BA
Sáng hôm sau, tôi bước vào bếp thì thấy Ernest đang trễ nải dựa lưng vào tủ lạnh, vừa đọc báo sáng vừa ngấu nghiến nửa ổ bánh mì.
“Cậu ngủ ở đây à?” tôi hỏi, không giấu nổi vẻ ngạc nhiên khi thấy anh.“Tôi trọ ở đây mà. Chỉ một thời gian thôi, cho đến lúc công việc của tôi trôi chảy.”
“Cậu định làm gì vậy?”
“Làm nên lịch sử văn học, chắc thế.”
“Ai chà,” tôi thốt lên, một lần nữa lại hết sức ấn tượng trước sự tự tin chắc chắn của anh. Người ta không thể giả vờ có cái vẻ ấy. “Thế giờ cậu đang viết cái gì vậy?”
Anh nhăn mặt. “Giờ tôi đang viết mấy mẩu quảng cáo vớ vẩn cho Công ty Săm lốp Firestone thôi, nhưng tôi định sẽ viết những truyện ngắn quan trọng, hoặc một tiểu thuyết. Có lẽ là một tập thơ nữa.”
Câu cuối này làm tôi thấy băn khoăn. “Tôi đã nghĩ thơ thẩn là thể loại quá tĩnh lặng, rụt rè và sợ ánh mặt trời đấy,” tôi vừa nói vừa ngồi xuống.
“Không phải tập thơ này.” Anh đi ra bàn ngồi cùng tôi, xoay cái ghế' lại để ngồi giạng chân sang hai bên thành ghế. “Ai là nhà văn chị thích nhất?”
“Henry James, chắc vậy. Dường như tôi đọc đi đọc lại sách của ông mãi không biết chán.”
“Chà, chị thẳng thắn một cách đáng yêu đấy chứ nhỉ?”
“Vậy sao? Thế ai là nhà văn cậu thích nhất nào?”
“Ernest Hemingway.” Anh cười toe. “A mà có rất nhiều nhà văn nổi tiếng ở Chicago đấy. Kenley quen Sherwood Anderson. Nghe tiếng ông ta bao giờ chưa?”
“Rồi chứ. Ông ta viết Winesburg, Ohio mà.”
“Chính thế.”
“Táo gan như cậu thì chắc làm việc gì cũng được ấy chứ.”
Anh nhìn tôi vẻ nghiêm túc, như thể cố phán đoán xem tôi đang trêu anh hay muốn làm đẹp lòng anh. Tôi không trêu cũng chẳng muốn làm đẹp lòng ai. “Chị muốn uống cà phê kiểu gì hả Hasovitch?” cuối cùng anh cũng lên tiếng.
“Nóng,” tôi đáp, thế là anh toe toét cười, một nụ cười bắt đầu nơi mắt rồi lập tức truyền đi khắp mọi ngả. Một nụ cười có sức tàn phá.
Khi Kate đến để đi ăn trưa cùng tôi, Ernest và tôi vẫn đang ngồi trong bếp tán chuyện mãi không dứt. Tôi vẫn còn chưa thay đồ ngủ ra, trong khi cô ấy đứng đó chải chuốt và tươi mới trong bộ áo khoác và mũ len đỏ.
“Tớ xin lỗi nhé,” tôi nói, “sẽ không mất đến một phút đâu.”
“Cứ từ từ, cậu xứng đáng được hưởng một chút biếng nhác mà,” dù nói vậy nhưng cô ấy vẫn không bớt vẻ mất kiên nhẫn với tôi.
Tôi đi thay quần áo, và khi tôi quay lại, Kate đang ở trong phòng có một mình.
“Nesto trốn đâu rồi?”
“Chẳng biết nữa,” Kate đáp. Và rồi, vì đọc thấy rõ vẻ thất vọng trên mặt tôi, “Hay là mời cậu ta đi cùng nhé?”
“Đừng hâm thế. Hôm nay là ngày của bọn mình mà.
Rốt cuộc chúng tôi đã có một buổi chiều rất vui. Trong số bạn cùng lớp ở Học viện Mary, Kate là người bạo dạn và can đảm nhất, có thể nói chuyện với bất cứ ai và chế nhạo bất cứ chuyện gì. Cái cung cách ấy vẫn không thay đổi, thành thử khi đi dọc đại lộ Michigan cùng cô ấy, tôi cũng cảm thấy mình dạn dĩ hơn, và trẻ hơn đến mấy tuổi. Hai đứa ăn trưa ở một nhà hàng đối diện Học viện Nghệ thuật, sau đấy đi dạo. Thay vì kể về những chuyện ở nhà, tôi bảo Kate kể về mùa hè của cô ấy trên mạn Michigan.
“Sao cậu lại có hàng đống trai trẻ thế nhỉ?”
“Họ có phải là của tớ đâu, tớ chỉ mượn tạm họ thôi.” Cô ấy mỉm cười. “Như là có anh em ấy, chắc vậy. Với lại, đôi khi chuyện đó cũng phiền hà lắm. Đến nửa mùa hè tớ toàn phải đi khuyến khích người này can ngăn người kia, thành thử các dấu hiệu cứ lẫn lộn hết cả và rốt cuộc thậm chí chẳng có màn hôn hít nào. Đó, thấy chưa? Chẳng có gì mà phải ghen tị hết.”
