để gửi vào hộp thư lưu trữ ở đường Great Portland.

Khi trở về nhà, tôi thấy ông chủ nhà lặng lẽ nấp ngoài cửa phòng của tôi để rình mò nghe ngóng. Thấy tôi bắt gặp hành động lén lút của mình, hắn vội nhảy sang bên trên đầu cầu thang và nhìn tôi với vẻ bối rối ra mặt. Tôi đóng sầm cửa làm rung chuyển cả căn nhà và nghe ông ta bước thật dè dật, ngập ngừng đi xuống bên dưới.

Ngay lập tức, tôi bắt tay vào làm việc.

Khi mọi việc xong xuôi trời đã về đêm.

Trong lúc tôi còn đang ngồi mệt mỏi, ngầy ngật vì ảnh hưởng của thuốc tẩy máu, thì có nhiều tiếng gõ cửa vang lên. Một chốc sau, tiếng gõ ngừng, tiếng bước chân bỏ đi rồi trở lại và tiếng gõ cửa tiếp tục. Sau đó, một mảnh giấy xanh sột soạt đang được nhét qua khe cửa. Tôi nổi giận, đứng dậy, đi đến đẩy tung cửa ra và quát lên:

- Muốn cái gì nữa đây?

Đó chính là ông chủ nhà mang hoá đơn thanh toán đến. Ông ta đưa tờ giấy ra và ngước mắt nhìn mặt tôi.

Bỗng ông ta há hốc miệng, rồi hét lên một tiếng kinh hãi, bỏ rơi cây đèn sáp và tờ giấy rồi cắm cổ chạy xuống cầu thang. Tôi đóng cửa, khóa lại và đến soi gương. Rồi tôi hiểu ngay nguyên nhân sự sợ hãi của ông ta: Khuôn mặt tôi trắng toát giống như thạch cao.

Đêm ấy quả thật là một đêm khủng khiếp vì tôi không ngờ được sự đau đớn mà mình phải chịu khi biến thành vô hình. Dù như có một ngọn lửa vô hình đang thiêu đốt toàn thân, tôi vẫn nằm yên, cắn răng chịu đựng và bám chặt lấy cỗ máy. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao con mèo đã phải gào thét cho đến khi tôi gây mê cho nó. May mắn là

tôi chỉ có một mình trong phòng. Có lần tôi khóc nức nở, kêu rên và mê sảng nhưng vẫn cố bám chặt lấy cái máy và bất tỉnh.

Sáng hôm sau, khi cơn đau nhức đã qua, tôi kinh hoàng thấy bàn tay mình đã biến thành thủy tinh mờ đục, rồi dần dần càng trở nên trong suốt và mong manh. Cuối cùng tôi có thể thấy sự bừa bộn của căn phòng xuyên qua chúng dù tôi đã cố nhắm đôi mắt trong suốt lại. Tay chân tôi trong như thủy tinh, xương và các mạch máu phai dần, biến mất, rồi đến các dây thần kinh của não bộ biến sau cùng. Tôi vẫn nghiến chặt răng, ngồi yên ở đó. Cuối cùng, chỉ còn lại những cái móng tay đã hóa sừng và những vệt màu nâu của acid trên đó là còn nhìn thấy.

Thoạt đầu, tôi yếu ớt như một đứa trẻ sơ sinh và đói lả, lê bước trên những đôi chân vô hình để đến bên chiếc gương. Trong gương trống không, chỉ trừ có một vết màu mờ nhạt sau võng mạc mắt. Thậm chí, tôi phải đu mình trên bàn và áp sát trán vào kính mới có thể nhận ra.

Bằng một sự cố gắng tuyệt vời của ý chí, tôi lê bước trở lại cái máy để hoàn thành nốt quá trình biến hóa.

Tôi ngủ suốt buổi sáng. Mắt bịt bằng tấm khăn trải giường để khỏi bị chói. Tôi bị thức giấc bởi tiếng gõ cửa vang lên dồn dập bên ngoài. Tôi liền bật dậy và hết sức nhẹ nhàng tháo tung cỗ máy ra. Ông chủ nhà và sau đó thêm hai người nữa lên tiếng gọi. Tôi trả lời, cốt để trì hoãn thêm, trong khi vơ vội chiếc gối và mảnh khăn vô hình quẳng xuống nắp bồn nước bên ngoài cửa sổ, ở ngoài, người ta bắt đầu phá cửa. Nhưng cái then cửa lớn tôi vặn vào mấy hôm trước đã ngăn họ lại. Việc làm đó khiến tôi giật mình và nổi giận. Tôi bắt đầu run và làm công việc thật vội vã. Tôi ném tung giấy vụn, rơm rác và những thứ dễ cháy ra giữa phòng và mở nắp bình xăng. Nhưng không thể tìm ra hộp quẹt được nên đành phải đậy nắp bình xăng lại. Tôi đập tay vào tường giận dữ rồi trèo qua cửa sổ đứng trên nắp bồn nước và nhẹ nhàng hạ cánh cửa kính xuống. Lát sau họ phá được cửa. Tôi thấy lố nhố trước cửa một nhóm người gồm ông chủ nhà và hai đứa con trai vạm vỡ của hắn. Lấp ló phía sau là mụ già xấu xí dưới nhà.

