BA MƯƠI HAI
Sáng hôm sau, khi tôi thức dậy, Ernest đã dậy và đi rồi. Tôi nghe tiếng anh về hồi khuya, nhưng không trở mình mà cũng không nói gì với anh. Đến bảy giờ thì tôi đánh răng rửa mặt xong xuôi, phục trang chỉnh tề và xuống quán cà phê nhỏ của khách sạn nơi Ernest đang uống nốt tách cà phê.
“Anh gọi cho em món oeufs au jambon(Trứng chiên giăm bông) rồi đấy,” anh nói. “Em đói không?”
“Chết đói rồi đây,” tôi nói. “Tối qua mọi chuyện kết thúc thế nào?”
“Tốt đẹp và khăng khít,” anh đáp.
“Tốt đẹp và khăng khít, hay chỉ khăng khít thôi?”
“Em muốn ám chỉ gì?”
“Chẳng gì cả.”
“Quỷ tha ma bắt,” anh nói. “Sao em không nói thẳng ra đi?”
“Em thậm chí còn chưa uống cà phà phê,” tôi nói.
“Chúng ta có thật sự nhất thiết phải cãi nhau không?”
“Chúng ta không nhất thiết phải làm gì hết. Đằng nào cũng chẳng có thời gian.”
Đến đó thì Bill xuống dưới nhà và kéo một chiếc ghế ra. “Tôi chết đói rồi đây,” anh nói.
“Có đủ cho mọi người đây,” Ernest nói. Anh ra hiệu cho bồi bàn và gọi thêm một đĩa nữa cho Bill kèm một tách café au lait,( càfé sữa) sau đó ký hóa đơn.
“Tôi sẽ thu xếp vé cho chúng ta. Gặp lại mọi người ở đó nhé.”
Khi anh đi rồi, trông Bill có vẻ lúng túng.
“Thật ra đêm qua đã xảy ra chuyện gì vậy?”
“Toàn những chuyện tôi không muốn nhớ,” cậu nói.
“Thế thì đừng kể.”
“Dù sao tôi cũng không biết toàn bộ. Harold nói gì đó với Pat, rồi Hem nổi cáu và gọi Harold bằng cái gì đấy rất kinh khủng. Không đẹp chút nào.”
“Tôi cũng đoán ra được.”
“Don xuất hiện và cố hòa giải, nhưng đã quá muộn. Harold gọi Ernest ra ngoài phố để giải quyết.”
“Harold làm thế ư? Không phải là ngược lại sao?”
“Không. Và đó đúng là một chuyện đáng nói, thật sự đấy.”
“Harold có sao không?”
“Khỏe như vâm. Họ có chạm vào nhau đâu.”
“Ơn Chúa.”
“Có vẻ như Hem đề nghị cầm hộ Harold cặp kính và thế là lời nguyền tan biến. Cả hai cười ha hả và thấy mình chẳng khác nào thằng ngốc vì đã khơi mào chuyện này.”
“Tất cả chúng ta bị sao vậy, Bill? Cậu nói cho tôi hay được không?”
“Quỷ tha ma bắt tôi đi nếu tôi biết,” cậu nói. “Đầu tiên là do chúng ta uống quá nhiều. Và rồi chúng ta lại muốn quá nhiều nữa, phải không?”
“Chính xác thì chúng ta muốn cái gì chứ?” tôi hỏi, cảm thấy dấy lên một nỗi phiền muộn và hoang mang. Tôi tự hỏi Bill lý giải ra sao cái cách Ernest lao vào Duff một cách lộ liễu như vậy. Cậu có thể nghĩ thế nào? Cậu có thể nói gì đây?
“Mọi thứ, dĩ nhiên rồi. Mọi thứ rồi thêm một số thứ khác nữa.”
Cậu gãi gãi cằm và rồi cố nói đùa một câu.
“Cơn đau đầu của tôi hôm nay chứng tỏ điều đó.”
Tôi chăm chú nhìn cậu một lúc. “Nếu đây là lễ hội, vậy tại sao chúng ta không thấy vui?”
Cậu hắng giọng rồi ngó lơ. “Chúng ta không nên lỡ mất màn đấu của mấy tay amatơ đúng không nhỉ?
Hem nói màn đó là đáng tiền nhất và khuyên tôi nên tham gia.”
Tôi thở dài. “Cậu không cần phải chứng tỏ gì với anh ấy. Có vẻ như cậu đâu có thích thú gì màn bò chạy.”
“Đúng vậy,” cậu nói, có vẻ hơi xấu hổ. “Nhưng tôi đã sẵn sàng thử lại lần nữa. Tôi vẫn chưa chết mà.”
“Sao ai cũng nói mãi câu đấy nhỉ?”