“Thế Carl Edgar vẫn đều đặn cầu hôn cậu đấy chứ?” “A, e là vẫn. Anh chàng Edgar tội nghiệp. Đôi lúc tớ tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu tớ đồng ý — chỉ để thí nghiệm ấy mà.”
“Anh ta sẽ ngã lăn ra mất.”
“Hoặc sợ chạy mất dép, có thể lắm. Hình như có những anh chàng chỉ muốn có được các cô gái khi các cô quay đầu từ chối thôi.”
“Còn Ernest thì sao?”
“Ernest thì can hệ gì?” Mắt cô ấy thoắt nhiên nhìn tập trung hẳn.
“Cậu ta có thích kiểu phụ nữ quay đầu bỏ chạy không?”
“Chẳng biết nữa.”
“Mà cậu ta bao tuổi rồi ấy nhỉ? Hăm lăm à?”
Cô ấy nhếch mép. “Hăm hai. Một cậu nhóc. Tớ biết cậu có óc xét đoán hơn thế.”
“Ý cậu là gì?”
“Tớ nghĩ là hơi hơi có thái độ quan tâm hứng thú ở đây.” Cô ấy chằm chằm nhìn tôi rất lâu.
“Tớ chỉ đang chán thôi mà,” tôi chống chế. Nhưng khoản nói dối tôi rất kém.
“Thế mua một cái mũ mới cho hết chán có được không nhỉ?” Cô ấy nói, đoạn chỉ lên cái vật cao chất ngất đầy lông vũ mà hàng triệu năm rồi tôi đã không nhận ra mình đứng ngay bên dưới nó.
Lúc xế chiều, chúng tôi quay về căn hộ thì nơi này đã chật cứng. Kenley cùng em trai Bill, cậu út nhà Smith, đang tập hợp một chiếu bạc. Một anh chàng tên Brummy đang đánh đàn dương cầm một bản theo điệu ragtime trong lúc Ernest cùng một gã khác, Don Wright, lượn quanh nhau trên thảm trong một ván đấm bốc tự phát. Họ cởi trần, thân hình nhấp nhô đu đưa và dứ dứ nắm đấm, xung quanh là một nhóm người cổ vũ. Ai cũng cười ha hả, và cảnh này trông có vẻ phấn khích cho đến khi Ernest tung ra một cú móc. Don tránh được gần hết miếng đòn ấy, và trận đấu lại tiếp diễn trong hòa nhã, nhưng tôi đã thấy vẻ ăn thua hiện lên trên mặt Ernest khi anh tung cú đấm hồi nãy. Tôi hiểu ra, với anh trò này hoàn toàn nghiêm túc. Anh muốn thắng.
Dường như Kate chẳng thèm để tâm đến đấm bốc hay mọi trò khác đang diễn ra trong căn hộ. Có vẻ nơi này luôn điên loạn như thế vào các buổi tối, một trung tâm đàng điếm. Lệnh cấm rượu đã ban hành được hơn nửa năm rồi, và cái “thử nghiệm cao quý” đó đã khuyến khích các tụ điểm tiêu thụ rượu lậu mọc lên, mở ra thâu đêm khắp các thành phố. Người ta cho rằng chỉ riêng Chicago cũng đã có đến hàng nghìn tụ điểm như thế, nhưng ai còn cần tụ điểm khi mà Kenley, giống như nhiều thanh niên tháo vát khác, đã dự trữ đủ rượu mạnh để chuốc say cả một đàn voi? Tối hôm ấy, có hàng đống rượu khui sẵn trong bếp, thế là tôi và Kate uống một tí, rồi thêm một chút nữa. Đến lúc bóng chạng vạng nhuộm tím căn phòng thì tôi thấy mình đã bị kẹp giữa Ernest và Sừng Nhi trên tràng kỷ trong lúc hai con người đó nói chuyện qua đầu tôi bằng tiếng Pig Latin (*). Tôi không thể ngăn mình phá ra mà cười khúc khích — không hiểu lần cuối tôi cười khúc khích là khi nào nhỉ? Cười bây giờ mới dễ dàng đến say sưa sửng sốt làm sao.
“Vậy sao?” Tôi cũng không biết mình ngạc nhiên hơn hay sung sướng hơn nữa.
Anh gật đầu. “Chị có muốn đọc một thứ tôi viết không? Vẫn chưa phải là một câu chuyện đâu, giống một phác thảo hơn.” Anh rụt cổ vẻ bồn chồn và tôi nhẹ cả người đến mức suýt thì phá lên cười. Đột nhiên Ernest Hemingway là kẻ lo lắng còn tôi thì không. Không một mảy may.“Được chứ,” tôi nói. “Nhưng tôi không phải nhà phê bình văn học gì đâu nhé. Tôi không chắc có giúp được cậu không.”
“Không sao. Tôi chỉ muốn biết ý kiến của chị thôi.”“Thế thì được thôi. Đồng ý,” tôi nói.
“Tôi quay lại ngay,” anh nói rồi phóng vụt đi, đến giữa tấm thảm sàn thì anh quay đầu lại. “Đừng đi mất nhé?”
