BA MƯƠI BA
Cuối tháng Tám, Paris gần như bị bỏ hoang. Những ai có thể ở nơi khác thì đều đã đi cả, nhưng cả Pauline Pfeiffer và Kitty đều ở lại thành phố để làm việc. Ba chúng tôi thường hay hẹn hò ăn tối, có lúc cho cả Bumby đi cùng, có lúc chỉ sau khi nó đã đi ngủ dưới sự trông nom của Marie Cocotte. Mặc dù ban đầu tôi luôn cảm thấy không thoải mái khi ở bên cạnh cặp đôi Pauline và Kitty – hai cô gái hiện đại thấy rõ, sành điệu và tự lập – nhưng hóa ra cả hai người
họ đều không hề kiểu cách và thẳng thắn tuyệt vời. Đó cũng là lý do họ thích tôi, họ khăng khăng như vậy và tôi cũng bắt đầu tin vào điều đó.
Thỉnh thoảng, Jinny, em gái của Pauline, gặp chúng tôi ngoài quán, và tôi nhận ra hai chị em họ rất hài hước khi ở bên nhau, cứ như thể họ là một màn tạp kỹ sành điệu với những mẩu chuyện cười tục tĩu nho nhỏ. Họ uống rượu cũng rất giỏi, chẳng bao giờ làm bẽ mặt chính họ hay người khác, và luôn có điều gì đó thú vị để nói. Jinny hiện không ràng buộc với ai cả, và nếu như Kitty đúng khi cho rằng cô ấy thích phụ nữ, thì điều đó cũng hợp lý thôi. Điều khó lý giải hơn là tại sao Pauline vẫn chưa lập gia đình.
“Mọi chuyện gần như đã đâu vào đấy với anh họ em, Matt Herold,” một hôm Pauline bộc bạch khi tôi gặng hỏi cô ta. “Thậm chí em đã thiết kế váy vóc và nếm thử cả nửa tá bánh cưới.”
Cô ta rùng mình.
“Đương nhiên tất cả đều có vị giống bánh.”
“Có chuyện gì kinh khủng xảy ra giữa hai người à?” tôi hỏi.
“Không. Chính ra như thế thì mọi chuyện dễ dàng hơn. Chỉ là em nghĩ mình không có đủ tình yêu dành cho anh ta. Em thích anh ta. Anh ta có lẽ đã trở thành một người chu cấp tuyệt vời và một người cha tốt. Em có thể hình dung ra tất cả, nhưng chưa bao giờ cảm nhận được. Không cảm nhận được thực sự ấy. Em muốn một thứ gì đó lớn lao và choáng ngợp.”
“Thứ tình yêu cô chỉ có thể tìm thấy trong tiểu thuyết?”
“Có lẽ vậy. Chắc điều đó khiến em chẳng khác nào con ngốc.”
“Không hề. Tôi thích sự lãng mạn. Phụ nữ thời nay dường như quá tân tiến để mà lãng mạn.”
“Cảm giác ấy rất chi là hoang mang, biết rõ điều ta muốn trong khi có quá nhiều sự lựa chọn. Đôi lúc em nghĩ mình mau chóng từ bỏ hôn nhân mà làm việc thôi. Em muốn trở nên có ích.” Pauline dừng lại và tự cười mình.
“Em nghĩ em cũng đã đọc điều đó trong tiểu thuyết.”
“Có lẽ cô có thể có mọi thứ mình muốn. Tôi thấy cô rất thông minh.”
“Để xem sao,” cô ta nói. “Còn ngay lúc này thì chúng em sẽ chỉ là hai cô gái độc thân thôi.”
“Thỏa sức tung tẩy?”
“Tại sao lại không?”
