
Người Vợ Paris
Tổng số chương: 40
Điều quan trọng không phải những gì nước Pháp đem lại cho ta, mà chính là những gì đã không bị tước mất.
- GERTRUDE STEIN
Không một điều nào là đúng. Tất cả đều đúng.
- ERNEST HEMINGWAY
*Dù vẫn thường xuyên kiếm tìm, song rốt cuộc tôi cũng phải công nhận rằng Paris thật hết thuốc chữa. Một phần Paris là cuộc chiến ấy. Thế giới đã từng một lần tận diệt và bất cứ lúc nào cũng có thể lặp lại. Chiến tranh đến và thay đổi chúng ta khi ai ai cũng nói là không thể có chuyện đó. Chẳng ai rõ bao nhiêu người đã chết, nhưng khi nghe được con số - chín triệu hay mười bốn triệu - ta lại thầm nghĩ, Không thể nào. Paris đầy rẫy những bóng ma và những thương binh diễu qua diễu lại. Nhiều người trở về Rouen hoặc Oak Park, bang Illinois, từng ăn đạn và mang trong đầu gối những mảnh nhỏ xíu của những thứ đã chứng kiến, lòng tràn đầy một cảm giác trống huếch không bao giờ rũ bỏ được. Họ từng giẫm lên thây người để khiêng cáng xác chết; chính bản thân họ cũng từng nằm cáng, trên những con tàu lừ đừ đầy ruồi nhặng trôi nổi giọng nói của một gã nhờ người gửi lời chào tới cô em nơi quê nhà.
Chẳng còn quê nhà nào nữa, theo nghĩa đặc biệt, đấy cũng là trường hợp Paris. Tại sao ta không thể ngừng nốc rượu hoặc tán chuyện hoặc hôn nhầm người, dù những điều ấy có hại cỡ nào. Dăm kẻ chúng ta đã từng đối mặt với tử thần để rồi cố quên hết những gì cụ thể. Ernest là một người như vậy. Anh hay nói mình đã chết trong cuộc chiến, chỉ một chốc thôi; linh hồn anh đã rời bỏ thể xác như một chiếc khăn tay lụa tuột ra rồi lơ lửng trên vòm ngực. Nó đã quay về dù không hề được triệu hồi, và tôi thường băn khoăn liệu việc viết lách với Ernest có phải một cách để biết linh hồn anh rốt cuộc có còn đó không, đã quay về chốn cũ chưa. Một cách để anh nói với chính mình, nếu không phải với kẻ khác, rằng anh đã chứng kiến, đã cảm nhận những thứ khủng khiếp, và anh vẫn sống. Rằng anh từng chết, nhưng đã không còn chết nữa.
Ở Paris, chẳng gì sánh với việc có một ngày thăm lại chốn này. Năm 1923, chúng tôi chuyển tới Toronto, ở đấy một năm để sinh cậu con trai Bumby, và khi chúng tôi quay về, mọi thứ vẫn như cũ, nhưng dường như còn hơn cũ. Paris bẩn thỉu và hào nhoáng, đầy chuột và hoa dẻ ngựa và thi ca. Nhu cầu của chúng tôi dường như tăng gấp đôi khi có con nhỏ, nhưng chúng tôi lại hẻo tiền hơn. Pound(*) giúp chúng tôi tìm một căn hộ ở tầng hai một căn nhà quét vôi trắng trên con phố hẹp cong cong gần vườn hoa Luxembourg. Căn hộ không nước nóng, không bồn tắm, không đèn điện - nhưng đó chưa phải nơi tệ nhất chúng tôi từng ở. Còn lâu mới được coi là tệ nhất. Bên kia khoảng sân, một xưởng cưa rì rì không dứt từ bảy giờ sáng đến năm giờ chiều, luôn phảng phất mùi gỗ mới xẻ, còn mùn cưa thì