“Tôi đi đâu mới được chứ?”
“Chị sẽ ngạc nhiên đấy,” anh nói vẻ bí ẩn rồi chạy biến đi lấy bản thảo.Về cơ bản, truyện ngắn ấy không phải là truyện, anh nói đúng. Nó là một bản phác thảo hài hước một cách u tối có tên “Sói và bánh vòng”, lấy bối cảnh một nhà hàng Ý trên đại lộ Wabash. Nhưng dù chưa trọn vẹn, nó có giọng văn sắc sảo chua cay và đầy tính trào lộng. Chúng tôi vào bếp để được sáng sủa yên tĩnh hơn, và khi tôi đọc, Ernest cứ đi đi lại lại khắp phòng, hai cánh tay hết vung vẩy lại quờ quạng không trung để chờ câu trả lời cho điều anh không đủ can đảm để đặt ra: Có hay không?
Khi tôi lật trang cuối cùng, anh ngồi lên chiếc ghế' đối diện tôi vẻ đầy mong ngóng.
“Cậu có tài lắm đấy,” tôi nhìn thẳng vào mắt anh mà nói. “Có lẽ tôi đã sống quá lâu với Henry James rồi. Những gì cậu viết không giống như thế.”
“Không giống.”
“Tôi không chắc mình hiểu được hết, nhưng tôi có thể cam đoan cậu là một nhà văn. Cậu có thiên tư ấy, dù nó là cái gì đi nữa.”
“Chúa ơi, nghe chị nói thế tôi vui quá. Đôi lúc tôi nghĩ tất cả những gì tôi thực sự cần chỉ là có một người nói cho tôi rằng tôi không ngu si húc đầu vào tường. Rằng tôi có cơ hội.”
“Cậu có mà. Ngay cả tôi cũng thấy rõ.”
Anh nhìn tôi chăm chú đến nỗi như đang khoan một cái lỗ nhỏ bằng đôi mắt kia. “Tôi rất mến chị, chị biết không. Chị là kiểu người rất rõ ràng rạch ròi.”
“Tôi cũng mến cậu,” tôi đáp lời, rồi tôi chợt nhận ra mình cảm thấy thoải mái biết bao khi bên anh, như thể chúng tôi là bạn cũ, hay như thể chúng tôi đã làm thế này rất nhiều lần rồi: anh trao cho tôi bản thảo, mặt lộ rõ cảm xúc — không thể giả vờ rằng tác phẩm này không có ý nghĩa rất lớn với chính mình — còn tôi đọc những dòng anh viết mà thầm sửng sốt trước khả năng của anh.
“Tôi mời chị đi ăn tối có được không?” anh đề nghị.
“Bây giờ ư?”
“Có gì ngăn ta đi bây giờ đâu nào?”
Kate, tôi nghĩ thầm. Kate và Kenley và toàn bộ cái đám đông say bí tỉ trong phòng khách kia.
“Có ai để ý bọn mình đã đi đâu nhỉ,” anh nói khi đọc được vẻ do dự của tôi.
“Được thôi,” dù nói vậy nhưng tôi vẫn rón rén như một tên trộm khi đi lấy áo khoác. Tôi muốn đi với anh. Tôi muốn đi đến chết được, nhưng anh đã nhầm khi bảo không ai chú ý. Lúc chúng tôi cùng nhau lẻn ra cửa, tôi cảm giác như đôi mắt xanh lá của Kate đang lóe lên bỏng rẫy trên lưng tôi cùng tiếng kêu câm lặng của cô ấy, Hadley, hãy suy xét đi nào!
Tôi đã ngấy suy xét đến tận cổ rồi. Tôi không quay đầu lại.
Tôi thấy lòng vui phơi phới khi tản bộ trên những con phố Chicago giá lạnh cùng Ernest, nói chuyện mãi không dứt, má anh ửng đỏ, mắt anh rực sáng. Hai đứa tới một nhà hàng Hy Lạp trên phố Jefferson, ở đó chúng tôi thưởng thức món cừu nướng và salad dưa chuột trộn với chanh và ô liu.
“Xấu hổ thật đấy, nhưng phải thú thật là tôi chưa ăn ô liu bao giờ,” tôi nói khi cậu bồi mang món chúng tôi đã gọi ra.
“Đáng lẽ phải xếp việc chưa ăn ô liu là phạm pháp mới phải. Nào, há miệng ra.”
Anh đặt quả ô liu lên lưỡi tôi, và khi khép miệng quanh thứ quả đẫm dầu và ấm vị muối ấy, tôi thấy má mình hồng lên vì sự ngon lành của nó, và cũng vì cử chỉ thân mật này nữa, khi dĩa của anh nằm trong miệng tôi. Một cử chỉ gợi cảm nhất với tôi sau biết bao nhiêu năm ròng.“Thế nào?” anh giục giã.
“Tôi mê thứ quả này đấy,” tôi đáp. “Mặc dù nó hơi nguy hiểm, có phải không nhỉ?”Anh mỉm cười nhìn tôi đồng tình. “Hơi hơi thôi, đúng vậy.” Thế rồi anh ăn đến cả chục quả, hết trái này đến trái khác.