Thật buồn cười khi nghĩ về chính mình theo cách ấy. Ernest chắc chắn sẽ không bằng lòng, tôi tự hỏi anh sẽ nghĩ sao về việc tôi dành quá nhiều thời gian bên Pauline. Nếu như với anh Kitty là quá chưng diện thì hiển nhiên Pauline cũng không khác gì. Cô ta là kiểu phụ nữ xinh đẹp một cách chuyên nghiệp mà nói chung anh thường coi khinh. Cô ta không chỉ luôn miệng nói về thời trang mà còn luôn dùng mưu mẹo để tiếp cận những người thú vị nhất và ngầm đánh giá xem liệu họ có đem lại lợi ích gì cho mình không, cặp mắt đen chụp lại tất cả, tâm trí xoay chuyển một cách linh lợi. Dường như đối với Pauline không có gì là bột phát. Nếu cô ta nhìn thấy anh, thì đó là cô ta muốn thế. Nếu Pauline nói chuyện với anh thì cô ta đã biết trước mình phải nói sao cho thật sắc sảo và hoàn hảo. Tôi ngưỡng mộ sự tự tin của cô ta đồng thời cũng hơi choáng ngợp bởi nó, có lẽ vậy. Cô ta có cái dáng điệu rất tự nhiên không cần cố gắng mà thực ra phải tốn rất nhiều công sức mới có được. Và mặc dù tôi luôn không biết phải nói gì quanh những người phụ nữ giống cô ta – như Zelda chẳng hạn – đằng sau bộ quần áo đắt tiền và mái tóc được tạo kiểu rất mốt của Pauline, cô ta lại rất thẳng thắn và tinh tế. Tôi biết Pauline sẽ không bỏ rơi tôi bất cứ lúc nào và nhanh chóng cảm giác mình có thể tin tưởng vào cô ta.
Giữa tháng Chín, Ernest trở về nhà sau chuyến đi Madrid với dáng vẻ mệt mỏi nhưng đầy hân hoan. Tôi ngắm nhìn anh tháo dỡ hành lý và không khỏi kinh ngạc trước những gì anh đã đạt được. Có bảy cuốn sổ tay, hàng trăm trang giấy kín chữ, và tất cả được hoàn thành trong sáu tuần.
“Anh đã viết xong chưa, Tatie?”
“Cũng sắp rồi. Anh đã gần hoàn thiện đến mức không thể bắt mình viết nốt cái kết. Nghe có kỳ cục không?”
“Em đọc luôn được chứ?”
“Sớm thôi,” anh nói. Rồi kéo tôi vào lòng mình ôm thật lâu và thật chặt.
“Anh cảm giác như mình có thể ngủ mãi mãi.”
“Vậy thì anh cứ ngủ đi,” tôi nói, nhưng anh kéo tôi lại bên giường và bắt đầu giật mạnh quần áo tôi, tay anh đưa đến mọi chốn.
“Em tưởng anh đang mệt,” tôi tiếp tục nói nhưng anh nhanh chóng trao cho tôi một nụ hôn ngấu nghiến, và tôi không nói gì thêm nữa.
Một tuần sau, Ernest đã hoàn thành bản nháp đầu tiên, chúng tôi đến khu Latinh(*) để ăn mừng với bạn bè. Bọn tôi gặp nhau ở quán Negrè de Toulouse và tất cả mọi người đều rất phấn khích. Scott và Zelda cũng đến, cùng với Ford, Stella, Don Steward, Harold và Kitty. Mới đầu cũng có một vài giây phút lúng túng khi mọi người đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra. Pamplona đã kết thúc trong buồn bã, nhưng sau khi đồ uống được mang ra và vài ly rượu nhanh chóng bị nốc cạn thì buổi tiệc cũng dần trở nên thư thái hơn. Ernest uống hơi nhiều whiskey nhưng vẫn cố gắng cư xử lịch sự cho tới cuối buổi tối khi chúng tôi gặp Kitty ở cửa ra vào.
“Chúc may mắn với cuốn sách nhé Hem.”
