BA MƯƠI SÁU
Ở Chenonceaux tòa lâu đài nằm đó, phản chiếu hoàn hảo trên mặt sông Cher. Trông nó như thể do tôi tưởng tượng ra, như thể bước ra từ giấc mơ của tôi và sẽ cứ lơ lửng ở đó cho đến khi tôi quay đi, và nó biến mất. Mắt tôi đưa lên cao, cao mãi, đến một chuỗi các khung cửa tò vò kép, cho đến lúc tôi không còn phân biệt nổi đâu là thật còn đâu chỉ là ảo ảnh.
“Nó được gọi là lâu đài của các quý cô,” Pauline đọc từ cuốn sách hướng dẫn du lịch.
“Cũng có thể nó là nơi các quý cô phải thắt lưng buộc bụng trong bộ áo coócxê và im thin thít,” Jinny nói. “Trong lúc các quý ông thì ở trong lâu đài của bọn họ giải khuây với bọn điếm còn miệng nhai sườn bò cỡ đại.”
Tôi phá lên cười. “Người ta sẽ nghĩ là cô chẳng ưa gì đàn ông đấy.”
“Ồ, bọn họ cũng có chút hữu ích.”
“Tôi cũng nghĩ thế,” Pauline nói.
Chúng tôi đang đi du lịch thung lũng sông Loire, ở vùng lâu đài. Tôi chưa đến đây bao giờ, nhưng Jinny và Pauline thì biết chính xác cần phải ở đâu, cần đi ăn nhà hàng nào và cần gọi món gì. Chúng tôi ăn thịt lợn xay đóng hũ ở Tours, lợn rừng và chim cút và cốt lết bê với bơ, măng tây trắng và nấm tan trên đầu lưỡi, và bảy loại dê. Ở bất cứ nơi đâu chúng tôi tới đều có một loại rượu địa phương khác nhau để thử, và đến đêm chúng tôi ngủ hết sức ngon lành trong những quán trọ thượng hạng. Lúc đầu tôi thấy hơi kỳ khi để hai cô gái chi trả mọi thứ, nhưng họ cứ khăng khăng tôi là khách của họ và toàn bộ chuyến đi này được lập ra là bởi họ muốn chiêu đãi tôi. Thường thì Ernest rất ghét việc để tôi nhận lòng từ thiện của người khác, nhưng khi Pauline và Jinny đề xuất kế hoạch đi Loire, không lâu sau khi chúng tôi trở lại Paris vào tháng Tư, anh đã khiến tôi sửng sốt khi khuyến khích tôi đi.
“Marie Cocotte sẽ đến cho hai bố con anh ăn uống hằng ngày,” anh nói.
“Quyển sách đã xong rồi. Hằng ngày anh sẽ đưa ngài Bumby đi xem đua xe đạp và đặt xe đẩy của thằng bé dưới nắng để nó chợp mắt một giấc lâu. Bọn anh sẽ là một đội tuyệt vời, và em xứng đáng được nghỉ ngơi.”
Đúng, tôi xứng đáng, tôi thầm nghĩ. Những tuần cuối ở Schruns tôi đã dành mọi giây phút rảnh rỗi để chuẩn bị cho các bản nhạc sẽ biểu diễn, trong nỗi e sợ rằng mình chưa sẵn sàng. Chúng tôi đã nói với mọi người quen, và hội trường đã bán gần như hết ghế. Chỉ riêng việc ấy thôi đã là một ý nghĩ đủ khiến ta phát điên, nhưng tôi bám víu lấy tác phẩm trước mặt, từng bản nhạc, từng tiết nhạc, từng sắc thái, tin tưởng rằng đến lúc ấy nếu mọi thứ khác đều thất
bại, tôi có thể dựa vào thói quen của mình. Trong lúc đó, Ernest dốc hết mọi thứ anh có vào việc hoàn thành Mặt trời vẫn mọc, anh đã viết lại nó với tốc độ vài chương mỗi ngày. Giờ thì anh đang chuẩn bị gửi bản thảo cho Maxwell Perkins.
“Anh đang tính sẽ đề tặng nó cho ngài Bumby,” anh nói, “và thêm vài dòng về việc cuốn sách đầy những giai thoại để làm bài học.”
“Anh nghiêm túc đấy à?”
“Dĩ nhiên là không. Anh có ý mỉa mai mà. Scott nói anh không nên làm thế, nhưng anh nghĩ cũng chẳng sao. Bumby sẽ biết thật ra anh muốn nói đừng bao giờ sống theo cách này, như những kẻ độc ác mất mát đáng thương này.”
“Ý anh là khi thằng bé biết đọc,” tôi cười.
“Ừ, tất nhiên.”
“Không dễ để biết ta nên sống như thế nào, phải không? Thằng bé thật may mắn vì có người cha như anh, một ngày nào đó nó sẽ tự hào lắm.”