“Tôi không biết,” cậu đáp. “Chỉ là một câu người ta hay nói thôi.”
Màn đấu amatơ từ lâu đã là phần Ernest yêu thích nhất trong lễ hội. Anh đã tập kỹ thuật veronica(*) hàng mấy năm trời bằng đủ thứ từ rèm cửa đến áo khoác cũ của tôi và trở nên thành thạo. Giờ anh đã có thể khắc chế con bò và xoay người vào phút chót. Anh đã hạnh phúc lâng lâng mà tập thêm một lúc trong phòng khách sạn với tấm áo choàng anh mua từ một cửa hiệu cách xa quảng trường, vốn không bán cho khách du lịch. Cái áo may bằng vải xéc màu đỏ bầm với sợi bện màu đen đơn giản bao khắp xung quanh. Anh cũng đã bắt đầu thu nhặt nút bần để gắn phía dưới áo, vì chính nút bần cho phép các đấu sĩ thực sự điều khiển được chiếc áo, quăng nó thật mạnh và rộng. Sáng hôm ấy, khi đến giờ bắt đầu màn đấu amatơ, anh mang theo tấm áo choàng rồi trèo xuống đi vào vòng đấu cùng vài chục gã đàn ông trai tráng đang hết sức háo hức, sẵn sàng thử tài trí của mình. Bill cũng đi cùng, nhưng Harold vẫn ngồi yên, ở phía dưới Duff vài ghế.
“Sáng nay Pat vẫn còn xanh xao lắm,” Duff nói khi tôi ngồi xuống chiếc ghế cạnh cô ta.
“Thật là một đêm dài.”
“Tôi cũng nghe nói vậy.”
“Chúng tôi đã rất nhớ chị, chị biết không. Mọi thứ vui hơn khi có chị.”
Tôi quắc mắt nhìn cô ta vì nghĩ cô ta đang phỉnh phờ mình, nhưng khuôn mặt cô ta trông rất thật thà và ấm áp. Đó chính là vấn đề với Duff; cô ta làm tan vỡ trái tim đàn ông, nhưng về bản chất vẫn là một cô nàng tử tế, và cô ta có quy tắc của riêng mình. Tôi không tin cô ta sẽ ngủ với Ernest kể cả khi anh có muốn – vì cô ta quý mến tôi và biết làm vợ là công việc khó khăn. Cô ta đã kết hôn hai lần rồi và chuẩn bị lấy Pat nếu họ lo liệu đủ tiền cho việc đó. Có lần cô ta bảo tôi rằng cô ta chưa bao giờ giỏi trong hôn nhân cả, nhưng dường như cô ta không thể ngừng thử lại lần nữa.
Dưới vòng đấu, các kỵ sĩ kiểm soát chặt chẽ mọi thứ, nên trận đấu có vẻ nhẹ nhàng và khá vô hại. Mỗi lần chỉ có một con bò được vào vòng đấu, và con đầu tiên này có lông màu nâu nhạt và di chuyển chậm chạp. Nó xông tới đẩy chân trước vào mông Bill khiến anh ngã văng sang một bên như nhân vật hoạt hình. Mọi người cười phá lên trước cảnh ấy. Ernest chỉ vừa mới nhập cuộc thì Harold trèo qua chúng tôi bước xuống vòng đấu.
“Ôi, Harold,” Duff kêu lên không với ai cụ thể cả, vì trông anh hệt như bức biếm họa về một người Mỹ giàu có bất lực trong cái áo len họa tiết vàng nhạt và đôi giày thể thao trắng tuyết. Cả hai chúng tôi dõi theo anh.
“Tôi đã bảo anh ấy là giữa hai chúng tôi không có chuyện gì rồi.”
“Tôi không chắc anh ấy nghe thấy,” tôi nói, cố gắng nhã nhặn hết mức có thể.
“Đàn ông nghe những gì họ thích và phần còn lại thì tự chế ra.”
Khi xuống đến vòng đấu, Harold ngước lên chỗ chúng tôi và cười rất tươi. Con bò màu nâu nhạt ở gần anh và đang tiến lại mỗi lúc một gần hơn, Harold né sang một bên để tránh cặp sừng, như mọi người vẫn làm. Con bò chạy qua rồi xoay người lại để xông vào anh lần nữa, và chính lúc ấy Harold nắm lấy cặp sừng, để con bò mang theo anh chạy vài sải. Cảm giác hệt như đang xem một màn xiếc được tập dượt kỹ. Harold hẳn cũng sửng sốt trước thành công của mình như bất kỳ ai khác, nhưng khi con bò đặt anh xuống trở lại, nhẹ như lông hồng, anh quay về với chúng tôi, mặt hớn hở.
“Hem không thích chuyện này chút nào,” Duff nói.