“Cảm ơn,” anh nói. “Nó chứa đầy hành động, kịch tính và tất cả mọi người đều có mặt trong đó.” Anh ra hiệu về phía Bill và Harold. “Tôi sẽ đầy ải những tên chó má đó xuống tận địa ngục, nhưng không phải cô, Kitty. Cô là một cô gái tuyệt vời.”
Giọng anh quá lạnh và sắc, mặt Kitty trở nên trắng bệch. Tôi kéo tay Ernest ra khỏi cửa, trong lòng cảm thấy xấu hổ vô cùng.
“Sao thế?” anh nói. “Anh đã làm gì nào?”
“Anh say rồi,” tôi nói, “sáng mai hãy nói chuyện.”
“Anh cũng đang có ý định ngày mai sẽ say tiếp.” Ernest nói.
Tôi chỉ tiếp tục rảo bước cùng anh về nhà, biết chắc rằng sáng mai anh sẽ hối hận và đau đầu như búa bổ.
Tôi đã đúng.
“Đừng để bị tổn thương bởi những gì anh nói với Kitty nhé,” Ernest nói vậy sau khi tỉnh giấc vào gần trưa với vẻ mặt xanh xao. “Anh là một thằng khốn nạn.”
“Đó là một đêm trọng đại. Anh nên được miễn tội.”
“Dù anh có nói gì thì đó cũng chỉ là một cuốn sách. Nó không phải đời thực.”
“Em biết,” tôi nói vậy, nhưng khi anh đưa tôi đọc bản thảo, tôi lập tức nhận ra mọi thứ giống y hệt như hồi ở Tây Ban Nha, mọi cuộc đối thoại hèn hạ, mọi trận đối đầu căng thẳng. Tất cả đều gần y như thật, ngoại trừ một chi tiết – tôi hoàn toàn không có mặt trong đó.
Duff là nhân vật chính. Tôi đã biết trước và sẵn sàng đón nhận chuyện này, nhưng vẫn thật khó chịu khi phải đọc đi đọc lại tên cô ta. Anh vẫn chưa đổi nó thành Công nương Brett. Duff vẫn là Duff, Harold vẫn là Harold, và Pat là một kẻ say xỉn, tất cả đều trong tình trạng tồi tệ ngoại trừ các võ sĩ đấu bò.
Kitty cũng có mặt trong cuốn sách – anh đã nói dối về việc này – trong một vai không lấy gì làm hãnh diện. Ernest đã tự biến mình thành Jake Barnes và cho Jake thành một kẻ bất lực, tôi sẽ phải nghĩ sao về việc này đây? Đó có phải là cách anh nhìn nhận đạo đức, sự yếu hèn, lý trí mạnh mẽ hay là bất cứ cái gì đi chăng nữa đã ngăn anh không ngủ với Duff – như là sự bất lực?
Nhưng nếu như có thể lùi ra xa khỏi những ngờ vực chất vấn này dù chỉ một chút thôi, tôi sẽ thấy được đây quả thực là một tác phẩm đáng giá, sống động và thú vị hơn bất cứ thứ gì anh từng viết. Anh đã nhìn ra một câu chuyện thú vị ở Pamplona khi mà tôi chỉ thấy ở đó toàn thảm họa và sự hỗn loạn của con người. Anh đã tạo hình cho nó, biến nó trở thành một thứ lớn lao hơn, một thứ sẽ trở thành vĩnh cửu. Tôi cảm thấy tự hào về anh khủng khiếp, nhưng đồng thời cũng thấy tổn thương và bị cuốn sách bỏ rơi. Những cảm xúc này tồn tại đan xen vào nhau một cách rối rắm, nhưng không có cái nào thật hơn cái còn lại.
Tôi đọc những trang viết trong tâm thế háo hức nhưng cũng đầy lo sợ, tôi thường phải dừng lại, đặt bản thảo xuống và chấn chỉnh lại mình. Ernest đã làm việc chăm chú và cô độc đến nỗi bất kỳ sự chậm trễ nào trong việc đưa ra lời nhận xét đều khiến anh mòn mỏi.
