← Quay lại trang sách

HAI

Hồi ấy có một bài hát của Nora Bayes tên là “Hãy giả vờ,” có lẽ là một luận thuyết du dương mà thuyết phục nhất tôi từng nghe về sự tự dối mình. Nora Bayes tuyệt đẹp, và cô nàng hát bằng cái giọng run rẩy cứ như đang bảo ta rằng cô hiểu rõ tình yêu. Khi cô ấy khuyên ta vứt quách hết thảy những đau đớn, lo âu và khổ sở đi mà mỉm cười — thì trời ơi ta tin là chính cô ấy cũng đã từng làm thế. Đó không phải gợi ý đâu, mà là đơn thuốc. Bài hát ấy chắc hẳn cũng là bài Kenley thích. Cậu bật nó đến ba lần vào cái đêm tôi đến Chicago, và mỗi lần nghe tôi đều cảm thấy như nó đang nói thẳng với tôi: Hãy giả vờ vui khi em đang buồn. Sau cơn mưa trời lại nắng.

Mưa thì tôi đã có. Chẳng đợi đến lúc mẹ tôi lâm bệnh và qua đời, những năm tháng trước đó cũng đã vô cùng u ám rồi. Hai mươi tám tuổi, tôi sống như bà cô trên gác hai nhà chị tôi, Fonnie, trong khi chị và anh chồng Roland cùng bốn con quỷ nhỏ thân yêu của họ ở tầng dưới. Tôi đâu có định sống thế này. Tôi đã nghĩ mình sẽ lấy chồng rồi tìm việc như bao bạn học. Giờ họ đã thành những bà mẹ trẻ tất bật, những cô giáo, thư ký hay chuyên nghề viết quảng cáo lắm tham vọng như Kate. Dù làm gì thì họ cũng đang sống đời mình, bươn chải và mắc sai lầm. Giữa chừng — rất lâu trước khi mẹ tôi ốm — không hiểu sao tôi bị tắc lại, và tôi không biết chính xác phải làm gì để giải phóng bản thân nữa.

Thi thoảng, sau cả tiếng đồng hồ chơi một bản Chopin tàm tạm, tôi nằm sụm xuống sofa hoặc thảm sàn, cảm thấy như sức lực mình lúc chơi đàn đã bay biến. Cảm giác vô nghĩa ấy thật tệ hại, như thể tôi là con số không. Sao tôi không thể hạnh phúc? Mà hạnh phúc là cái gì? Liệu ta có thể giả vờ có nó như Nora Bayes vẫn khăng khăng là được? Liệu ta có ép được nó nở sớm như củ hoa báo xuân trong bếp, ta có chạm được nó trong một bữa tiệc ở Chicago hay nhiễm nó như nhiễm một cơn cảm lạnh?

Với tôi, Ernest Hemingway vẫn còn là một người xa lạ, nhưng ở anh bất cứ lúc nào cũng toát lên vẻ hạnh phúc. Tôi không thấy nỗi sợ hãi trong anh, chỉ có sự nồng nàn và sống động. Mắt anh lấp lánh nhìn khắp cơ thể tôi, trong lúc anh dồn trọng tâm vào gót chân mà xoay tôi lại đối mặt với anh. Anh kéo tôi lại sát ngực mình thật nhanh, hơi thở anh ấm nóng trên cổ và tóc tôi.

“Chị quen Stut được bao lâu rồi?” anh hỏi.

“Bọn tôi học cùng tiểu học hồi ở St. Louis, Học viện Mary. Còn cậu thì sao?”

“Chị muốn biết toàn bộ quá trình học hành của tôi sao? Không nhiều đâu.”

“Không,” tôi cười. “Nói tôi nghe về Kate ấy.”

“Thế' thì phải hết một cuốn sách mất, nhưng tôi không chắc mình sẽ là người viết nó.” Giọng anh nhẹ bẫng, vẫn cái vẻ châm chọc ấy, nhưng anh đã thôi cười.

“Ý cậu là sao?”

“Không có gì,” anh nói. “Phần ngắn ngủi và ngọt ngào trong câu chuyện là cả hai gia đình đều có nhà nghỉ hè gần Petoskey. Người miền Nam như chị thì có thể hiểu đó là ở bang Michigan.”

“Hay nhỉ, chúng mình đều lớn lên cùng Kate.”

