BA MƯƠI NĂM
Tháng Hai ở Schruns chẳng khác nào địa ngục. Bên ngoài, đất trời nổi cơn mưa bão hoặc gió quăng quật. Bên trong, mọi chuyện cũng chẳng khá hơn, vì cốt lõi cuộc sống của tôi đã về Paris và rồi đi New York, chỉ còn tôi một mình với những hoài nghi.
Đêm trước khi Ernest đi, tôi giúp anh xếp đồ, nhưng bầu không khí rất căng thẳng.
“Em có thể đi đến tận Le Havre và tiễn anh ở đó, nếu muốn.”
“Khó lắm vì phải cho con đi tàu.”
“Thì để thằng bé ở lại đây với Tiddy. Chỉ vài ngày thôi mà.”
“Có lẽ là được,” tôi nói, nhưng tôi biết rõ mình sẽ không đi, vì làm thế chẳng giải quyết được điều gì cả. Nó không thể xua tan mối lo trong tôi, rằng khoảng cách giữa chúng tôi đang lớn dần, rằng anh đã không còn lắng nghe và tin tưởng lời tôi nói, và nó cũng chẳng thể khiến tôi nguôi nỗi bồn chồn vì cái cách anh đang hướng về phía Pauline. Anh bị cô ta hấp dẫn, rõ là thế, nhưng tôi không thực sự tin anh sẽ tiến xa hơn. Anh đã không làm thế với Duff, và Pauline còn xa mới ăn sâu vào cuộc sống của chúng tôi như Duff. Pauline là bạn tôi. Anh sẽ không làm hỏng tình bạn ấy, và cô ta cũng vậy. Hầu như ngày nào cũng có thư cô ta kể từ khi chúng tôi đưa cô ta lên tàu trở về Paris. Những lá thư luôn đề gửi cho cả hai chúng tôi, hai cục cưng của cô ta, như cô ta vẫn thích gọi, hai nguồn vui của cô ta. Giọng thư hồ hởi, hàm súc và vô lo – như chính bản thân Pauline – và đọc chúng khiến tôi thấy đỡ hơn. Chúng cũng giúp
tôi nhớ ra rằng cô ta muốn những chuyện tình choáng ngợp, loại tình yêu trong tiểu thuyết. Cô ta sẽ không chịu yên vị trong sự hào nhoáng rẻ tiền. Đó không phải phong cách của cô ta.
“Dĩ nhiên là anh sẽ gặp lại Pauline ở Paris,” tôi nói khi Ernest nhét đồ dùng cuối cùng của anh vào va li.
“Nếu có thời gian. Giờ cô ấy đang rất bận với mấy buổi diễn thời trang mùa xuân, vả lại còn nhiều người bạn khác phải gặp nữa. Thế nghĩa là em sẽ không đi?”
“Không, em nghĩ tốt hơn là em nên ở lại đây.”
“Tùy em thôi,” anh nói, rồi đóng va li lại với một tiếng cách.
Ernest lênh đênh trên biển trong mười ngày, không thể liên lạc được. Trong thời gian đó, Bumby và tôi giữ nhịp sinh hoạt hết sức điều độ, vì làm thế khiến tôi cảm thấy mình vững vàng, ổn định hơn. Đúng giờ này hai mẹ con tôi sẽ ăn món này. Chúng tôi ngủ sớm và dậy sớm. Vào các buổi chiều, tôi đi dạo trong làng hoặc viết thư trong lúc Tiddy chăm lo cho thằng bé. Hầu hết các buổi sáng tôi đều luyện một bản Bach-Busoni chaconne cho đến khi ngón tay
tưởng như muốn rụng. Đó là để cho buổi biểu diễn mà cuối cùng tôi cũng quyết định thực hiện. Sự vắng mặt Ernest và nỗi lo sợ ngày càng tăng trong tôi đã giúp tôi nhận ra mình cần một buổi biểu diễn hơn bao giờ hết. Tôi viết một lá thư cho giám đốc của Salle Pleyel, một sảnh hòa nhạc nhỏ trên rue Rochecouart, để bày tỏ nguyện vọng được biểu diễn ở đó, cũng
như trình bày chi tiết lý lịch cùng các mối quan hệ của mình. Tôi run sợ chờ đợi câu trả lời, nhưng tôi không cần phải đợi. Ông ta mau chóng hồi đáp với thái độ rất hòa nhã, đặt lịch cho tôi vào ngày mười ba tháng Năm. Chi tiết sẽ được sắp xếp khi tôi quay lại Paris vào đầu tháng Tư.