“Có hay không?” anh hỏi ngay khi tôi vừa đọc xong.
“Anh nhất định phải biết.”
“Còn trên cả tuyệt vời, Tatie à. Chưa từng có gì giống như thế trước đây.”
Ernest mỉm cười nhẹ nhõm và hãnh diện, rồi sau đó reo lên một tiếng nho nhỏ.
“Anh sẽ bị nguyền rủa mất,” anh nói.
Bumby đang ở ngồi trên sàn nhà gần đó, miệng gặm một đầu máy xe lửa đồ chơi chạm bằng tay, quà tặng của Alice và Gertrude. Ernest ôm lấy thằng bé, nhấc bổng nó lên trần nhà, và Bumby ré lên vui sướng, đôi má hồng phính ra.
“Papa,” nó nói. Đó là từ đầu tiên Bumby nói, và từ bấy đến giờ thằng bé rất hay nói từ này. Ernest cũng thích được gọi như thế.
“Papa đã viết một cuốn sách rất hay,” Ernest cười nói với Bumby, lúc này đang trở nên mỗi lúc một hồng hào.
“Hôn Papa cái nào,” tôi nói, thế là Bumby, lúc này đang sung sướng vặn vẹo trong vòng tay Ernest, hôn chi chít lên mặt Ernest.
Đó quả thực là một giây phút tuyệt vời, cả ba chúng tôi dàn hàng cùng ngắm nhìn ngôi sao rực rỡ trên bầu trời, thế nhưng đêm đó, khi tôi nằm trên giường cố hết sức mà không ngủ nổi, những mối ưu tư lại tràn về không để tôi yên. Tôi đã bị loại khỏi cuốn sách ngay từ những trang, những chữ đầu tiên. Tại sao Ernest lại không mảy may nghĩ tới việc tôi sẽ bị tổn thương
hay cảm thấy ghen tị? Phải chăng anh cho rằng tôi hiểu việc câu chuyện cần một nhân vật nữ chính thật lôi cuốn, và tôi không phải là người đó? Ernest chắc chắn không theo chân tôi mà kè kè cuốn sổ trong tay, ghi chép lại mọi điều hay ho mà tôi nói ra như anh đã làm với Duff. Nghệ thuật là nghệ thuật, nhưng Ernest đã tự nói gì với chính mình? Tôi cần phải biết.
“Tatie,” tôi nói trong màn đêm, phần nào đó mong chờ rằng anh đã ngủ say. “Em đã bao giờ xuất hiện trong cuốn sách chưa?”
Vài giây im lặng trôi qua, và rồi, rất mực nhẹ nhàng, Ernest nói, “Chưa, Tatie. Anh xin lỗi nếu điều đó làm em phiền lòng.”
“Anh có thể nói cho em tại sao không?”
“Không hẳn. Ý tưởng tự đến với anh, không phải là ngược lại. Nhưng anh nghĩ có thể là do em chưa bao giờ ngập trong đống nhớp nhúa ấy. Em không thực sự ở trong câu chuyện, nói vậy nghe có lý không, mà em ở trên nó, tốt đẹp hơn tất cả lũ chúng anh.”
“Em không cảm thấy như vậy, nhưng đó là một ý nghĩ rất đáng yêu. Em muốn tin vào nó.”
“Vậy thì em cứ tin đi,”
Ernest trở mình nằm nghiêng, đôi mắt mở to của anh tìm mắt tôi trong màn đêm.
“Anh yêu em. Tatie. Em là điều tốt đẹp nhất anh có.”
Tôi thở dài trước những lời anh nói, cảm giác ngờ vực đã vơi đi phần nào. “Em cũng yêu anh.”