Sau bữa tối, chúng tôi đi dạo dưới đường tàu điện trên cao, hướng về phía cầu tàu thành phố. Anh miên man kể về các kế hoạch, về những điều anh mong muốn cho bản thân, thơ ca, truyện ngắn và bản thảo anh đang nóng lòng muốn viết. Tôi chưa từng gặp ai sôi nổi và sống động đến thế. Anh chuyển động như ánh sáng. Anh không bao giờ ngừng chuyển động — hay ngừng suy nghĩ, hay, có vẻ như, ngừng mơ ước.
Khi đến cầu tàu, chúng tôi thả bộ dọc theo nó đến tận cuối đường.“Chị có biết người ta dựng các trại lính và các đơn vị Chữ thập đỏ ở đây hồi chiến tranh không? Tôi làm cho Hội Chữ thập đỏ bên Ý lái xe cứu thương.”
“Chiến tranh cứ như lùi rất xa rồi ấy nhỉ?”
“Đôi lúc thôi.” Một nếp nhăn hiện lên trên trán anh, chẳng rõ do lo lắng hay hoài nghi. “Thế khi ấy chị làm gì?”
“Trốn đời thôi, phần lớn thời gian thì thế. Tôi phân loại sách trong tầng hầm thư viện công. Người ta bảo tôi rằng những cuốn sách đó rồi sẽ đến tay binh lính ở nước ngoài.”
“Ngộ thật. Tôi là người tận tay chuyển những cuốn sách ấy. Cả sôcôla thỏi nữa. Thư từ, thuốc lá, bánh kẹo. Chúng tôi có dựng căng tin, nhưng đôi khi tôi ra tận chiến tuyến vào ban đêm, đạp xe ra đấy. Chị hình dung nổi không?”
“Nổi. Một chiếc xe đạp màu đỏ long sòng sọc chứ gì?”
“Thằng nhóc cũng long sòng sọc sau khi bị trúng mìn nổ tung người.”Tôi dừng bước. “Ôi Ernest, tôi xin lỗi. Tôi không biết chuyện đó.”
“Đừng lo. Tôi thành anh hùng trong một hay hai ngày gì đó.” Anh tựa vào lan can và nhìn ra hồ, màu xám chồng lên màu xám, sắc trắng chỉ phảng phất. “Chị biết tôi đang nghĩ đến cái gì không?”Tôi lắc đầu.
“Lũ tằm. Một đêm nọ tôi ngủ lại San Pedro Norello, một ngôi làng ngoài mặt trận. Sừng Nhi cũng ở đó — đấy là nơi tôi gặp cậu ấy — chúng tôi đặt giường trên sàn một cái nhà, phải không nhỉ? Đó là một nhà máy nuôi tằm. Chúng ở ngay trên đầu chúng tôi, chỗ mái hiên, rào rào ăn trong những cái máng đầy lá dâu tằm. Đó là âm thanh duy nhất ta nghe được. Không bộc phá, không gì cả. Thật khủng khiếp.”
“Thế mà tôi chưa bao giờ nghĩ về lũ tằm theo cách ấy đấy. Mà có lẽ tôi chẳng nghĩ về chúng bao giờ cả, nhưng qua cách cậu nói thì giờ tôi cũng như nghe được âm thanh ấy thật.”
“Thỉnh thoảng khi mất ngủ, tôi lại tưởng như đang nghe thấy tiếng chúng ăn rỗi. Thế là tôi phải dậy bật đèn sáng trưng và nhìn lên trần nhà.”
“Thế có bao giờ thấy chúng trên đó không?” tôi mỉm cười, cố làm không khí vui lên.
“Vẫn chưa.”
Chúng tôi bỏ lại những hàng quán đèn đóm sáng trưng và quay về nhà — đó cũng là lúc tôi chợt nhận ra hiếm khi nào ta được nghe một người gần như xa lạ chia sẻ một điều hết sức quan trọng mà riêng tư như thế. Mà người ta lại kể hay tuyệt, với cảm xúc thực sự. Hình như lúc ấy tôi đã gần như chết lặng. Cái anh chàng Ernest Hemingway này thực ra là ai?
Bất thình lình anh dừng bước và quay lại nhìn tôi trên vỉa hè. “Này Hash. Chị sẽ không chạy trốn tôi chứ?”
“Tôi không có khiếu làm vận động viên lắm đâu,” tôi nói.
“Tôi thích sự mạnh mẽ của chị. Tôi đã nói điều ấy chưa nhỉ?”
“Rồi.”
“Thế thì giờ tôi muốn nói là tôi thích nó hơn cả lúc trước,” anh nói. Rồi anh trao cho tôi một nụ cười quyến rũ và lại bước tiếp, kẹp bàn tay đeo găng của tôi dưới cánh tay anh.
Sáng hôm sau Kate chẳng gõ cửa gì mà xông thẳng vào phòng tôi. Tôi thậm chí còn chưa kịp mặc áo xống tử tế.
“Tớ đã chờ đến quá nửa đêm đấy. Cậu đi đâu vậy?”
“Tớ xin lỗi. Ernest mời tớ ăn tối. Tớ chẳng biết phải từ chối thế nào.”