“Tôi lên mười còn chị ấy mười tám. Nói tôi rất vui khi được lớn lên bên cạnh chị ấy thì đúng hơn. Cạnh một nơi cảnh đẹp nữa.”

“Nói cách khác thì cậu đã say nắng.”

“Không phải nói khác đâu, mà là nói đúng đấy,” anh đáp rồi ngó lơ.Hẳn là tôi đã động chạm anh thế nào đấy, và tôi không muốn làm vậy lần nữa. Tôi muốn anh cười sảng khoái và buông thả. Thật ra, phản ứng của tôi trước anh quá mãnh liệt đến nỗi ngay lúc đó tôi đã dám chắc mình sẵn sàng làm rất nhiều việc để anh luôn vui vẻ. Tôi nhanh chóng đổi chủ đề.

“Cậu quê Chicago à?”

“Oak Park. Nghĩa là ngay trên phố ấy.”

“Với một người miền Nam như tôi.”

“Chính thế.”

“Cậu nhảy cừ lắm, anh chàng Oak Park ạ.”

“Chị cũng thế, cô nàng St. Louis.”

Bài hát kết thúc và chúng tôi tách ra để xả hơi một chút. Tôi đi đến đằng kia phòng khách nhà Kenley trong lúc Ernest nhanh chóng bị đám người hâm mộ — dĩ nhiên là toàn phụ nữ — nuốt chửng. Có vẻ như ai cũng trẻ khủng khiếp và tự tin về bản thân với kiểu tóc ngắn và đôi má rực hồng. Tôi thì giống một gái già sót lại từ thời Victoria chứ đâu còn là một cô nàng mới lớn. Tóc tôi vẫn dài thượt, túm lại sau gáy, nhưng nó có màu nâu đỏ tuyệt đẹp, và dù chiếc đầm tôi đang mặc không được thời trang cho lắm nhưng dáng người tôi có thể bù lại, tôi nghĩ thầm. Thực ra tôi đã rất tự tin về ngoại hình suốt lúc Ernest và tôi khiêu vũ với nhau — đôi mắt ấy đã tỏ vẻ thán phục mà! — nhưng giờ đây khi vây quanh anh là những cô nàng sôi nổi thì lòng tự tin của tôi mất dần.

“Cậu có vẻ thân thiện với Nesto khiếp nhỉ,” Kate xuất hiện ngay cạnh tôi và lên tiếng.

“Chắc vậy. Tớ uống hết chỗ kia nhé?” tôi chỉ ly đồ uống của cô ấy.

“Khá gắt đấy.” Cô ấy nhăn mặt rồi chuyển nó qua cho tôi.

“Loại gì vậy?” Tôi kề mặt vào vành ly nhưng không sát quá. Ngửi như mùi xăng thum thủm.

“Thứ gì đó nhà làm ấy mà. Cơn Sốt Nhỏ đưa nó cho tớ trong bếp. Tớ không đảm bảo hắn không nấu rượu trong giày hắn đâu đấy.”

Dọc một dãy dài cửa sổ, Ernest bắt đầu diễu hành tới lui trong chiếc áo choàng không tay quân đội màu xanh đậm mà ai đó vừa bới ra được. Khi anh xoay người, chiếc áo choàng xòe tung rất ấn tượng.

“Bộ đồ hay quá nhỉ,” tôi nói.

“Cậu ta là anh hùng chiến tranh đấy, cậu ta không kể à?”

Tôi lắc đầu.

“Chắc rồi cuối cùng cậu ta cũng kể thôi.” Vẻ mặt Kate chẳng tiết lộ điều gì, nhưng giọng cô hơi đanh lại.

“Cậu ta kể là đã từng mê cậu.”

“Vậy sao?” Lại cái giọng đó. “Giờ thì rõ là đã hết rồi.”

Tôi không biết giữa hai người bạn cũ này đã xảy ra chuyện gì, nhưng dù là gì đi nữa thì rõ ràng chuyện đó cũng phức tạp và được giữ kín. Tôi đành cho qua.

“Tớ rất thích nghĩ rằng mình là kiểu con gái thứ gì cũng uống được,” tôi bảo, “nhưng có lẽ với thứ được nấu trong giày thì chịu thôi.”