Những tuần sau đó, Ernest tiếp tục làm việc với cuốn tiểu thuyết, siết chặt ngôn từ, loại bỏ nguyên nhiều đoạn. Anh dành toàn bộ tâm trí cho nó, và bởi vì anh đang bị phân tâm như vậy, tôi đã cảm thấy sung sướng khi có bạn bè xung quanh làm bầu bạn. Rốt cuộc có vẻ như anh không ghét Pauline, và tôi thấy biết ơn vì điều đó.
“Cô ta huyên thuyên về Chanel quá nhiều,” anh thừa nhận, “nhưng cô ta lại rất thông minh khi nói về sách. Cô ta biết mình thích gì, và hơn thế, cô ta biết tại sao. Điều này quả thực rất hiếm, nhất là trong thời đại này, khi mà ai ai cũng nói những lời sôi nổi nhưng rỗng tuếch. Ta chẳng biết nên tin vào ai.”
Được Ernest tán thành, Pauline bắt đầu đến chơi với tôi ở xưởng cưa vào các buổi chiều. Chúng tôi sẽ dùng trà trong khi Bumby chơi hoặc ngủ, đôi khi cô ta cùng tôi đến hiệu nhạc cụ nơi tôi luyện piano với cây đàn đi mượn.
“Chị chơi hay thật đấy,” một hôm Pauline nói khi tôi vừa đàn xong. “Đặc biệt là bản Busoni. Em suýt nữa thì bật khóc. Tại sao chị chả bao giờ biểu diễn vậy?”
“Tôi không thể tiến bộ thêm được. Đơn giản là tôi chơi chưa đủ hay.”
“Chị vẫn có thể mà. Chị nên làm vậy.”
“Cô thật đáng yêu, nhưng không phải đâu.” Tôi duỗi ngón tay ra rồi đóng cuốn nhạc lại. “Dù sao thì đây cũng là cuộc đời của tôi. Tôi không mong muốn nó khác đi.”
“Vâng, nếu là chị thì em cũng sẽ như vậy,” Pauline nói, nhưng một lát sau, khi chúng tôi đang đi bộ từ cửa hàng về, cô ta vẫn vương vấn ý nghĩ ấy.
“Chị có thể chơi nhạc nghiêm túc hơn mà không phải đánh đổi bất cứ điều gì,” cô ta nói.
“Một buổi biểu diễn đâu phải thứ gì đó quá nghiêm trọng. Mọi người ai cũng yêu mến chị. Họ đều muốn thấy chị thành công.”
“Sẽ tốn thêm rất nhiều thời gian và công sức,” tôi nói,
“Và tôi sẽ cần phải có một cây đàn piano riêng.”
“Đằng nào chị cũng phải có cho riêng mình một cái. Chắc chắn Hem phải biết điều đó chứ. Em có thể nói chuyện với anh ấy nếu chị muốn.”
“Để xem đã,” tôi nói. “Tôi sẽ suy nghĩ về việc này.”
Nỗi khao khát được chơi nhạc trước người khác không thuyên giảm là bao, ngược lại càng ngày tôi càng băn khoăn không biết một buổi hòa nhạc có thật sự tốt cho mình hay không – đặc biệt ở thời điểm hiện tại, khi mà Ernest đang rất chú tâm vào cuốn tiểu thuyết của mình. Cuốn sách xóa nhòa mọi suy nghĩ khác trong đầu anh và len lỏi cả vào những lúc chúng tôi đang làm tình. Giây phút này tôi có thể cảm nhận thấy anh bên tôi, trong tôi, nhưng phút sau anh đã biến mất, tan biến vào cái thế giới mà anh đang tạo dựng.
Việc tôi chơi nhạc sẽ chẳng thể thay đổi được những thói quen của anh – tôi chưa đến mức quá ngây thơ để tin vào điều đó – nhưng tôi chợt nghĩ nó sẽ đem lại cho tôi một mục tiêu, một chí hướng riêng, bên cạnh lịch cho ăn và tập thể dục của Bumby. Tôi yêu công việc làm mẹ, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi không thể có những mối quan tâm khác. Stella lo liệu điều này một cách hoàn hảo. Nói đúng hơn là cô là típ vợ kiểu mới, còn tôi là loại lỗi mốt quê kệch.