“Không là từ dễ nhất trên đời. Đến trẻ con học nói cũng bắt đầu từ cái từ ấy đấy.”
Tôi kéo áo choàng chặt hơn quanh eo rồi ngồi lên giường.“Thôi được rồi. Tớ không muốn từ chối được chưa. Chỉ là một bữa tối thôi mà Kate. Có hề hấn gì đâu.”
“Dĩ nhiên là không hề hấn gì,” cô ấy nói, rõ ràng là vẫn còn bực bội. “Chỉ là tớ cảm thấy muốn che chở cho cậu thôi, tớ không muốn cậu vướng vào những chuyện tệ hại.”
“Sao lại tệ hại? Trông cậu ta đâu có vẻ là người xấu.”
“Đúng là cậu ta không xấu.” Tôi có thể thấy rõ cô ấy đang cẩn trọng lựa chọn từ ngữ. “Cậu ta chỉ trẻ thôi. Cậu ta thích phụ nữ - có vẻ như là tất cả phụ nữ. Còn tớ thì thấy cậu cứ đâm đầu vào cậu ta, mù quáng tin tưởng cậu ta, tớ lo lắm.”
“Tớ chẳng đâm đầu vào ai cả,” tôi nói, đột nhiên thấy giận kinh khủng. “Tớ đi ăn tối với người ta thôi mà. Thật tình không tin nổi, Kate à.”
“Cậu đúng, cậu đúng rồi,” cô ấy vỗ về. “Tớ bị kích động quá.” Cô ấy ngồi xuống giường cạnh tôi và với lấy bàn tay tôi. “Quên những gì tớ nói đi, được chứ? Cậu là một cô gái thông minh. Cậu sẽ biết điều gì nên làm.”
“Chẳng có chuyện gì xảy ra hết.”
“Tớ biết. Tớ thật tệ.” Cô ấy xoa xoa bàn tay tôi và tôi để mặc vậy, nhưng tôi thấy đầu óc hơi quay cuồng.
“Chưa kịp ăn gì mà đã đủ thứ chuyện phải nghĩ,” tôi bồi thêm.
“Tội cho cậu quá.” Cô ấy đứng dậy, vuốt váy xống cho thẳng thớm, rồi chỉnh đem cả vẻ mặt nữa, tóm lại là uốn nắn và đơn giản hóa mọi thứ, trong lúc tôi vẫn nhìn. Thật là một mẹo hay. Giá mà tôi có thể làm như vậy.
Phần còn lại của buổi sáng trôi qua trong một cơn mê mụ, tôi cứ ủ ê suy nghĩ mãi về những lời Kate nói, về nỗi lo lắng cô ấy dành cho tôi. Liệu Ernest có thật là một người cần để ý đề phòng không? Anh có vẻ thành thực và cởi mở đến thế kia mà. Anh đã thú nhận mình có viết thơ, ôi Chúa ơi, rồi lại còn những câu chuyện về thương tích ngoài mặt trận — và cả lũ tằm nữa chứ? Chẳng lẽ toàn bộ những thứ ấy đều là một phần âm mưu tinh vi nhằm lợi dụng tôi ư? Nếu như thế thì Kate nói đúng, tôi đã tin lấy tin để, đâm đầu vào anh như một con chuột đồng ngốc nghếch — mà nhiều khả năng là có hàng chục con như thế. Tôi gần như không chịu nổi khi nghĩ về điều đó.
“Có lẽ bọn mình nên nhanh chóng ra khỏi đây trước khi có ai đến quấy đảo,” Kate nói khi chúng tôi vừa uống xong cà phê. “Hôm nay tớ được nghỉ cả ngày. Làm gì đi nhỉ? Chỉ có trời xanh là giới hạn của mình thôi.”“Tùy cậu quyết đấy,” tôi nói. “Tớ không quan tâm lắm.” Và quả thực tôi chẳng hề quan tâm.
Một kiểu con gái khác hẳn đã nghi ngờ Kate đang ghen tị gì đây, nhưng hồi ấy tôi lại rất đơn giản và tin người. Hơn thế, tôi lại còn non nớt nữa. Ở tuổi hai tám tôi cũng từng có một nhúm người theo đuổi, nhưng tôi mới chỉ yêu có một lần, và trải nghiệm ấy kinh khủng đến nỗi khiến tôi đâm ra nghi ngờ đàn ông và chính bản thân mình trong suốt một thời gian dài.
Anh tên Harrison Williams, là thầy giáo piano hồi tôi hai mươi tuổi và vừa trở về nhà ở St. Louis sau có một năm ở Đại học Bryn Mawr. Dù chỉ hơn tôi vài tháng tuổi nhưng anh lại có vẻ già dặn và thạo đời hơn tôi nhiều. Với tôi, việc anh theo học những nhà soạn nhạc nổi tiếng ở nước ngoài cũng như hiểu biết rất nhiều về nghệ thuật và văn hóa châu Âu vừa hấp dẫn lại vừa đáng sợ. Tôi có thể nghe anh nói về bất cứ thứ gì, và có lẽ chuyện đã bắt đầu như thế, bằng niềm ngưỡng mộ xen lẫn lòng ghen tị của tôi. Thế rồi tôi thấy mình cứ nhìn mãi đôi bàn tay anh, mắt anh, miệng anh. Anh chẳng đẹp mã ngời ngời kiểu Casanova, nhưng anh điển trai theo một kiểu rất riêng, dáng người cao ráo mảnh dẻ, tóc sẫm màu có xu hướng mỏng dần. Nhưng điều hấp dẫn nhất ở anh chính là anh cho rằng tôi rất xuất sắc. Anh nghĩ không chừng tôi có thể thành nghệ sĩ piano chơi ở các buổi hòa nhạc, và tôi cũng nghĩ vậy, ít nhất là trong những giờ đồng hồ ngồi trên băng ghế' piano nhà anh luyện những bản étude đến mức ngón tay tê cứng hết cả.
