- 6 -
Nghe cổ bắt lỗi mình mà ông Hai mắc cười. Cho tới lúc ấy ông mới nhận ra cái nàng ngọc nữ nói ngang, nói ngược nầy có duyên đáo để, mặt mày coi cũng ngộ.
Ngặt nổi cô Tám ốm quá nên trông bớt hấp dẫn. Giá như được sống trong hoàn cảnh thoải mái, bớt làm lụng và ăn uống đầy đủ, đắp lên cái khung xương thêm năm, ba ký thịt nữa, chắc trông cũng ngon lành chẳng kém thua ai. Ông Hai chỉ nghĩ vậy thôi chớ chẳng có tà ý gì hết!
Có lẽ chính cái tánh không háo sắc đó của ông đã làm cô Tám tổn thương sâu sắc. Thoạt đầu cổ cũng để ý đến ông, có lần còn nhờ ông Hai cạo gió (sau nầy cổ có giải thích là ghẹo chơi để thử coi bản lĩnh ổng tới đâu), nào ngờ bị ông từ chối thẳng thừng. Cổ quê nên đâm ra ghét rồi để ý nhiều hơn còn ngoài mặt thì càng tỏ ra rẻ rúng thêm lên.
Ông Hai không phải là không biết điều đó! Cho nên hể cô Tám càng tỏ vẻ khinh, ghét, thì ông càng thấy nhẹ lòng, càng có cớ để hạn chế trò chuyện với ba mẹ con cổ đến mức tối đa. Vốn đã bị phụ ngay từ mối tình đầu nên đối với ông, phái đẹp vô cùng nguy hiểm, càng tránh xa càng tốt.
Có một lần, lúc ông Hai mới giao cái đình lại cho ông Năm để làm cái nghề bơi xuồng vớt rác. Cả xóm đình nhao nhao khi có một người phụ nữ ăn mặc sang trọng, da trắng bóc, trông y như Việt kiều đến tìm ông. Ông Năm đích thân dắt cổ đến nhà, gặp ngay lúc ông Hai đang mở từng túi rác ra để phân loại.
Niềm vui sắp gặp lại người cũ đang cháy phừng phừng như bó đuốc của cổ, bỗng rớt xuống sông rồi tắt ngấm. Những mẫu chuyện của họ cứ nhạt dần. Túi quà trên tay, cổ còn không dám đưa tận tay ông, chỉ đặt lên sàn nhà chớ đừng nói chi ôm nhau thắm thiết.
Cổ chỉ ghé một lần rồi thôi! Mà cũng ở không lâu.
Trước khi từ biệt cổ còn nói một câu, nửa ngậm ngùi, nửa trách móc:
-Sao anh không ráng leo lên tới mút đọt rồi đạp tui thẳng cẳng? Thà như vậy mà tui còn đỡ đau lòng, đỡ oán hờn hơn là thấy cái cảnh anh nằm sát đất mà vẫn...
Ông Hai bị "giết" hai lần chỉ bởi một người. Vết thương sau còn sâu hơn vết trước, nên từ đó ông tởn đàn bà luôn, hết dám mơ tưởng tới!
Ông Năm biết chuyện nên cứ cằn nhằn ông hoài:
-Phải chi anh vẫn coi đình để tui kiếm chiếc xích lô mà chạy, còn hơn giao cho tui rồi ra thân thời nầy. Thiếu gì việc để làm, mắc mớ gì phải chọn cái nghề vớt rác, thiệt uổng công ba má cho anh ăn học. Đây rồi vong linh ổng bả hổng biết lại trừng phạt, giáng họa cho tui.
Ông Hai không dám giải thích là ông ưa cái thú bềnh bồng trên sông. Nghiện cái cảm giác hay hay, vui vui, mỗi lần vớt lên một túi rác.
Rác càng dơ, càng bẩn thỉu, càng độc hại, ông càng hài lòng vì nghĩ rằng mình đã làm một việc tuy nhỏ nhoi nhưng thật sự hữu ích...