Thật trớ trêu thay khi nghĩ rằng tất cả những người phụ nữ tôi quen biết bây giờ đều trực tiếp đóng góp vào cuộc vận động vì phụ nữ mà mẹ tôi làm hàng chục năm trước, ngay trong phòng khách nhà chúng tôi, trong khi tôi đang cuộn mình đọc sách và cố trở nên vô hình. Có lẽ tôi sẽ không bao giờ có đủ tiêu chí để trở thành một người phụ nữ thực sự hiện đại, nhưng tôi có cần phải cố gắng giấu mình một cách tự nguyện như vậy không? Chẳng nhẽ tôi không thể thử nghiệm dù chỉ một chút để biết được có điều gì khác phù hợp hơn hay không, nhất là khi tôi có những người bạn tốt yêu quí tôi, như Pauline đã chỉ ra, và mong muốn tôi được thành công?
Quãng thời gian sau đó, Pauline lần lượt giới thiệu chúng tôi với những bạn bè giàu có của cô ta ở khu hữu ngạn, như Gerald và Sara Murphy. Gerald là một họa sĩ, nhưng hơn thế, anh ta còn là biểu tượng của gu thẩm mỹ cao và cuộc sống xa hoa. Anh ta và Sara đến Paris năm 1921, và mặc dù họ có một căn hộ tuyệt đẹp trên đường Quaides Grand-Augustins nhưng cặp vợ chồng này lại hay di cư xuống miền Nam nước Pháp, nơi họ đang xây dựng một điền trang trên sông Raviera ở Antibes. Gerald từng theo học ngành kiến trúc, và căn biệt thự, Villa America, sẽ là bản giao hưởng của nhà Murphy, thứ đẹp đẽ nhất họ có thể tưởng tượng ra và đủ khả năng chi trả – chuyện này họ thừa sức. Pauline còn giới thiệu chúng tôi với nhà thơ Archibald MacLeish và Ada, người vợ duyên dáng của anh, cô hát hay, thậm chí nghe như một ca sĩ chuyên nghiệp, và diện những bộ váy đính cườm đẹp nhất mà tôi từng được nhìn thấy.
Tôi đã rất ngạc nhiên trước sự khoan dung của Ernest với những người bạn mới này. Khi ở riêng anh hay gọi họ là “lũ nhà giàu”, nhưng anh không thể không đáp trả sự quan tâm mà anh nhận được từ phía bọn họ. Cuốn Trong thời đại chúng ta ra mắt ở Mỹ vào đầu tháng Mười, và không lâu sau có thể bắt gặp chúng trong các hiệu sách khắp Paris. Những lời phê bình đều rất khả quan, họ gọi Ernest là nhà văn trẻ đáng chú ý. Tương lai của anh ngày một sáng lạn hơn, nhưng những người bạn mới này không phải là lũ theo đóm ăn tàn đơn thuần. Họ không cảm thấy thỏa mãn với việc sưởi tay bằng ngọn lửa thành công của Ernest, họ muốn là thổi bùng ngọn lửa lên.
Trong lúc đó, Pauline bắt đầu đến xưởng cưa để ăn tối một tuần vài lần, và thỉnh thoảng Ernest lại gặp cô ta ở tiệm cà phê. Tôi thấy nhẹ cả người khi mối quan hệ của họ có vẻ tự nhiên và có qua có lại. Tôi chưa bao giờ muốn cãi nhau với Ernest về Kitty, nhưng anh sẽ không xoay chuyển. Cô đã và sẽ luôn là “con khốn dát vàng” đối với anh, nhưng Pauline làm Ernest bộc lộ vẻ dịu dàng, ân cần hơn. Anh bắt đầu gọi Pauline là Pfife, và tôi cũng vậy. Còn đối với Bumby thì cô ta là Tante Pfife, và Pauline cũng có những biệt danh cho chúng tôi. Ernest là Papa hay Drum, còn tôi là Hash và Dulla. Cùng với nhau, chúng tôi là những con người đáng yêu, là nguồn vui của cô ta.