Tôi đưa mắt theo ánh nhìn của cô tới Ernest, anh đang đứng trong vòng đấu dõi theo Harold. Mặt anh tối sầm lại. Một kỵ sĩ chạy qua cách anh chỉ vài phân nhưng có vẻ như anh thậm chí còn không nhận thấy.
“Anh ấy không chịu nổi có gã nào khác giỏi hơn mình,” tôi nói, nhưng Duff và tôi đều biết cả tuần vừa rồi Ernest đã rất tức Harold, kể từ khi anh khám phá ra cuộc hẹn hò của cặp tình nhân ở St. Jean-de-Luz. Việc Harold có được Duff trong khi Ernest bị vợ con cản trở cũng đủ tệ lắm rồi, thế mà giờ ở Pamplona, Harold ngày nào cũng lẽo đẽo theo Duff đi khắp nơi như con nghé tội nghiệp, chẳng khác nào tự biến bản thân thành thằng hề. Thế thì quá lắm.
Con bò tiếp theo vào vòng đấu nhỏ con và nhanh nhẹn hơn. Nó di chuyển như mèo, đầu tiên nhảy cẫng về phía một bức tường rồi lại xông sang bức tường khác, đổi hướng nhanh như chớp. Một anh chàng người địa phương mặc áo đen tiến lại quá gần bị nó húc vào đầu gối. Con bò lồng lộn lắc đầu xung quanh, thế là người kia ngã soài ra thêm rồi bị đạp lên. Mọi người vội vã đánh lạc hướng con bò. Ernest khiến nó chú ý được một chút bằng cách tung rộng áo choàng sang một bên. Những người khác vẫy tay rồi hò hét, nhưng con bò vẫn quay lại với anh chàng kia, lúc này vẫn chưa đứng dậy, và dùng đầu đẩy anh ta đi. Hai cẳng chân anh ta gập lên phía trên đầu đúng lúc con bò hất sang một bên, sừng bên phải của nó xuyên qua đùi dưới hông anh ta rồi kéo toạc xuống tận gối. Anh ta kêu the thé, chúng tôi thấy xương đùi anh ta lóe lên trăng trắng, rồi máu tuôn xối xả trước khi các kỵ sĩ rượt theo con bò dồn nó vào tường rồi ra sau hàng rào, ở đó nó sẽ đợi chín tiếng để rồi bị giết.
Thế là kết thúc màn đấu amatơ. Mọi người trong vòng đấu nhanh chóng giải tán, Duff và tôi trèo xuống để gặp hai người kia. Kể từ lúc chứng kiến màn húc ấy chúng tôi đã không nói với nhau câu nào. Khi tới chỗ họ, chúng tôi thấy họ cũng im lặng.
Khi ra đến ngoài phố, cả hội vào một quán cà phê.
“Tôi sẽ bị nguyền rủa,”
Bill nói khi cậu bước đi bên tôi. Mặt cậu bải hoải và trắng bệch. Giày cậu phủ bụi. Chúng tôi tìm thấy một bàn và chỉ vừa mới gọi một chầu loại bia sền sệt mà chúng tôi hay uống khi ăn trưa thì anh chàng bị húc ban nãy được người ta khiêng cáng đi qua chúng tôi trên phố. Một tấm ga đẫm máu phủ từ hông anh ta trở xuống.
“Toro, toro!(**)” một gã say nào đó trong quán hét lên và anh chàng kia ngồi dậy. Mọi người reo hò, rồi một cậu trai cầm một ly whiskey chạy lại, anh chàng kia uống cạn rồi ném cái ly rỗng trở lại chỗ cậu bé, cậu ta bắt trúng nó chỉ bằng một tay. Và tất cả lại reo hò.
“Thật là một cách sống quỷ tha ma bắt!” Duff nói.
“Tôi còn nghĩ ra cách sống tệ hơn,” Ernest nói.
Bia tới, chúng tôi uống. Bồi bàn bưng tới món xúp lạnh Tây Ban Nha, một ổ bánh mì cứng còn mới và món cá chần nước cốt chanh ngon lành, và dẫu tôi nghĩ mình chẳng thể ăn nổi sau khi chứng kiến cảnh húc người vừa rồi, tôi vẫn nhận ra mình đang đói và tất cả những món này đều có vị rất ngon.
Harold yên vị ở một bên bàn, tránh xa Ernest, nhưng rốt cuộc, khi Pat tới cùng Don, anh ta có vẻ tái xanh và cáu bẳn, thành thử Harold cơ hồ chẳng biết nên chuyển chỗ đi đâu hay phải nói chuyện với ai mới an toàn. Thế là phần còn lại của bữa trưa, bàn chúng tôi giống như một trận cờ cảm xúc rối rắm, với Duff nhìn Ernest, Ernest để mắt tới Pat, Pat gườm gườm Harold, Harold lén lút liếc Duff. Ai cũng uống quá nhiều, cảm thấy kiệt quệ, nhưng vẫn cố hết sức để vờ như mình vui vẻ và ít xúc động hơn người khác.