Vào những buổi chiều đến nhà Harrison học đàn ấy, tôi hết sức lo lắng tóc mình thế nào, ăn mặc ra sao. Khi anh đi qua đi lại chỉnh cho tôi, và thỉnh thoảng khen ngợi tôi, tôi lại cố hết sức để hiểu được ý tứ của anh. Sao anh cứ gõ nhịp đầu ngón tay lên thái dương thế kia, liệu điều đó có nghĩa là anh đã để ý thấy đôi tất mới của tôi hay không nhỉ?
“Em có dáng ngồi ghế băng thẳng thớm dễ thương lắm,” một chiều nọ anh khen tôi thế, và chỉ vậy thôi cũng khiến tôi bị cuốn vào một vòng xoáy ảo tưởng về dáng tôi trong bộ váy ren trắng, dáng anh trong bộ lễ phục đuôi tôm xỏ găng tay trắng muốt. Bị cơn mê muội của chính mình làm xao nhãng, thành thử hôm đó tôi chơi dở tệ.
Tôi yêu anh như thế được tròn một năm thì một tối nọ, toàn bộ ảo mộng của tôi tan vỡ. Chúng tôi cùng đến dự một bữa tiệc tối nhà hàng xóm, ở đó tôi ép mình dốc cạn hai ly rượu ngọt kinh khủng để đủ can đảm đến gần anh. Hôm trước đó chúng tôi đã cùng nhau đi dạo trong khu rừng ngay rìa thị trấn. Lúc ấy là mùa thu, khô ráo và lặng gió, những đám mây trên đầu trông như bản sao hoàn hảo của nhau vậy. Anh châm thuốc cho tôi. Tôi lấy đầu mũi chiếc giày buộc dây của mình di di lên mấy chiếc lá vàng, thế rồi, giữa khoảnh khắc im lặng rất đáng yêu như thế, anh lên tiếng, “Em là một người rất dễ thương Hadley à. Một trong những người tốt nhất mà tôi từng quen biết, thực lòng đấy.”Khó có thể coi đó là một lời tỏ tình, nhưng tôi tự nhủ vậy là anh có quan tâm đến mình, và tin vào điều đó — dù sao thì cũng đủ lâu để nuốt trôi ngụm rượu. Tôi chờ cho đến khi căn phòng bắt đầu chao đảo rồi tiến về phía Harrison, nhấc chân lên rồi hạ chân xuống, từng bên một, mỗi lúc một gần hơn. Tôi đang mặc bộ đầm ren đen. Đó là chiếc đầm tôi thích nhất vì nó luôn làm tôi cảm thấy mình hơi giống Carmen. Và có lẽ chính chiếc đầm cũng có tác dụng ngang chỗ rượu trong việc nâng tay tôi về phía tay áo khoác của Harrison. Trước đây tôi chưa từng chạm vào anh bao giờ, thế nên có lẽ anh dừng khựng lại chỉ đơn thuần vì ngạc nhiên mà thôi. Chúng tôi đứng đó, mắt dán vào nhau, trông đáng yêu như đôi tượng trong vườn — và trong khoảng vài chục nhịp tim, tôi tưởng như mình đang là vợ anh. Tôi đã sinh cho anh mấy đứa nhóc, giữ được lòng chung thủy của anh, tôi đã vượt xa cái ranh giới gai góc trong tâm trí mình rồi, ở nơi ấy niềm hy vọng luôn gặp trắc trở và bị nuốt chửng hết lần này tới lần khác. Tôi có thể có được điều đó. Nó đã là của tôi.
“Hadley,” anh khẽ cất lời.
Tôi ngước lên. Mắt Harrison màu xanh lơ nhạt như thể những vì sao đã chết đuối trong đó, và đôi mắt ấy đang nói không — đơn giản và lặng lẽ. Không, chỉ thế mà thôi.
Tôi đã nói gì nhỉ? Có lẽ là chẳng nói gì. Tôi không nhớ nữa. Âm nhạc tròng trành, ánh nến nhạt nhòa, tay tôi buông thõng xuống lớp ren của chiếc váy. Một phút trước nó vẫn còn là váy của cô nàng gypsy, giờ nó đã thành áo tang.
“Con đau đầu kinh khủng,” tôi nói với mẹ tôi để giải thích tại sao tôi cần về nhà ngay lập tức.
“Chuyện quá bình thường,” mẹ tôi nói, nét mặt bà giãn ra. “Mình đưa cô gái này về ngủ thôi nào.”