Khi thu dần chuyển sang đông, và sự ẩm thấp của Paris len lỏi qua khung cửa sổ và dưới khe cửa, Ernest quyết định sẽ cất cuốn tiểu thuyết Pamplona đi.
“Anh không thể nhìn nó nữa. Anh không biết nó hay hay dở ở chỗ nào. Nó phải tự nung nấu một thời gian.” Anh thở dài và gãi gãi bộ ria mép, vốn gần đây trở nên rập rạp và bất trị, nhưng cuốn hút theo kiểu hơi man rợ.
“Anh đang định bắt đầu một thứ gì đó hoàn toàn mới lạ. Một thứ gì đó khôi hài.”
“Khôi hài có lẽ sẽ hợp với Don và Harold, nhưng em không nghĩ là nó hợp với anh.”
“Tác phẩm đầu tiên mà em đọc của anh là truyện hài mà. Em đang thấy nó rất chán đấy à?”
“Hoàn toàn không phải vậy. Chỉ có điều tác phẩm của anh tỏa sáng hơn khi nó mang chất kịch tính.”
“Anh không chắc về việc đó đâu,”
Ernest nói và ngay lập tức bắt tay vào làm việc. Tôi không biết trong đầu anh thực sự đang nghĩ gì, cũng chẳng hay anh sẽ gạt ý nghĩ ấy sang một bên nhanh đến mức nào. Chỉ sau hai tuần anh đã có một bản nháp hoàn chỉnh cuốn Lũ xuân, một tác phẩm giễu nhại cuốn sách mới nhất của Sherwood Anderson, Tiếng cười thâm độc. Nhưng việc hoàn thành nó không làm cho bước tiếp theo dễ dàng hơn chút nào. Anh không chắc mình đang có gì hay phải đưa nó cho ai xem. Có thể người ta sẽ hiểu nhầm và nghĩ tác phẩm có ý đồ thấp hèn.
“Em rất muốn đọc,” tôi nói. “Em sẽ giữ một cái nhìn cởi mở.”
“Anh xin lỗi, Tatie. Anh không chắc là em có thể làm được vậy.”
“Nó tệ đến vậy sao?”
“Anh không thể nói trước được điều gì. Anh sẽ đưa nó cho Scott và có thể là cả Dos nữa.” Rủi thay, họ không có vẻ gì là thích thú với dự án và khuyên Ernest đừng có cố chữa lợn lành thành lợn què. Cuốn sách của Anderson có thể ngớ ngẩn và ủy mị thật đấy, họ cũng đồng ý vậy, nhưng ông là một tài năng lớn và đã làm nhiều điều để đảm bảo cho tương lai của Ernest, sẽ thật bất công khi công kích ông. Làm thế thì có ích gì?
“Mục đích ở đây,” Ernest nói, “đó là cuốn sách của ông ấy là một thứ thối nát và đáng bị lên án, và nếu có ai định làm việc đó thì sao không phải là một người bạn?”
“Đó là một cách nhìn nhận rất khôi hài,” Scott nói.
“Tôi đã bảo với cậu rồi, hãy thôi đi.”
Không nản chí, Ernest đem bản thảo đến nhà Murphy và đọc to nó lên trong khi Gerald cố tỏ ra không sửng sốt còn Sara thì ngủ gật khi đang ngồi thẳng trên sofa trong bộ đầm ngủ lụa màu nhạt. Tôi lắng nghe với nỗi khiếp sợ ngày một lớn dần. Khi Ernest đọc xong, Gerald hắng giọng vài tiếng, và y như một nhà ngoại giao, anh ta nói, “Nó không phù hợp với tôi lắm, nhưng tôi nghĩ người khác sẽ thích nó.”