Ông có thể tưởng tượng họ ngạc nhiên như thế nào khi thấy căn phòng trống rỗng. Một gã con trai chạy ào ngay đến bên cửa sổ, đẩy cửa lên và nhìn ra ngoài. Cặp mắt nhìn đăm đăm, cái mặt có đôi môi dày và cái cằm đầy râu chỉ cách mặt tôi vài tấc. Tôi định nện cho hắn một cú đấm, nhưng kềm lại được. Hắn ta ngó xuyên qua thân thể tôi. Những người khác đứng phía sau cũng ngó ra như vậy. Riêng ông chủ thì sục sạo khắp gầm bàn, tủ đựng thức ăn... Cuối cùng, họ cãi nhau bằng thứ tiếng Anh pha tạp giữa tiếng của vùng Yiddish và tiếng Cockney. Họ kết luận rằng lúc nãy không phải là tôi đã trả lời, mà chỉ là do họ tưởng tượng ra thôi. Một cảm giác hạnh phúc kỳ lạ đã làm tôi hết giận khi ngồi ngoài cửa sổ nhìn bốn con người này.

Như tôi hiểu được thì ông chủ nhà đồng ý với bà lão cho rằng tôi là người giải phẫu súc vật sống. Còn hai gã con trai thì phản đối, cho rằng tôi là một kỹ sư điện, bằng cớ là cái dynamo và máy phát xạ của tôi. Sau đó, lại thêm một lão hàng rong và một người bán thịt cũng là khách trọ hiện ra trên hành lang.

Tôi chợt nhận ra rằng nếu hai cái máy phát xạ mà lọt vào tay những người hiểu biết tinh khôn thì sẽ lộ hết việc của tôi, nên tôi tìm cơ hội lọt vào phòng, lật nhào một chiếc động cơ ra khỏi bệ và đập tan cả hai cỗ máy. Trong khi bọn họ còn đang cố gắng tìm hiểu nguyên nhân sự đổ vỡ, thì tôi đã lẻn ra cửa và bước nhẹ nhàng xuống cầu thang.

Tôi bước vào phòng khách và đợi ở đấy cho tới khi họ trở xuống. Tất cả vẫn còn đang tranh cải, mọi người đều thất vọng vì không tìm ra điều gì kinh khủng và bối rối không biết sẽ phải xử sự ra sao khi tôi bất chợt trở về. Sau đó, tôi lên lầu với chiếc hộp quẹt trong tay, châm lửa vào đống giấy, đặt lên đó cả chiếc ghế tựa lẫn thanh giường. Tôi mở thùng xăng, dùng một ống cao su nối vào đống lửa rồi vẫy tay từ biệt căn phòng lần cuối cùng.

- Anh đốt luôn căn nhà sao? - Bác sĩ Kemp kêu lên.

- Phải, tôi đã đốt nhà. Đó là cách duy nhất để xóa sạch mọi dấu vết của tôi, và rõ ràng cũng là cách bảo đảm nhất.

Sau đó, tôi mở thật nhẹ nhàng then cài cửa chính và rồi bước ra đường. Tôi đã vô hình và tôi chỉ việc bắt đầu tìm ra những lợi thế phi thường mà sự vô hình đã mang đến cho tôi. Trong đầu tôi chứa đầy các ý định điên rồ và kỳ quái mà giờ đây tôi tha hồ muốn làm gì cũng được.

Có thể nói là tôi đang ở trong một tâm trạng vô cùng phấn chấn. Tôi cảm thấy mình như một người sáng mắt, đi chân không và quần áo không gây ra một tiếng động, đang ở giữa một dường phố toàn những kẻ mù. Tôi cảm thấy kích động, thích thú muốn được giễu cợt và làm mọi người sửng sốt, được vỗ vào lưng mọi người, được tung nón trên đầu người ta lên và được thỏa thích làm mọi điều nhờ có ưu thế khác thường của mình.