← Quay lại trang sách

- 5 -

Những giọt nước mắt của Thương lúc ấy, đến bây giờ nhớ lại vẫn làm lòng ông mát dịu.

Cũng như khi đọc sách, hể đến cái đoạn nào mà mình ưa thích thì phải xem đi, xem lại hoài. Ông cứ ôn trong đầu nét mặt rạng rở của má và thằng em của Thương khi chào đón họ; Nhớ căn nhà lá nhỏ với cái võng và cây mận trên sân; Bữa cơm mắm kho với rỗ rau ghém trắng phếu xắt từ cây chuối hột, trộn với húng cây, ngò gai xanh mướt; Nhớ nhứt là thằng Út, chắc thèm quá hơi cha nên cứ lẽo đẽo theo chân, đòi dắt ông đi hết chỗ nầy tới chỗ khác.

Các hình ảnh đó cũng từ từ phai dần, rồi bắt đầu xuất hiện một cách lộn xộn, xô bồ... Thế là ông để mặc cho tiếng mưa chui vào tai, dẫn mình đi vào giấc ngủ.

Bị một mùi cay sè đánh thức, ông hoảng hồn nhận ra cả căn nhà đã bị khói xâm lăng.

Sau một cơn ho sặc sụa đến trào nước mắt, nước mũi. Ông phát hiện khói tràn vào nhà mình qua khe hở của tấm vách sát nhà cô tám Gói.

Ông vừa gắt, vừa hỏi:

-Bộ hun chuột hay sao mà khói dữ vậy cô Tám?

Cô ta trả lời như nạt:

-Tại ba cái củi ướt nhẹp của ông mà nãy giờ tui thổi muốn lòi hai con mắt đây nè!

Nghe cổ đổ thừa lãng xẹt mà ông phát tức! Định ăn miếng, trả miếng, biểu cổ mua than đước mà nấu. Nhưng với cái tánh thích gây lộn của cô Tám, ông e rằng câu nói đùa của mình sẽ đưa đến một trận đấu võ miệng, mà phần thua một trăm phần trăm sẽ thuộc về ông.

Cô Tám Gói nổi tiếng là bậc cao thủ, có một không hai, có thể coi như "độc cô cầu bại" trong môn phái " Võ Mồm" nầy. Tài nghệ của cổ đã đến mức thượng thừa. Chẳng những hầu hết bà con trong xóm Đình thảy thảy đều tâm phục, khẩu phục mà các xóm lân cận cũng ít ai dám đối đầu.

Ông đành thở dài chép miệng, nói một mình:

-Thôi! Một câu nhịn, chín câu lành.

Trời còn tối hù, chắc chừng ba, bốn giờ sáng. Ở nhà sợ chết ngạt, ông Hai đành chui ra khỏi mùng, xách cái thùng ra phông tên đầu hẽm hứng nước về đổ vô lu.

Ngoài phông tên đã có một dãy thùng xếp dài cả chục thước. Ông tự hỏi hổng lẽ họ thức suốt đêm để gánh nước. Coi bộ chờ hổng nổi, ông định quay vô.

Con Gọn xếp hàng đầu, đang hứng nước thấy ông bèn kêu giựt ngược:

-Ông Hai, lại đây hứng nước nè!

Có tiếng con Ngọc, đứa đang đứng sau lưng nó, phản đối:

-Mầy ngon quá hén! Bộ cái phông tên nước nầy của mầy hay sao mà muốn cho ai hứng thì cho.

Con Gọn xì một tiếng thiệt dài rồi nói:

-Đồ cái thứ nhỏ mọn, ông Hai chớ ai mà tính. Bộ mầy hổng từng xin củi của ổng hả? Mầy coi cái thùng của ổng bao lớn, chờ có lâu lắc gì mà bày đặt làm khó chi vậy?

Con Ngọc đuối lý nên làm thinh. Con Gọn thấy ông còn chưa chịu bước lại nên chạy tới giựt cái thùng trên tay rồi hứng cho đầy và mang lại giùm.

Xách thùng nước đầy tới miệng, ông Hai đi một cách cẩn thận. Mấy con đường trong xóm Đình chưa được tráng xi măng, chỉ có đất thịt và mấy cục đá xanh bằng nắm tay nằm lổn nhổn nên rất trơn. Đám mưa hồi đêm đã để lại những cái vũng nho nhỏ rải rác khắp mặt đường.

Bùn bám đầy trên hai bàn chân, ông Hai bước vô cái vũng khá sâu trước nhà để rửa chân. Có tiếng chân sầm sập sau lưng, ông ngoái lại nhìn, con Gọn đang trờ tới.