Về đến nhà, tôi để mẹ dắt tôi lên gác, giúp tôi chui vào chiếc váy ngủ vải muslin. Bà đắp cho tôi hàng đống chăn rồi đặt một bàn tay mát lạnh lên trán tôi, vuốt tóc tôi. “Giờ thì nghỉ ngơi đi nhé.”
“Vâng ạ,” tôi nói, vì tôi không thể lên tiếng giải thích rằng tôi đã nghỉ ngơi hai mươi mốt năm ròng rồi, nhưng tối nay tôi đã thử làm gì đó khác. Cuộc chạm trán chớp nhoáng duy nhất của tôi với tình yêu là thế đấy. Đó có phải yêu không nhỉ? Cảm giác nó mang lại khá là kinh khủng. Tôi mất tới hai năm thu mình trong vỏ ốc, hút thuốc như ống bễ, gầy rộc đi và đôi lúc nghĩ đến chuyện lao mình khỏi ban công như nhân vật nữ chính đau khổ trong một tiểu thuyết Nga. Được một thời gian, dù chậm hơn mong muốn, thì tôi cũng nhận ra Harrison chẳng phải hoàng tử tôi không với tới được mà tôi cũng không phải nạn nhân của anh. Anh không dụ dỗ tôi một chút nào; chính tôi tự dụ dỗ mình. Dẫu vậy, đến hơn nửa thập kỷ sau, cứ nghĩ về tình yêu là tôi lại tái mét và buồn nôn. Rõ ràng tôi vẫn còn khờ dại lắm, tôi cần một ai đó dìu dắt mình — như Kate chẳng hạn.
Hôm ấy chúng tôi lang thang khắp Chicago tìm kiếm món thịt bò muối đẳng cấp thế giới, rồi đến một đôi găng mới. Tôi để mặc Kate nói luôn mồm và làm tôi xao nhãng, lòng thấy biết ơn cô ấy đã cảnh báo tôi về Ernest. Kể cả khi ý định của anh hoàn toàn không có gì đáng ngờ đi nữa thì ngày đó tôi vẫn quá dễ bị tổn thương. Tôi đến Chicago vì muốn trốn chạy và tôi đã đạt được điều đó, nhưng mơ mộng quá nhiều thì quả là nguy hiểm. Tôi không được hạnh phúc nơi quê nhà, nhưng cứ đắm chìm trong những suy nghĩ ảo tưởng về Ernest Hemingway cũng chẳng giúp tôi giải quyết được vấn đề gì. Cuộc sống của tôi là của tôi; bằng cách nào đó tôi phải nhìn thẳng vào khiến nó nao núng, bắt nó làm việc cho tôi.
Tôi lưu lại Chicago thêm một tuần tròn nữa, và mỗi ngày trong quãng thời gian đó đều đem lại một niềm phấn khích mới. Chúng tôi đi xem bóng bầu dục, xem suất chiều phim Madame Butterfly, lang thang khắp thành phố hết ngày lại đêm. Cứ khi nào thấy Ernest, một chuyện xảy ra thường xuyên, là tôi lại phải cố giữ đầu óc tỉnh táo, chỉ đơn thuần tận hưởng sự bầu bạn của anh mà không gợi lên bất kỳ tấn kịch nào theo hướng này hay hướng khác. Có lẽ tôi đã tỏ ra dè dặt trước anh hơn khi xưa một chút, nhưng anh không nói gì mà cũng chẳng nài ép thân mật cho đến tận buổi tối cuối cùng tôi lưu lại thành phố.
Đêm hôm ấy trời rét thấu xương — thành thật mà nói là quá lạnh đến nỗi chẳng thể ló mặt ra ngoài — nhưng cả hội vẫn vơ lấy một đống chăn len, đổ rượu rum vào các chai bẹt rồi nhồi đống lên chiếc Ford của Kenley mà tiến thẳng đến hồ Michigan. Những đụn cát ở đó dốc đứng nhợt nhạt dưới ánh trăng, và chúng tôi sáng tạo ra một trò chơi xung quanh chúng, trèo lên đỉnh một đồi cát — dĩ nhiên là trong khi say khướt — rồi lăn lông hốc xuống như những khúc cây. Kate làm trước vì cô ấy vốn thích là người tiên phong trong bất kỳ chuyện gì, rồi tới Kenley, vừa lăn xuống vừa hát váng trời. Đến lượt tôi, tôi bò lên trong khi cát cứ trượt đi dưới bàn tay bàn chân mình. Lên đến đỉnh, tôi nhìn quanh thì thấy mọi vật chỉ là những ngôi sao mờ sáng cũng những khoảng cách.
“Làm đi nào, đồ chết nhát!” Ernest hét lên với tôi.