“Tôi có thể chấp nhận chuyện bò bủng máu me,”
Don lặng lẽ nói với tôi.
“Nhưng chính chuyện giữa những con người với nhau mới làm dạ dày tôi nôn nao.”
Tôi nhìn từ cậu qua Ernest, từ bữa sáng đến giờ anh vẫn chưa nói hay thậm chí liếc nhìn tôi lần nào.
“Ừ,” tôi nói với Don. “Nhưng có mánh nào để giải quyết đây?”
“Giá mà tôi biết. Có lẽ chẳng có mánh nào cả.”
Cậu uống cạn chỗ còn lại của cốc bia rồi ra hiệu bồi bàn mang tới thêm.
“Có lúc tôi ước chúng ta có thể xóa bỏ mọi sai lầm rồi bắt đầu lại từ đầu,” tôi nói. “Nhưng có lúc tôi lại nghĩ chúng ta chẳng có gì ngoài những lỗi lầm của mình.”
Cậu cười lớn, vẻ buồn rầu ủ rũ, trong khi ở đầu bàn bên kia, Duff đang thì thầm gì đó vào tai Ernest và anh cười khùng khục thô ráp như một thủy thủ. Tôi xoay ghế tách ra khỏi hai con người ấy để khỏi nhìn thấy họ. Ngay khi làm thế, trong tôi bỗng hiện lên rõ ràng ký ức về Fonnie và Roland cả trăm năm trước ở St. Louis, chị đã không chịu nổi khi nhìn anh vì chị nghĩ anh yếu ớt và đáng ghê tởm. Chuyện của họ lúc nào cũng buồn thảm. Roland đã ra khỏi viện điều dưỡng về nhà, nhưng vẫn chưa lấy lại được chút bình yên nào. Anh và Fonni giờ đây sống hai cuộc đời hoàn toàn khác nhau, dù vẫn ở dưới cùng một mái nhà trên đại lộ Cates, vì lũ con.
Những gì đang xảy ra giữa Ernest và tôi còn xa mới thảm thương như vậy, tôi hy vọng thế, nhưng anh đang khiến tôi đau nhói mỗi lần anh thì thầm hay nhìn về phía Duff. Và tôi thấy mình cảm nhận khác đi về hôn nhân, về sự hủy hoại mà những kẻ đang yêu có thể gây ra cho nhau mà gần như chẳng hề suy nghĩ, sự hủy hoại đôi khi không thể hàn gắn.
“Tất cả chúng ta mới buồn bã và lạ lùng làm sao,” tôi nói với Don.
“Đó là lý do tại sao hôm qua tôi lại ủy mị thế. Tiện đây cho tôi xin lỗi nhé.”
“Không có gì phải xin lỗi cả. Chúng ta hãy cứ là những người bạn tốt, dù biết rõ những chuyện này nhưng không nhất thiết phải nói ra.”
“Được,” cậu nói, đoạn nhìn hai bàn tay mình rồi uống thêm một ngụm bia, và buổi chiều cứ thế trôi qua cho tới khi đến giờ đấu bò.
Đấu sĩ trẻ Cayetano Ordóñez vẫn còn là một cậu bé, đúng vậy, nhưng cậu di chuyển tự nhiên và duyên dáng đến độ trông cậu như đang khiêu vũ. Sắc đỏ bầm của chiếc áo choàng vải của cậu sống động theo từng cử động dù là nhỏ nhất của đôi cánh tay. Cậu có cái cách chôn chân tại chỗ rồi khẽ ngả người về trước rất riêng, sẵn sàng đối mặt với bất kỳ điều gì đang tới và thôi thúc con bò tấn công dù chỉ với một cử chỉ rất nhỏ hay một cái liếc nhìn.
Ernest đang trong tâm trạng rất cáu bẳn lúc chúng tôi vào trường đấu để xem đấu bò nhưng lại bắt đầu tỉnh như sáo khi Ordóñez di chuyển. Duff đứng lên để đến ngồi gần anh và nhận ra sự thay đổi ấy.
“Chúa ơi, anh chàng này tuyệt quá,” Duff nói.
“Cậu ta đúng là rất chất,” Ernest nói. “Xem này.”