Ông khen:

-Con gánh đôi thùng đầy nước, nặng chịch mà đi vù vù, khỏe thiệt!

Thấy nó không vô nhà mà đi tuốt, ông hỏi:

-Gánh nước cho ai vậy Gọn?

Vẫn đi như chạy, nó đáp:

-Cho bà ba Tứ Sắc.

Ở xóm nầy người ta lấy cái nghề kèm với cái thứ mà đặt cho từng người rồi gọi. Cho nên có những cái tên: Chín mài dao, Bảy xích lô, Năm hớt tóc, Tư thợ may...Gọi bà Ba tứ sắc là vì bả mê đánh tứ sắc dữ lắm! Hầu như ngày nào cũng đi đánh bài hoặc rủ người tới nhà đậu chến. Có lần bị công an xông vô nhà ví bắt, bả sợ quá nhảy xuống sông bơi lại nhà ông Hai leo lên trốn. Cũng may gặp lúc ông Hai đang ở trong nhà nên kéo lên giùm, nếu không chắc dám thành ma da rồi!

Có lần ông Hai đã hỏi cô Tám là có phải tại vì cái nghề của cổ là bán xôi, bán bắp, bán đậu phọng, hột mít luộc...Mấy cái món đó đều phải gói nên được gọi là Tám Gói, hay nó thiệt sự là cái tên của tía má cổ đặt cho. Cổ không thèm đáp mà còn nghinh mặt lên trời rồi hỏi ngược trở lại:

-Hỏi chi vậy?

Cô Tám tự cho mình là dân buôn bán, đẳng cấp cao hơn ông Hai một bậc nên coi ổng như bèo. Có lần ông Tư Nhậu vui miệng ghép đôi họ lại với nhau, thế là bị cổ chửi cho đến nổi từ đó ông Tư phải chịu khó đánh một con đường vòng dài gấp đôi ra chợ, chớ không dám đi ngang nhà cổ.

Tuy coi khinh ông Hai như vậy nhưng xem ra cô Tám cư xử khá biết điều. Bởi xài củi của ổng nên thỉnh thoảng nấu món gì ngon cổ hay bưng cho. Sợ bà con dị nghị nên cổ khựi tấm vách chung giữa hai nhà mà đưa qua cho ổng chớ không dám đường đường đi cửa trước. Có khi là tô canh chua, có khi là chén ba khía đã trộn sẵn, có khi là dĩa mắm ruốc xào xả ớt...

Hôm đem gói mắm về ông Hai chia tất cả ra làm ba phần bằng nhau. Ông cho ông Năm một phần, gia đình ông Chín mài dao sát vách bên kia một phần, còn một phần ông cho cô Tám Gói.

Thế là cổ kho liền một nồi mắm rồi cho ông một tô. Tuy không ngon bằng bà sui, má của Thương, đã kho đãi ông hôm trước, nhưng hơn nồi mắm của ông Năm kho sau đó gấp mấy lần.

Khi ông trả cái tô, cám ơn rồi khen thì cổ nói:

-Mắm ngon thì ai kho mà hổng ngon!

Rồi hỏi lại:

-Ở đâu mà anh có?

Ông Hai đáp:

-Chị sui ở dưới quê cho!

Cổ trợn mắt nhìn ông rồi hỏi:

-Ông làm gì có vợ con mà bày đặt làm sui với người ta?

Ông Hai cười, bắt bẻ lại:

-Sao cô biết tui hổng có? Cô có thấy đứa con gái hôm trước ghé nhà tui hông? Con dâu tui đó!

Cô Tám lắc đầu:

-Nghe bà con nói lại thôi chớ tui chưa thấy!

Cổ lại hỏi ráo riết:

-Con trai anh đâu? Vợ anh đâu? Sao tui hổng thấy ghé thăm anh lần nào hết vậy?

Ông Hai giải thích:

-Ở dưới quê. Lâu lâu tui về thăm chớ ghé đây rồi chỗ đâu mà ngủ.

Cô Tám chưa chịu thôi:

-Quê anh ở đâu? Nói nghe thử coi có gần quê tui hông?

Ông Hai đáp một cách bất đắc dĩ:

-Ở Cổ Cò!

Cô Tám bán tín, bán nghi:

-Cái tên gì mà nghe lạ hoắc, có thiệt hông cha nội!

Ông Hai phật ý:

-Không lẽ tui không quê, không quán, không cha, không mẹ, ở trên trời rớt xuống hay sao!

Cô Tám lật đật bào chữa:

-Ý tui hổng phải vậy?

Cái tính hay gây lại nổi lên, cổ cự:

-Hỏi có vậy mà cũng giận, người gì đâu mà câu mâu dễ sợ!