chui qua bậu cửa sổ và khung cửa chính len lỏi vào quần áo, làm cả nhà húng hắng ho. Trong nhà, lúc nào cũng văng vẳng tiếng chiếc máy đánh chữ hiệu Corona của Ernest trong căn phòng nhỏ trên gác. Anh đang viết truyện ngắn — luôn có truyện hay bản thảo để mà viết — nhưng còn có cả một tiểu thuyết mới tinh về ngày hội ở Pamplona mà anh mới khởi sự hồi hè.Tôi không đọc các trang bản thảo lúc ấy, nhưng tôi tin vào cảm giác của anh cũng như tin tưởng nhịp điệu làm việc hằng ngày đó. Buổi sáng, anh sẽ dậy sớm, quần áo chỉnh tề rồi đi lên phòng trên gác bắt đầu công việc viết lách trong ngày. Nếu không có hứng ở đó, anh sẽ ôm sổ sách, vài cây bút chì vót nhọn cuốc bộ đến quán Closerie de Lilas, uống cà phê kem tươi nơi cái bàn đá hoa cương ưa thích, trong lúc tôi cùng Bumby ăn sáng rồi đóng bộ dạo phố hoặc thăm bạn bè. Đến chiều muộn thì tôi về nhà, và nếu ngày hôm đó làm việc hiệu quả, Ernest sẽ chờ sẵn ở bàn ăn, trông vô cùng mãn nguyện với ít vang Sauternes hoặc brandy pha soda, sẵn sàng nói chuyện về bất cứ điều gì. Hoặc chúng tôi để Bumby lại cho bà chủ nhà Chautard trông, dắt nhau ra phố kiếm một đĩa sò béo và một buổi tán chuyện ra trò ở mấy quán Select, Dôme hoặc Deux Magots.
Hồi ấy, mọi nơi đầy những người thú vị. Các quán cà phê ở Montparnasse thở ra người thú vị, nào họa sĩ Pháp nào vũ công Nga nào nhà văn Mỹ. Bất kỳ đêm nào ta cũng có thể thấy Picasso thả bộ từ đại lộ Saint-Germain tới căn hộ của ông trên phố Rue des Grands Augustins, luôn cùng một lộ trình ấy và luôn lặng lẽ quan sát mọi người, mọi vật. Thời ấy gần như ai cũng có cảm giác mình là họa sĩ đang thả bộ trên phố Paris, bởi vì ánh sáng ở đây mang lại cho ta cái vẻ ấy, cả bóng râm dọc theo các tòa nhà, cả những cây cầu như muốn làm tan vỡ trái tim, cả những phụ nữ đẹp như tạc diện đầm bó đen hiệu Chanel, miệng phì phèo thuốc và hất đầu cười sang sảng. Ta có thể đi vào một quán cà phê bất kỳ mà tận hưởng không khí hỗn loạn tuyệt vời ở đó, gọi rượu Pernod hoặc Rhum St. James cho đến khi chuếnh choáng say mềm và vui tới bến.
“Nghe này,” một tối nọ Don Stewart nói khi cả bọn đang vui vẻ say quắc cần câu ở quán Select. “Những gì chị với Hem đang có là hoàn hảo. Không, không đúng,” giờ thì cậu ta đã nói nhịn hết cả, khuôn mặt méo mó đầy cảm xúc. “Phải nói là thần thánh. Ý tôi là thế đấy.”
“Cậu thật tốt quá Don à. Cậu cũng rất tuyệt, cậu biết thế mà.” Tôi nắm nhẹ một bên vai cậu ta, sợ rằng cậu ta sắp khóc mất. Cậu ta là nhà văn trào phúng, mà ai cũng biết những nhà văn hài hước thường lại là loại người đa sầu đa cảm hơn hết thảy. Cậu ta chưa vợ con gì cả, nhưng đang có triển vọng rất hứa hẹn, vì vậy việc chứng tỏ cho cậu ta thấy người ta có thể có một cuộc hôn nhân thuận vợ thuận chồng là hết sức quan trọng.