Ordóñez đang dẫn dụ con bò của mình vào, thực hiện một động tác veronica với chiếc áo choàng, rồi lại thêm một lần nữa sát sạt hơn, hút con bò như nam châm. Các kỵ sĩ lùi lại vì họ biết Ordóñez đã có con bò và đang hoàn toàn kiểm soát tình hình. Đó là một màn khiêu vũ, đồng thời là một nghệ thuật tuyệt hảo. Kiến thức của cậu căn bản và cổ xưa, cậu truyền tải nó một cách quá tự nhiên và dễ dàng so với một con người trẻ tuổi như thế.
“Một vài người chỉ giỏi các động tác,” Ernest nói.
“Đẹp thật đấy, nhưng chẳng có ý nghĩa gì cả. Gã này, hắn biết hắn phải lại gần con bò đến mức có thể sẽ chết. Ta phải chết thực sự để có thể sống mà chế ngự được con thú.”
Duff gật gật đầu, bị nhiệt huyết của anh chiếm lĩnh, và, có Chúa cứu rỗi, tôi cũng vậy. Đôi mắt Ernest, khi anh nói, đột nhiên trở nên sống động gần như áo choàng của Ordóñez. Xúc cảm mãnh liệt sục sôi từ một chốn sâu thẳm nào đó trong anh rồi dâng lên mặt, lên cổ họng anh, và tôi nhận ra anh đang kết nối với Ordóñez và trận đấu bò, với cuộc sống đang diễn ra, và tôi biết tôi có thể căm ghét anh nếu muốn vì cái cách anh làm tổn thương tôi, nhưng tôi sẽ không bao giờ có thể ngừng yêu anh, hoàn toàn, vì chính con người anh.
“Nhìn kìa,” anh nói. Con bò chúi đầu xông đến, sừng trái của nó đẩy tới trước, cổ nó vặn lại. Đùi Ordóñez chỉ cách cẳng chân mạnh mẽ của con bò vài phân, nhưng cậu vẫn ngả tới gần hơn, để khi con bò ngẩng đầu lên tìm kiếm tấm áo choàng thì nó chỉ sượt qua bụng Ordóñez. Chúng tôi gần như nghe thấy cả tiếng sột soạt khi cặp sừng lướt qua lớp lụa áo cậu. Đám đông thở hắt ra, vì đây chính là thứ họ tới để xem.
“Ta sẽ chẳng bao giờ được xem một màn đấu hay hơn thế đâu,” Ernest nói, ném mũ mình xuống chân để tỏ lòng tôn trọng.
“Đẹp tuyệt,” Duff nói.
Tất cả chúng tôi đều thở dài, và khi con bò khuỵu ngã, quỳ gối, Ordóñez xuyên gọn mũi kiếm vào nó. Mọi người đứng cả dậy reo hò, toàn bộ khán giả đều xúc động, bị màn trình diễn ngoạn mục và kỹ thuật bậc thầy choán lấy tâm trí. Tôi cũng đứng dậy vỗ tay như điên, và chắc là chỗ tôi đứng có ánh nắng đặc biệt rực rỡ chiếu thẳng vào, vì đúng lúc ấy Ordóñez ngước lên nhìn tôi, mắt cậu đưa lên dần, nhìn thẳng vào mặt và dừng lại nơi mái tóc tôi.
“Cậu ta thấy em muy linda(***),” Ernest nói khi dõi theo ánh mắt Ordóñez đến chỗ tôi. “Cậu ta đang tôn vinh em.”
Đấu sĩ trẻ cúi xuống phía trên con bò, dùng một con dao nhỏ xẻo tai nó. Cậu gọi một cậu bé đứng trên khán đài nhờ chuyển cho tôi cái tai đựng trong lòng bàn tay khum khum. Cậu bé bẽn lẽn mang nó tới, gần như còn chẳng dám nhìn tôi, nhưng tôi có thể thấy rõ cậu cảm thấy được chuyển đồ cho Ordóñez là một đặc ân rất lớn. Tôi không biết rõ lắm nên đón nhận món quà thế nào, có quy tắc gì cho những việc như thế này không, thế nên tôi chỉ chìa tay ra.
Cái tai màu đen, hình tam giác và vẫn còn ấm, chỉ có một vệt máu rất mờ - một vật kỳ lạ nhất tôi từng cầm trong tay.
“Tôi sẽ bị nguyền rủa,” Ernest nói, rõ là đang rất tự hào.
“Chị sẽ làm gì với nó?” Duff hỏi.
“Giữ lại, tất nhiên rồi,” Don nói, đoạn đưa tôi chiếc khăn mùi soa của cậu để tôi có thể gói nó lại đồng thời lau tay luôn.
Vẫn đứng, tôi nắm cái tai trong chiếc khăn và nhìn xuống vòng đấu nơi Ordóñez đang ngập chìm trong hoa. Cậu liếc lên nhìn tôi, cúi chào thật thấp, và rồi quay lại để tiếp tục được tung hô.
“Tôi sẽ bị nguyền rủa,” Ernest nhắc lại.