“Phải đấy. Đi tìm thứ gì khác đi.” Cô ấy mỉm cười, đôi mắt xanh sáng lên nhìn tôi, cô ấy trở lại là Kate mà tôi biết, không còn u ám nữa, và chúng tôi lên đường đi tìm say sưa và hoan lạc.

Tôi thấy mình để ý tìm Ernest suốt buổi tối còn lại, chờ anh xuất hiện và khuấy động không khí, nhưng anh không làm thế. Chắc hẳn anh đã chuồn đi lúc nào đó. Gần như ai cũng thế, từng người một, đến ba giờ sáng thì bữa tiệc chỉ còn lại lèo tèo vài người với Cơn Sốt Nhỏ làm trung tâm thảm họa. Anh ta lăn ra say bất tỉnh nhân sự trên trường kỷ, đôi tất len dài kéo kín mặt còn cái mũ thì vắt vẻo trên hai bàn chân bắt chéo.

“Lên giường, lên giường,” Kate ngáp dài nói.

“Câu ấy của Shakespeare à?”

“Chẳng biết nữa. Thế có phải không?” Cô ấy nấc cục, rồi phá lên cười.

“Tớ về với cái ổ chuột nho nhỏ của tớ đây. Cậu ở đây có sao không?”

“Dĩ nhiên là không sao rồi. Kenley đã dọn sẵn một căn phòng rất dễ thương cho tớ.” Tôi tiễn Kate ra cửa, và trong khi cô xỏ áo khoác, chúng tôi hẹn nhau hôm sau đi ăn trưa.

“Cậu phải kể cho tớ tất tật mọi chuyện ở nhà đấy nhé. Bọn mình vẫn chưa có phút nào rảnh ra để nói về mẹ cậu. Hẳn cậu đã phải đau buồn lắm, tội nghiệp bạn tôi.”

“Nói chuyện ấy chỉ làm tớ buồn thêm thôi,” tôi bảo. “Nhưng chỗ này đẹp quá. Cảm ơn cậu, thật bõ công cậu nài nỉ tớ tới đây.”

“Tớ cứ lo cậu chẳng đến chứ.”

“Tớ cũng tưởng vậy. Chị Fonnie nói thế' này thì hơi sớm.”

“A ừ, thể nào bà ấy chả nói vậy. Chị cậu có thể thông minh trong chuyện nào không biết, Hash ạ, nhưng riêng về chuyện của cậu thì không có đâu.”

Tôi cười biết ơn với cô ấy rồi chào tạm biệt. Căn hộ của Kenley như cái tổ kiến và đầy khách trọ, nhưng cậu đã để dành cho tôi một phòng lớn rất sạch sẽ, có giường bốn cột và tủ commốt. Tôi thay váy ngủ rồi xõa tóc ra, vừa chải vừa điểm lại những sự kiện nổi bật hồi tối. Dẫu nói chuyện với Kate rất thích, và dù rất vui khi gặp lại cô ấy, tôi vẫn phải thừa nhận rằng đứng hàng đầu trong danh sách các sự kiện đáng nhớ chính là màn khiêu vũ cùng Ernest Hemingway. Tôi như còn cảm thấy ánh mắt nâu của anh, nguồn năng lượng như điện giật của anh — nhưng phải giải nghĩa sự lưu tâm của anh tới tôi thế nào đây? Có phải anh chăm sóc tôi vì tôi là bạn cũ của Kate? Phải chăng anh vẫn còn tình cảm với Kate? Liệu cô ấy có yêu anh không? Liệu tôi có bao giờ gặp lại anh nữa không?

Thoắt nhiên tâm trí tôi tràn đầy những câu hỏi không lời đáp lúc nhúc như ong trong tổ khiến tôi phải tự cười mình. Liệu đây có đúng là điều tôi muốn khi khăn gói tới Chicago, một thứ gì đó mới mẻ để suy nghĩ chăng? Tôi quay lại nhìn tấm gương gắn trên tủ com mốt. Hadley Richardson vẫn ngồi đó, với mái tóc nâu đỏ bồng bềnh, làn môi mỏng và đôi mắt tròn nhạt màu — nhưng còn có một vẻ gì đó rất mới mẻ, một tia sáng le lói của tiềm năng. Có lẽ nắng sắp đến thật rồi. Còn lúc này đây, tôi sẽ ngâm nga bài hát của Nora Bayes và cố hết sức để giả vờ.