Tôi nhắm tịt mắt lại rồi thả mình xuống, lăn qua những mô gò cứng. Tôi đã uống nhiều quá nên chẳng cảm thấy gì — ngoại trừ cảm giác phóng túng và tự do tuyệt diệu. Thật sự mà nói thì như một dạng phê thuốc vậy, và phần lớn là nhờ cảm giác sợ hãi. Từ nhỏ đến giờ, lần đầu tiên tôi cảm thấy một luồng sợ hãi bốc lên đầu mà lại khoái vậy. Đến chân dốc, lúc tôi còn chưa dừng lại thì Ernest đã hiện ra từ bóng tối, xoay tôi đứng dậy rồi hôn tôi ngấu nghiến. Tôi cảm thấy môi anh tì lên môi tôi trong một khoảnh khắc nóng rực. “Ôi,” là tất cả những gì tôi thốt lên được. Tôi không thể nghĩ xem liệu có ai nhìn thấy chúng tôi không. Tôi chẳng nghĩ được gì cả. Mặt anh chỉ cách mặt tôi vài phân, xúc động, đanh thép và hoàn toàn tỉnh táo hơn bất cứ vẻ mặt nào tôi từng thấy trước đây.
“Ôi,” tôi lại thốt lên lần nữa, rồi anh thả tôi ra.
Hôm sau tôi xếp hành lý để về St. Louis mà lòng cảm thấy hơi hụt hẫng. Tôi đã bị cuộc sống cuốn đi trong hai tuần liền dữ dội đến nỗi thực lòng tôi không tưởng tượng nổi mình sắp trở về nhà. Tôi không muốn về.
Hôm đó Kate phải đi làm, với lại chúng tôi cũng đã chào tạm biệt nhau rồi. Kenley cũng phải đi làm nhưng đã rất tử tế đề nghị chở tôi ra ga vào giờ cậu nghỉ trưa để giúp tôi đỡ tiền taxi. Sau khi đồ đạc đã sẵn sàng gọn ghẽ đâu vào đấy, tôi khoác áo đội mũ rồi ra phòng khách chờ cậu. Nhưng khi một bóng người xuất hiện ở hành lang để đón tôi thì đó lại là Ernest.
“Thế cuối cùng Kenley không thu xếp đi được à?” tôi hỏi.
“Không. Là vì tôi muốn đưa chị đi.”
Tôi gật đầu như con ngố rồi thu gom đồ đạc của mình.
Từ đó đến ga Công Đoàn cũng không xa lắm, và chúng tôi gần như đi trong im lặng. Anh mặc quần len và áo vét len xám, mũ lưỡi trai màu tối kéo sụp xuống đến sát lông mày. Hai má anh hồng lên vì lạnh, và trông anh tuyệt đẹp. Đẹp là từ chính xác để miêu tả anh. Ngoại hình anh không nữ tính chút nào, mà hoàn hảo, trơn láng, có vẻ gì đó hào hiệp tựa như vừa bước ra từ một sử thi Hy Lạp về tình yêu và chiến trận.“Cậu cứ thả tôi ở đây cũng được,” tôi nói khi chúng tôi gần tới ga.
“Ngừng cư xử khó chịu với một chàng trai có giết chết chị không hả?” anh nói trong lúc tìm chỗ đỗ.
“Chắc là không?”
Vài phút sau, hai chúng tôi cùng đứng trên sân ga. Tôi nắm chặt vé và sổ trong tay. Anh xách va li cho tôi, đổi nó sang bên tay đeo găng — nhưng rồi ngay khi con tàu tôi sắp lên xuất hiện, cái thân nâu bạc kéo theo một dải khói và bồ hóng, thì anh thả chiếc va li xuống chân. Thoắt nhiên anh đã ôm chặt tôi vào ngực.
Tim tôi đập rộn. Tôi tự hỏi không biết anh có cảm thấy không. “Tôi cho rằng mình chưa từng gặp ai giống cậu cả,” tôi cất lời.
Anh chẳng nói chẳng rằng gì, chỉ hôn tôi, và tôi cảm nhận cả con ngươi anh tỏa ra hơi ấm và sự sống qua nụ hôn đó. Có quá nhiều điều tôi chưa biết về Ernest, và hơn cả là tôi sẽ không cho phép mình hỏi hay thậm chí tưởng tượng về anh, nhưng dẫu sao tôi thấy mình đang dần đầu hàng, từng giây từng giây một. Sân ga quanh chúng tôi toàn người là người, nhưng đồng thời chúng tôi cũng tuyệt đối đơn độc.
Cuối cùng, khi tôi lên tàu vài phút sau đó, hai chân tôi run lẩy bẩy.
Tôi tìm chỗ ngồi rồi nhìn qua cửa sổ ra đám đông bên ngoài, lướt tìm những bộ áo mũ tối màu. Rồi tôi thấy anh đứng đó, đang chen đến gần tàu hơn, vừa mỉm cười với tôi như một gã rồ vừa vẫy vẫy. Tôi vẫy lại, sau đó anh giơ một bàn tay lên mô phỏng tờ giấy và tay khác như cái bút chì rồi giả vờ viết viết.
Tôi sẽ viết cho chị, mồm anh mấp máy. Hoặc cũng có thể là Tôi sẽ viết tặng chị.
Tôi nhắm chặt mắt lại để ngăn những giọt lệ nóng bỏng bất chợt lăn xuống, rồi tôi dựa vào chiếc ghế bọc nhung trong lúc con tàu này đưa tôi về nhà.
Chú thích:
(*) * Một kiểu biến đổi thêm bớt các từ tiếng Anh theo nguyên tắc nhất định để cho vui hoặc để được nói chuyện riêng tư.