Khi cuối cùng Ernest cũng gửi thư về, tôi mới hay rằng anh đã tới văn phòng của Horace Liveright ngay sau khi đặt chân đến New York. Cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp. Liveright rất lịch sự, và mọi sự kết thúc khá vui vẻ. Họ không giữ mối ác cảm nào cả, và ngoài ra, Maxwell Perkins cho rằng Lũ xuân là “một cuốn sách vĩ đại”. Ông ta đề xuất tạm ứng một nghìn năm trăm đô trọn gói cho nó cùng quyển sách mới mà Ernest vừa đặt tên là Mặt trời vẫn mọc, chúng tôi chưa từng nghe nói có ai được tạm ứng nhiều tiền hơn thế bao giờ. Anh định rời New York vào cuối tuần, nhưng rồi đổi ý kéo dài thời gian lưu lại vào phút chót. Xét cho cùng, anh đang sung sướng ngất ngây, mà xung quanh lại có quá nhiều người thú vị. Anh gặp Robert Benchley và Dorothy Parker và Elinor Wylie, tất thảy mọi việc đều trôi chảy hết ý. Thế thì sao phải vội về?
Trong lúc ấy, thời tiết ở Schruns đã ổn định lại. Chúng tôi có tuyết mới dày gần mười phân, và trong nỗ lực để giữ cho mình khỏi điên lên vì chờ đợi, tôi trượt tuyết và đi bộ đường trường cho đến khi cảm thấy chân tôi khỏe hơn bao giờ hết, còn hai lá phổi thì gần như muốn bốc cháy vì độ cao. Ở tít phía trên thị trấn, tôi có thể nhìn xuống và thấy khách sạn của mình, như một mẫu vật thu nhỏ. Từ khoảng cách ấy, tôi có thể chụp gọn nó trong lòng bàn tay, nhưng đồng thời nó cũng có vẻ chắc chắn và đáng tin. Trong tất cả những chốn Ernest và tôi đã cùng nhau đến, đây là nơi tôi thấy mình được an toàn và khỏe mạnh nhất. Nếu tôi phải đương đầu với hàng bao nhiêu tuần lễ hoài nghi, thì tôi mừng là nó diễn ra ở đây.
Ernest ở New York ba tuần cả thảy, sau đó thêm mười ngày đi biển. Tàu của anh cập bến Le Havre vào đầu tháng Ba, nhưng anh không trở lại Schruns ngay. Còn phải gặp các bạn ở Paris. Anh đã kịp gặp Scott và Zelda cùng ăn trưa một bữa vui vẻ trước khi họ lên đường đi nghỉ xuân ở Nice. Anh gặp vợ chồng Gerald và Sara Murphy, gia đình MacLeish và tất nhiên, cả Pauline nữa. Anh giải quyết những việc cần làm với ngân hàng, coi sóc căn hộ, thế là thêm mấy ngày nữa. Khi cuối cùng anh cũng đến, vào một ngày rực rỡ nắng trời, Bumby và tôi đi đón anh ngoài ga.
“Nhìn em kìa, vợ,” anh nói khi gặp chúng tôi trên sân ga. “Trông em khỏe mạnh, rám nắng và đáng yêu quá.”
Tôi mỉm cười và hôn anh.
“Và trông đôi má phính như con macmot của ngài kìa, ngài Bumby,” anh nói. “Phải nói là tôi có một gia đình xinh đẹp tuyệt vời. Tôi thật quá may mắn.”
Suốt bữa tối anh kể không biết bao nhiêu câu chuyện thú vị về New York. Mãi đến khi chúng tôi đã lên giường, tôi mới kể anh nghe về buổi biểu diễn ở Salle Pleyel, và sự phấn khích của anh thay cho tôi cũng gần như nỗi háo hức của chính tôi vậy.
“Anh vẫn luôn mong mỏi điều này cho em, Tatie ạ. Anh mong đời em có âm nhạc như hồi em còn ở nhà. Mong nó quan trọng với em như thế.”
Anh lướt bàn tay trên tóc tôi, dạo gần đây nó mọc rất vô tổ chức và nhuốm màu hoe vàng vì nắng trời.
“Anh đã không biết mình nhớ em nhiều đến thế cho đến khi anh thấy em hôm nay.”
“Vậy ư?”
“Có gì đó trong việc trở về nhà nhắc cho ta nhớ những thứ ta đang có.”
“Em thì nhớ anh suốt lúc anh đi.”
“Thế cũng tốt,” anh nói. “Thế nào cũng tốt cả.”
Tôi hôn anh, rồi nằm xuống chiếc giường nhồi lông chim ngắm anh say ngủ. Mắt anh thư giãn hoàn toàn, không một nếp nhăn xung quanh, không một dấu hiệu mỏi mệt. Khi ngủ ngon, anh như một cậu bé. Tôi có thể thấy đứa trẻ từng là anh khi xưa bên dưới lớp vỏ đàn ông, và tôi yêu cả hai, một cách giản đơn, tuyệt đối và không thay đổi. Tôi vùi mình dưới cánh tay anh, cảm nhận hơi thở của anh đưa ra đưa vào, rồi để mình chìm vào giấc ngủ.