“Anh đang giết chết tôi đấy,” Ernest nói.
Gerald quay sang hỏi tôi. “Cô nghĩ sao hả Hadley?
Cô có óc nhận xét rất sắc bén mà?”
“Thật ra thì,” tôi cố lẩn tránh. “Nó không được khoan dung cho lắm.”
“Chính thế,” Gerald bắt ngay lấy.
“Nó không được viết một cách khoan dung,” Ernest nói. “Nó được viết một cách khôi hài.”
“Chính thế,” Gerald lại nói tiếp.
Tôi có một giả thuyết riêng rằng Ernest viết cuốn sách thực ra là để tự tách mình ra khỏi Sherwood và vượt khỏi cái bóng của ông. Bạn bè và các nhà phê bình thường hay nhận xét là lối viết của Ernest rất giống với Anderson, và điều này làm anh tức phát điên. Anh không muốn bị so sánh với bất cứ ai, đặc biệt là một người bạn thân và rất thành công với các tác phẩm của mình. Ernest rất biết ơn sự giúp đỡ của Sherwood, anh thề thốt như vậy, nhưng không mắc nợ ông. Những tác phẩm của anh là của riêng mình anh, và Ernest sẽ chứng minh điều đó một lần và mãi mãi.
Tuyệt vọng trong việc tìm được ai đó đồng ý với quan điểm của mình về cuốn Lũ xuân, Ernest tìm đến Gertrude, nhưng thời gian qua mối quan hệ giữa họ vốn không được tốt cho lắm và đây là giọt nước tràn ly. Sau khi nghe anh kể về chuyện đã xảy ra, tôi cảm thấy rất đau khổ. Bà gần như đã tống cổ Ernest khỏi nhà mình, miệng nói, “Thật đáng khinh, Hem, lẽ ra cậu nên biết điều gì là phải.”
“Thế sao?” anh cố cười cho qua chuyện.
“Tôi cũng từng nghĩ vậy. Cậu đã từng rất tận tâm với các tác phẩm của mình. Giờ cậu thật xấu tính, nhẫn tâm, chỉ quan tâm đến địa vị và tiền bạc.”
“Đừng ra vẻ đạo đức giả. Bà rất muốn được giàu có mà.”
“Tôi rất muốn được giàu có,” bà đồng ý. “Nhưng tôi sẽ không làm bất cứ việc gì để đạt được điều đó.”
“Ý bà là việc hạ bệ bạn bè mình?”
Đến đây thì bà im lặng.
“Tôi hiểu rồi. Bà đã vẽ nên một bức tranh rất đẹp về tôi lúc này.”
Ernest giận dữ lao ra ngoài, và khi về nhà thì ban đầu anh thậm chí còn không muốn nói về chuyện đó. Nhưng anh cất cuốn sách vào ngăn kéo và tôi nhẹ cả người khi thấy anh đã dứt điểm với nó.
Lúc này đã gần Giáng sinh. Chúng tôi chuẩn bị quay trở về Schruns và ở đó cho đến mùa xuân, và Ernest dồn hết tâm sức vào việc lập kế hoạch.
“Sao chúng ta không rủ Pauline đi cùng,” anh đề nghị. “Em sẽ vui hơn nhiều nếu cô ấy ở đó.”
“Em rất thích. Anh thật ngọt ngào khi nghĩ cho em như vậy.”
Chúng tôi cũng mời cả Jinny nữa, vì hai chị em họ thường đi theo cặp, nhưng Pauline trấn an bọn tôi rằng Jinny sẽ đi Nîmes với mấy người bạn khác. Chính Pauline cũng rất vui khi được mời. Cô ta rất háo hức mong chờ chuyến đi.
Chú thích:
(*) Khu Latinh hay quận Latinh là một khu phố thuộc quận 5 Paris. Nằm ở tả ngạn sông Seine, khu phố trải dài về phía Nam, bao gồm đồi Sainte Geneviève tới vườn Luxembourg