Hôm đó có năm màn đấu bò nữa, nhưng không trận nào xứng được với vẻ đẹp của trận đầu tiên. Khi chúng tôi tới quán cà phê lúc xem xong, tất cả đều vẫn chưa thôi kể lể về nó, kể cả Bill, kẻ không thể tiêu hóa nổi phần lớn ngày hôm ấy, nhất là cái cách hai con ngựa bị húc ngã gục rồi buộc phải bị giết rất nhanh trong sự chứng kiến của tất cả mọi người. Cảnh tượng ấy kinh khủng và hết sức dữ dội, và tôi đã sẵn sàng để uống.
Tôi chuyền cái tai quanh bàn cho mọi người chiêm ngưỡng để rồi kinh khiếp nó. Duff rất nhanh chóng say xỉn và bắt đầu công khai à ơi Harold, còn Harold thì quá ngạc nhiên và hài lòng nên chẳng suy xét gì chuyện đó. Có một lúc hai con người này biến mất, khiến Pat tức điên lên. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, họ thong thả quay về trong tâm trạng hết sức vui vẻ, như thể chẳng có gì là không ổn.
“Đồ khốn,” Pat quát Harold. Anh ta đứng bật dậy và lập tức lảo đảo ngã về một bên.
“Ôi, khóa miệng lại đi cưng,” Duff hờ hững nói.
Nhưng Pat không để mình bị nạt nộ như vậy.
“Tránh xa chúng tao ra, nghe chưa?” anh ta quát Harold.
“Tôi không nghĩ Duff thích thế đâu. Em muốn anh ở đây phải không?”
“Dĩ nhiên cưng à. Em muốn tất cả mọi người ở đây.” Cô ta với lấy ly của Ernest. “Là bạn nhé?”
Ernest gật đầu; cô ta có thể có chiếc ly, có thể có mọi thứ trên bàn này. Chính Harold mới là kẻ anh khinh bỉ. “Chạy theo một ả đàn bà,” anh lẩm bẩm.
“Còn gì hạ cấp hơn chứ?”
Người bồi bàn mang thêm đồ ăn thức uống đến, nhưng buổi tối không còn yên ổn nữa. Một vết loét đã lở ra làm ô uế tất cả những thứ đã từng mạnh mẽ và tốt đẹp nhường ấy.
Ernest cũng cảm nhận được điều này nên cố gắng tán chuyện về Ordóñez, tư thế của cậu, kỹ thuật veronica của cậu.
“Anh giải thích lại veronica nghĩa là gì đi!” Duff nói.
“Là khi đấu sĩ đứng xoay mặt về phía con bò, chân giữ cố định và từ từ quăng áo choàng tránh khỏi con bò.”
“Đúng rồi,” Duff. “Màn ấy tuyệt thật nhỉ?”
“Đừng tin cô ả, Hem ạ,” Pat hẹp hòi nói. “Cô ta chẳng nhớ cái quái gì đâu.”
“Tha cho một cô gái đi, Pat.” Cô ta quay lại với Ernest. “Chỉ là lúc này em hơi say thôi. Mai em sẽ nhớ được nhiều hơn mà. Em thề là mai em sẽ lại ngoan.”
Ernest buồn bã nhìn cô ta. “Được,” anh nói, nhưng rõ ràng anh rất thất vọng với cô ta và với cả nhóm.
Bầu không khí phấn khích đã biến mất khỏi mọi thứ.
Đêm hôm ấy, trở về khách sạn, tôi đem cái tai bò gói trong vài lượt khăn tay nữa về, để nó trong ngăn kéo bàn trang điểm của mình.
“Chẳng mấy chốc nó sẽ rữa ra cho xem,” Ernest vừa nói vừa quan sát tôi làm việc đó.
“Em chẳng quan tâm.”
“Ừ, anh cũng chẳng quan tâm.”
Anh bắt đầu cởi quần áo thật chậm, vẻ mặt trầm ngâm.
“Khi tất cả những chuyện này kết thúc,” cuối cùng anh nói, “hãy
theo Ordóñez tới Madrid rồi đến Valencia.”
“Nó có bao giờ kết thúc không?”
“Dĩ nhiên là có.” Anh quay qua nhìn tôi. “Ordóñez thật tuyệt phải không? Cậu ta khiến toàn bộ chuyện này trở nên rất xấu xí, rất ngu ngốc.”
Tôi đóng ngăn kéo bàn phấn lại rồi cởi quần áo, trèo lên giường.
“Em sẵn sàng quên Pamplona rồi đây. Sao chúng ta không thử ngay bây giờ? Anh giúp em nhé?”