Cái thời ấy không phải ai cũng tin vào hôn nhân. Việc kết hôn cũng đồng nghĩa với tuyên bố ta tin vào tương lai, và cả vào quá khứ nữa — rằng lịch sử, truyền thống và hy vọng có thể đan cài vào nhau mà nâng ta dậy. Nhưng rồi chiến tranh bùng nổ và tước mất đám thanh niên trai tráng và cả niềm tin của ta nữa. Ta chỉ còn biết quăng mình vào hiện tại, chẳng còn muốn nghĩ tới ngày mai, nói gì đến mãi mãi. Để giữ đầu óc hoạt động, đã có rượu, ít nhất phải cả một bể cồn, đã có bao nhiêu là thói hư tật xấu thông thường và một đống dây thừng để treo cổ tự tử. Nhưng vài người trong chúng ta, rất ít thôi, bất chấp tất cả vẫn đặt cược vào hôn nhân. Và cho dẫu tôi chẳng thấy mình có le lói tí thần thánh gì, tôi vẫn phải công nhận rằng những gì chúng tôi đã có thật hiếm hoi và chân thực — và rằng chúng tôi an toàn trong cuộc hôn nhân đã và đang cùng nhau vun đắp mỗi ngày.
Đây không phải truyện trinh thám — không hề. Tôi chẳng muốn nói, Hãy để mắt đến cái cô ả rồi sẽ xuất hiện và hủy hoại mọi thứ nhé, nhưng dẫu sao thì cô ta vẫn cứ xuất hiện, không nao núng trong cái áo khoác lông sóc chuột đắt tiền và đôi giày đẹp đẽ, bộ tóc nâu bóng mượt cụp sát vào mái đầu xinh xắn, cô ta trông như một con rái cá xinh đẹp trong căn bếp của tôi. Nụ cười vô tư của cô ta. Cách nói chuyện thông minh nhanh nhảu của cô ta — lúc ấy trong phòng ngủ, lôi thôi và xồm xoàm, nằm thượt trên giường như một bạo chúa, Ernest cứ thế đọc sách mà chẳng thèm đoái hoài đến cô ả. Mới đầu thì không. Thế rồi trà trong ấm sẽ sôi, tôi sẽ kể về cô nàng mà cả tôi lẫn cô ta quen từ trăm năm trước ở St. Louis, và cả hai nhanh chóng thấy mình như thể bạn bè từ lâu lắm trong lúc bên kia sân, trong xưởng cưa, một con chó bắt đầu sủa nhặng lên và cứ thế sủa mãi như thể không bao giờ ngừng.
Chú thích:
Ezra Pound (1885-1972): nhà thơ, nhà phê bình biệt xứ người Mỹ, một đại diện xuất sắc của trào lưu thơ mới Anh Mỹ đầu thế kỷ XX. Pound sống ở Paris từ 1920 đến 1925.
Danh sách chương
- MỞ ĐẦU Nguyên tác : The Paris Wife
- HAI
- BA
- BỐN
- NĂM
- SÁU
- BẢY
- TÁM
- CHÍN
- MƯỜI
- MƯỜI MỘT
- MƯỜI HAI
- MƯỜI BA
- MƯỜI BỐN
- MƯỜI LĂM
- MƯỜI SÁU
- MƯỜI BÀY
- MƯỜI TÁM
- MƯỜI CHÍN
- HAI MƯƠI
- HAI MƯƠI MỐT
- HAI MƯƠI HAI
- HAI MƯƠI BA
- HAI MƯƠI TƯ
- HAI MƯƠI LĂM
- HAI MƯƠI SÁU
- HAI MƯƠI BẢY
- HAI MƯƠI TÁM
- HAI MƯƠI CHÍN
- BA MƯƠI
- BA MƯƠI MỐT
- BA MƯƠI HAI
- BA MƯƠI BA
- BA MƯƠI TƯ
- BA MƯƠI NĂM
- BA MƯƠI SÁU
- BA MƯƠI BẢY
- BA MƯƠI TÁM
- BA MƯƠI CHÍN
- BỐN MƯƠI