Tháng Ba, các đợt tuyết lở thảm khốc đổ xuống Scruns. Mất mát đầu tiên xảy ra khi Herr Lent đang dẫn một đoàn người Đức. Trời rất nắng, các điều kiện đều nguy hiểm, và dù Lent đã bảo những người Đức đừng tới, họ vẫn đến và khăng khăng đòi trượt tuyết mặc cho anh có dẫn họ đi hay không. Vậy nên anh đành phải dẫn họ tới con dốc vững chãi nhất mình biết và tự mình vượt qua nó trước để đảm bảo chắc chắn. Họ vượt qua thành nhóm, mười ba con người
tới chính giữa dốc thì sườn đồi đổ sập xuống, chôn vùi cả mười ba. Đến lúc đội cứu hộ đến bới được họ ra thì chín người đã chết.
Khi Lent cùng người trợ lý xinh đẹp Fräulein(*) Glaser đến chơi với chúng tôi buổi tối ở khách sạn Taube, chúng tôi được trực tiếp nghe toàn bộ câu chuyện.
“Một người đàn ông bị vùi dưới lớp tuyết rất dày, lớp tuyết lâu năm, cực kỳ ẩm ướt và sâu,” Lent nói.
“Suốt hai ngày trời chúng tôi không tìm thấy ông ta. Các nhân viên cứu hộ cứ đào mãi, đào mãi, và cuối cùng ông ta cũng lộ diện, chính vết máu của ông ta đã dẫn đường cho chúng tôi dễ dàng lần theo. Ông ta đã gần như vặn lìa cả cổ khi cố tìm cách để thở.”
“Đến tận xương,” Fräulein Glaser thêm vào. Trông cô quá sức tươi tắn và đáng yêu với mớ tóc buộc gọn và khuôn mặt nâu rám nắng, đến nỗi tôi thấy hơi sốc khi nghe một miêu tả chi tiết khủng khiếp như vậy phát ra từ miệng cô. “Có một người khác, cách đây nhiều năm rồi, chết trong một trận tuyết bột lở. Anh ta đang quay lại vẫy vẫy tay với bạn, và cả hai người
đều chết trong lúc đang mỉm cười vẫy tay.”
“Tôi không tin cái vụ mỉm cười đâu,” tôi nói.
“Tôi tin,” Ernest nói. Ngọn lửa lách tách, và tất cả chúng tôi chìm trong im lặng một lúc.
“Có lẽ cũng giống như đấu bò hay bất cứ thứ gì khác,” cuối cùng anh nói, mắt đăm đăm nhìn cốc rượu hâm nóng. “Có lẽ ta học được từ một trận tuyết lở, phải hiểu rõ các điều kiện xung quanh, điều gì gây ra chúng, và làm thế nào để tồn tại trong một hoàn cảnh nhất định
nếu ta bị cuốn đi.”
“Có lẽ vậy,” Lent nói. “Dù sao thì cậu cũng có thể tăng cơ hội sống của mình, nhưng như thế cũng không làm cho việc đó bớt nguy hiểm.”
“Anh có nghĩ chúng ta sẽ lại lên núi mùa này không?”
Ernest hỏi.
“Không,” Lent nói. “Và nếu cậu có thể thuyết phục ai đưa cậu lên núi, đó sẽ không phải là tôi. Tôi không thể yên lòng mà sống nếu có chuyện xảy ra lần thứ hai.”
Fräulein Glaser gật gật vẻ xót xa, nhưng dường như Ernest không bị kinh nghiệm của Lent chế ngự dù chỉ một chút. Anh vẫn suy nghĩ xem làm thế nào để có thể lên núi. Tôi biết chắc điều ấy khi nhìn vào ánh lấp lánh trong mắt anh, điều đó có nghĩa thử thách đã được đặt ra. Anh muốn thử kỹ năng, và cả nỗi sợ của mình nữa, hệt như cái cách tôi đang nghĩ, Có người chết rồi. Lẽ ra chúng tôi không nên ở đây.
Vì Lent vẫn rất cứng rắn giữ quan điểm chúng tôi không nên trượt tuyết, nên chúng tôi rất mừng khi nhận được thư từ Dos Passos vào gần cuối tháng Ba, nói rằng cậu sẽ ghé thăm cùng vợ chồng Murphy.
Họ đến khiến cho việc ở Schruns cũng hệt như ở bất cứ đâu với những người giàu. Chỉ có tiệc tùng miên man vào tất cả các khung giờ trong ngày, và ai nấy đều vui vẻ.