“Anh mong là em đang nói thật lòng.”
“Tất nhiên rồi, Tatie. Sao lại không chứ?”
“Vì không phải lúc nào cũng dễ để biết ta nên sống như thế nào.”
Khi xếp đồ cho chuyến đi, tôi phải thú nhận rằng tôi thấy nhẹ cả người vì được quay lại nhịp sống Paris quen thuộc và Pauline trở thành một phần trong đó. Khi chúng tôi quay về, cô ta đã ghé qua xưởng cưa ngay lập tức và thật tuyệt, lại là chính mình, cười đùa với cả hai chúng tôi, gọi chúng tôi là “hai gã bạn thân nhất” của cô ta.
“Chúa ơi, tôi đã rất nhớ cô đấy Pfife,” tôi nói thế, và tôi hoàn toàn thật lòng.
Khi chúng tôi khởi hành, cả hai chị em họ đều hết sức phấn chấn. Trong hai ngày, chúng tôi dừng lại ở mọi tòa lâu đài được đánh dấu trên bản đồ, dường như cứ cái sau lại to đẹp hơn cái trước. Nhưng dần dà tâm trạng của Pauline dường như thay đổi.
Ở lâu đài d’Azay-le-Rideau, một thành trì đá trắng cơ hồ trôi nổi trên một hồ súng bao quanh nó, cô ta nhìn mọi thứ bằng đôi mắt u tối. “Làm ơn đi thôi,” cô ta nói. “Tôi không muốn xem gì cả.”
“Chị chỉ đang đói thôi, cưng à,”Jinny nói. “Chúng ta sẽ ăn trưa ngay sau đây.”
“Người ta bảo thảm ở đây mang vẻ huy hoàng của đất Ba Tư,” tôi vừa nói vừa nhìn vào cuốn sách hướng dẫn Pauline chuyển cho mình.
“Ôi chị làm ơn im đi được không, Hadley?”
“Pauline!” Jinny quát.
Pauline trông có vẻ rất sốc vì cô ta thực sự nói ra những lời vừa rồi, cô ta vội đi về phía xe.Về phần mình, tôi thấy đau nhói đến mức tôi cảm giác như máu đã rút hết khỏi mặt.
“Xin chị đừng để ý chị ấy,” Jinny nói. “Em đoán chắc chị ấy ngủ không được ngon. Chị ấy luôn mẫn cảm như thế đấy.”
“Thật ra là tại sao vậy? Cô ấy không muốn tôi ở đây ư?”
“Đừng có ngớ ngẩn. Chuyến đi này hoàn toàn là ý tưởng của chị ấy mà. Cứ cho chị ấy chút không gian riêng, rồi chị ấy sẽ quay lại thôi.”
Jinny và tôi dành gần một tiếng đồng hồ tản bộ trong vườn hoa bao quanh lâu đài, và khi chúng tôi quay lại xe, Pauline đã uống già nửa chai vang trắng ướp đá sau thùng xe.
“Xin hãy tha thứ cho em, chị Hadley. Em thật là một con khốn.”
“Ngoan lắm,” Jinny nói.
“Không sao đâu,” tôi vỗ về. “Ai chả có lúc tâm tính bất ổn.”
Nhưng cô ta uống quá nhiều và dường như đắm chìm ngay bên dưới khoảng thời gian vui vẻ trên bề mặt của chúng tôi, dù chúng tôi có ăn gì, thấy gì hay làm gì. Mặc cho tôi hay bất cứ ai khác có nói gì đi nữa.
Chiều muộn hôm đó, chúng tôi dừng lại và đi dạo trong lâu đài Jardin de Villandry bên bờ sông Loire. Toàn bộ khung cảnh thật hoàn hảo và diễm lệ. Khu vườn xây thành ba tầng, tầng đầu tiên nổi lên từ cao nguyên sông Loire, bao quanh là hàng cây đoạn hoa nở rộ. Hai tầng còn lại xây bậc thang thành những hình khối thú vị, uốn quanh những lối đi lát đá nhỏ màu hồng. Có một vườn thảo mộc, một vườn âm nhạc, và còn có cả khu vườn có tên gọi Vườn Tình, chính là nơi Pauline bước chậm lại hẳn. Cuối cùng cô ta dừng lại đứng ngây ra gần một luống hoa dền đuôi chồn và rồi, không sao hiểu nổi, bật khóc.
“Nín đi, cưng,” Jinny dỗ. “Vui lên nào.”
“Không biết cái gì nhập vào tôi nữa.” Cô ta lau nước mắt bằng chiếc khăn tay linen phẳng phiu, nhưng vẫn không ngăn nổi những dòng lệ trào ra. “Tôi xin lỗi,” cô ta nói, giọng hơi nghèn nghẹt, rồi chạy đi, đôi giày đẹp gõ nhanh trên những viên đá hồng.