Vào cuối tuần lễ dài dằng dặc ấy, chúng tôi tan đàn xẻ nghé, mỗi người một ngả. Don đi Riviera, trông cậu buồn và mệt mỏi. Bill và Harold thì quay lại Paris, nhưng cho Pat và Duff quá giang tới Bayonne. Ernest và tôi lên tàu tới Madrid, ở đó chúng tôi thuê phòng trong Pension Aguilar, một khách sạn trên phố Calle San Jeronimo, cũ kỹ, nhỏ và rất yên tĩnh vì không có khách du lịch. Sau Pamplona thì nơi đây cứ như thiên đường. Ngày nào chúng tôi cũng đi xem đấu bò, và một buổi chiều nọ Juan Belmonte, đấu sĩ bò tót giỏi nhất mọi thời đại, dù điều này vẫn còn gây tranh cãi, đã bị húc vào bụng rồi đưa đến bệnh viện. Có đợt chúng tôi theo dõi các trận đấu của anh, và Ernest vẫn luôn ngưỡng mộ đôi chân vòng kiềng và khuôn hàm đầy vẻ cương quyết của anh, nhưng rồi chúng tôi bắt đầu nhận ra, thậm chí trước cả khi Belmonte bị thương, rằng Ordóñez cũng gần như ngang sức ngang tài với bậc thầy ấy. Chuyển động của cậu đạt đến độ hoàn hảo, lòng dũng cảm của cậu không bao giờ dao động, và chúng tôi, cả hai chúng tôi, xem cậu biểu diễn trong niềm thán phục.
Một buổi chiều nọ, Ordóñez đã ban cho tôi một vinh dự rất lớn, cậu để tôi cầm áo choàng cho mình trước khi trận đấu bắt đầu. Cậu bước đến rất gần, và tôi thấy rõ khuôn mặt trẻ con hết sức nhẵn nhụi ấy cũng như đôi mắt sâu trong sáng của cậu. Cậu không nói gì khi trao chiếc áo choàng cho tôi, nhưng vẻ mặt cậu rất nghiêm túc.
“Anh nghĩ cậu ta yêu em mất rồi,” Ernest nói khi Ordóñez quay đi để kích động sự cuồng nhiệt của đám đông.
“Làm sao thế được? Cậu ấy còn trẻ con mà,” tôi nói, nhưng tôi tự hào và thấy trong lòng mình biến đổi vì niềm vinh dự này.
Tối hôm ấy, trở về khách sạn, khi chúng tôi đang thay quần áo chuẩn bị đi ăn, Ernest nói,
“Anh đang phác thảo một cuốn tiểu thuyết mới. Mà thực ra, nó đang tự phác thảo chính mình, trong đầu anh. Về đấu bò tót. Nhân vật chính sẽ là Ordóñez, và toàn bộ câu chuyện sẽ diễn ra ở Pamplona.”
Mắt anh sáng rực, và sự nhiệt thành lộ rõ trong giọng anh.
“Nghe có vẻ hay quá.”
“Nghe hay phải không? Anh sẽ gọi đấu sĩ trẻ ấy là Romero. Chuyện bắt đầu ở một khách sạn, lúc ba giờ chiều. Hai người Mỹ đang ở đó, trong căn phòng phía bên kia hành lang, và họ thấy vinh hạnh khi đi gặp Romero, và họ nhận ra cậu cô độc biết bao, cậu nghĩ thế nào về con bò mình sẽ đối mặt hôm ấy. Cậu không thể chia sẻ điều đó với bất kỳ ai.”
“Chắc hẳn cậu ấy sẽ cảm thấy như thế, phải không anh?” tôi nói. “Anh nhất định phải viết nó ra.”
“Ừ,” anh nói, và mặc dù chúng tôi ra ngoài ăn một bữa rất lâu và rất ngon, uống đến vài chai vang, nhưng thực ra anh đã ở bên cuốn sách, chui vào bên trong nó rồi. Những ngày sau đó, anh càng suy nghĩ sâu hơn. Anh bắt đầu viết bằng sự gắng công khủng khiếp, trong quán cà phê lúc sáng sớm, ở khách sạn lúc đêm khuya, khi tôi có thể nghe thấy tiếng ngòi chì của anh rột roạt lia lịa. Khi chúng tôi rời Madrid để đi dự hội ở Valencia, anh đã viết đầy hai cuốn sổ dày, hai trăm trang viết tay trong chưa đầy mười ngày, nhưng anh không còn hài lòng với đoạn mở đầu nữa.
“Anh đang nghĩ truyện nên bắt đầu ở Paris rồi sau đó chuyển dịch. Chính những gì xảy ra ở Paris đã châm ngòi cho ngọn lửa. Ta không thể có phần còn lại nếu không có nó.”