“Tôi thích nơi ẩn náu nho nhỏ này của các bạn đấy,”
Sara Murphy nói khi xuống ăn sáng trong bộ quần áo trượt tuyết sạch bong mới tinh mặc dù chẳng đi trượt tuyết.
“Nó là nơi tốt nhất quanh đây,” tôi đồng tình.
“Nhưng không còn ẩn náu được nữa,” Ernest nói với nụ cười ác ý.
Ernest thường dễ than phiền về gu thẩm mỹ vô hạn và đống tiền mặt lúc nào cũng sẵn sàng của nhà Murphy. Anh kiên nhẫn với Sara hơn, vì cô rất đẹp và là một thứ xinh xắn cho chúng tôi ngắm nhìn. Gerald thì láu cá hơn. Anh ta quá bóng bẩy đối với Ernest, quá tao nhã. Áo quần anh ta hoàn hảo và anh ta nói năng quá hay, khiến người ta không khỏi có cảm giác anh ta tự vun đắp bản thân từ dưới đất cho đến khi trở thành một giống loài hết mực thanh lịch, hết mực quyến rũ. Nhưng đồng thời dường như anh ta cũng quyết tâm lạ lùng trong việc làm bất cứ điều gì để gây ấn tượng với Ernest, nhằm có được tình bạn và sự ủng hộ của anh. Chúng tôi không thể tới dốc núi, nhưng Ernest dạy Gerald trượt tuyết trên quả đồi phía sau Taube, và chính tại đây Gerald đã bắt đầu gọi Ernest là “Papa” vì anh là giáo viên mùa vụ và cũng yêu vai trò người cha. Anh ta nói, “Cho tôi xem lại cách xoay người dưới chân dốc đi Papa. Cú đó đẹp hết sảy.”
Ernest vẫn rất cảnh giác. “Họ có thể mua cả vùng Riviera thối tha nếu muốn,” một đêm nọ anh nói khi đang nằm trên giường. “Và họ sẽ thả vào đó nhiều chủng người thú vị để giải khuây mọi lúc, như chúng ta. Lũ chúng ta hết thảy đều là khỉ cho cái máy nghiền nội tạng đó, và Dos là tệ nhất. Cậu ta chẳng còn chút lá lách nào cả, cậu ta đang phải cố hết sức để giữ chúng.”
“Nhưng một phần nào đó cũng vui mà, và họ còn rất hào phóng nữa, đúng không?”
“Người vợ tốt bụng thật thà của tôi lại thế rồi. Đồng ý với anh một lần thì em chết à?”
“Nhìn nhận điểm tốt đẹp trong họ thì anh chết à? Họ ngưỡng mộ anh vô cùng.”
“Những kẻ trọc phú chỉ ngưỡng mộ chính mình.”
Chúng tôi nằm im một lúc, trong yên lặng tôi có thể nghe thấy tiếng ho khan của Bumby ở phòng bên. Càng lớn nó càng ít thức dậy vào ban đêm hơn, và chúng tôi không cần thuê Tiddy nữa ngoại trừ ban ngày. Nhưng khi lắng nghe tiếng ho mỗi lúc một nhiều, tôi nghĩ có lẽ có cô ở đó thì tốt, cho những giây phút như thế này.
“Em không định đi xem thế nào à?” Ernest nói.
“Em sẽ không muốn thằng bé đánh thức những vị khách tốt đẹp hào phóng của chúng ta đâu.”
“Anh có cần phải tỏ ra lố bịch quá trớn đến vậy không?” tôi nói, mệt mỏi ngồi dậy với tay lấy áo choàng của mình.
“Có, anh cần đấy. Nó khiến anh giữ dáng.”
Anh trở mình và làm những động tác cường điệu ra vẻ ta đây đang chuẩn bị sẵn sàng để thoải mái đi ngủ trong khi tôi đi xem tình hình thằng bé, nó thậm chí còn không thực sự thức. Nó ho mà mắt vẫn nhắm chặt, mơ màng, và khi cơn ho cuối cùng đã qua, nó tỏ ra hoàn toàn khỏe mạnh và thở sâu. Khi quay lại giường, tôi khẽ khàng bò vào vì nghĩ chắc Ernest đã
ngủ, nhưng anh vẫn thức.
“Anh xin lỗi vì đã hành xử như một thằng khốn,” anh nói trong bóng tối. “Em luôn là người tốt hơn.”
“Không phải thế,” tôi nói rồi quay qua nhìn anh.
“Chúng ta là cùng một người, không phải sao?”
“Hẳn rồi,” anh nói, rồi anh vò tóc tôi và hôn lên
mũi tôi.
“Chúc ngủ ngon, Tatie.”
“Chúc ngủ ngon, Tatie,” tôi đáp lại.
Chú thích:
(*) Cô (tiếng Đức trong nguyên bản)