“Anh vẫn bảo anh không thể viết về Paris vì anh quá gần gũi nó còn gì.” “Ừ, anh biết, nhưng vì lý do nào đó mà câu chữ cứ đến rất dễ dàng. Hai tuần trước chúng ta cũng ở Pamplona, vậy mà anh vẫn viết được về nó. Anh không biết tại sao. Có lẽ tất cả những suy nghĩ và quy tắc của anh về việc viết lách chỉ chờ có cơ hội để được chứng minh là sai thôi.”
“Cảm giác tràn đầy cảm hứng thật tuyệt phải không?”
“Anh mong nó cứ kéo dài như thế này mãi.”
Và đúng là nó cứ kéo dài như thế mãi. Ở Valencia, nỗi hứng khởi trước lễ hội đã đẩy mọi thứ thành một cơn sốt và chúng tôi chỉ có thể tận hưởng nó. Chúng tôi ngồi ở quán cà phê vỉa hè, ăn tôm rắc chanh tươi và tiêu xay, cùng món cơm thập cẩm được bày tuyệt đẹp trên một chiếc đĩa tròn rộng gần bằng cái bàn.
Chiều đến, chúng tôi đi đến các trận đấu bò nơi Ordóñez tung những cú veronica hoàn hảo tuyệt đối.
“Kia kìa. Thấy chưa?” Ernest vừa nói vừa chỉ vào vòng đấu.
“Gì cơ?”
“Cái chết của cậu ta. Con bò đến rất sát. Đó chính là điều khiến cho đấu bò như một màn khiêu vũ. Người đấu sĩ phải biết rằng mình sắp chết và con bò cũng phải biết, để khi tình thế đảo ngược vào giây cuối cùng thì chẳng khác nào phép mầu. Đó mới thực sự là sống.”
Một chiều nọ, khi anh đang chợp mắt còn tôi không ngủ được, tôi lật qua những quyển sổ của anh, đọc chỗ này một chút chỗ kia một chút mà lòng thầm thán phục. Tình cờ tôi lật đến các trang có những câu nói và cách diễn đạt mà tôi nhận ra ngay là của Duff. Khi đọc chúng, thoạt tiên tôi thấy sốc. Anh đã lắng nghe cô ta rất chú tâm, ghi nhớ hết lại, khắc họa cô ta hoàn hảo. Và giờ đây toàn bộ được truyền tải qua nữ nhân vật chính của anh, chỉ thay đổi chút xíu.
Điều này khiến tôi lại một lần nữa cảm thấy ghen tị kinh khủng với cô ta, cho đến khi tôi lý giải được điều này. Ernest là một nhà văn, đâu phải người tình của Duff. Anh nhìn cô ta như một nhân vật, có lẽ ngay từ đầu đã vậy. Và giờ đây khi anh sống trong cuốn sách của mình, không phải trong các quán cà phê vỉa hè ở Pamplona, thì sự căng thẳng và xấu xí có khi lại hữu dụng. Toàn bộ quãng thời gian đó đều có ích và cần thiết cho công việc. Đó là lý do tại sao từ ngữ tràn về mạnh mẽ và nồng nhiệt đến vậy.
Từ Valencia chúng tôi lại quay về Madrid, rồi sau đó tới San Sebastian để chạy trốn nhiệt độ mùa hè đang mỗi lúc một tăng. Ở San Sebastian và rồi Hendaye, Ernest tập trung cao độ để viết vào các buổi sáng, rồi cả ngày còn lại chúng tôi đi bơi và tắm nắng trên bãi biển. Bãi cát nóng bỏng và ngọt ngào, xa xa là những dãy núi dài tim tím, tiếng sóng vỗ bờ lấp đầy tai, ru chúng tôi vào một trạng thái đê mê hạnh phúc.
Nhưng đến cuối tuần đầu tiên của tháng Tám thì tôi nhớ Bumby quá chẳng tận hưởng thêm được gì nữa. Tôi quay về Paris và Ernest trở lại Madrid một mình. Ở đó anh làm việc tốt hơn và chăm chỉ hơn bao giờ hết. Như thể anh đang tạo ra quyển sách, đồng thời tạo ra cả bản ngã nhà văn của mình. Anh viết thư kể rằng anh chỉ ngủ có một tiếng đồng hồ ở chỗ này chỗ khác. Nhưng khi anh tỉnh dậy, anh viết, các câu chữ đang ở đó đợi anh, gào thét để được viết ra. Thật phi thường, Tatie à. Từ đoạn này anh đã có thể thấy cái kết rồi, và nó ra dáng lắm đấy.
Chú thích:
(*) Kỹ thuật đứng một chỗ tung áo choàng nhử bò trong đấu bò tót
(**)Toro, toro! Tiếng Tây Ban Nha: bò tót.
(***) Tiếng Tây Ban Nha: rất đáng yêu.