Ông chẳng dám tâm sự với ai về điều đó, kể cả với người em trai mà ông tin yêu nhứt. Ông sợ ông Năm và bà con nghe rồi cho là ông bị loạn thần kinh. Họ sẽ xúm nhau khiêng ông vô nhà thương Chợ Quán, nhốt ông ở trỏng luôn thì khổ không biết bao nhiêu mà nói!
Cái nghề vớt rác cũng chính là lý do lớn nhứt, khiến ông hết dám về quê thăm bà con và gặp gỡ bạn bè. Ông không muốn phải nói dối, cũng không thích đón nhận vẻ mặt thương hại, nghe những câu an ủi dù hết sức chân tình của họ. Ông sợ nó sẽ làm ông nhụt chí, chùn bước trước con đường mà ông đã vạch cho mình.
Mở nắp lu để đổ nước vào, ông nhận ra là cái lu vẫn còn đầy óc ách. Thì ra hổm rày ông ăn ké, uống ké ông em của mình nên lu nước vẫn còn nguyên. Lu nước nhỏ xíu nầy chỉ nấu ăn, nấu uống còn tắm thì ông có cả một con kinh mà khi nước lớn thì phình to như một con sông.
Dù đã sắp ngũ tuần nhưng ông Hai vẫn thích tắm sông như khi còn làm con nít. Ông vốn mạng thủy, lại là "Trường giang thủy" nên hạp với sông dữ lắm!
Những đêm sáng trăng, nước lớn đầy mà, không ngủ được ông lại leo lên xuồng nằm nhìn lên trời. Lắm lúc trong bờ muỗi nhiều, ông bơi ra giữa dòng rồi thả cho nó muốn trôi tới đâu thì trôi.
Cũng vì cái sở thích ấy mà có một lần ông gặp một trường hợp ly kỳ đến nhớ đời:
Đêm ấy trúng phóc ngày rằm tháng bảy, bởi vậy khi thấy một cái bóng trắng trắng phóng xuống sông ngay trước mặt mình, ông cứ tưởng bị cô hồn ghẹo. Chừng nghe tiếng quạt nước và tiếng một người đàn ông kêu to: "Quay vào bờ liền, hông thôi tao bắn đó!", ông mới biết là người thiệt. Một lát sau có một bàn tay từ dưới nước thò lên nắm mép xuồng ông, rồi một cái đầu với mớ tóc đen thùi trùm kín cũng nhô lên từ mặt nước.
Một giọng con gái run run vì lạnh và vì sợ:
-Bác làm ơn kéo cháu lên giùm.
Dù không tin dị đoan, không tin là có thế giới của những người khuất mặt, nhưng thoạt đầu ông nghĩ mình gặp ma da nên mọc óc cùng mình. Tới chừng nghe tiếng nói mới thở phào nhẹ nhỏm. Ông vói tay kéo cô gái lên bờ. Trời đất ơi! Cô ta trần như nhộng.
Có tiếng súng nổ chỉ thiên và tiếng gọi của người đàn ông khi nãy:
-Cái xuồng đó bơi vô đây!
Cô gái bỗng quỳ sụp xuống mà lạy:
-Con lạy bác, xin đừng bơi vô!
Cô ta vẫn cúi mọp đầu nói tiếp:
-Bác mà bơi vô là họ bắt con đưa đi cải tạo liền. Con sắp thi rồi, bác làm ơn giúp con.
Ông Hai cảm thấy tràn ngập một niềm cảm thương dành cho cô gái, liền thảy cái áo mưa để sẵn trên xuồng cho cổ mặc vô, rồi chĩa mũi xuồng qua bờ bên kia mà bơi thục mạng.
Tới ngã ba ông liền rẽ vào, vẫn bơi không ngơi tay tận cho đến khi chung quanh toàn là lau sậy với dừa nước, ông mới dừng lại mà thở hào hển.
Ông không hỏi câu nào, thế nhưng cô gái vẫn kể ông nghe về lai lịch của mình.
Cổ nói:
-Từ trước tới giờ con ở dưới quê, năm nay vừa thi đậu đại học xong nên lên đây đi học. Nhà con nghèo lắm, ba má làm ruộng nên đâu nuôi nổi. Bất đắc dĩ lắm con phải làm nghề nầy, định kiếm đủ tiền trang trải rồi là nghỉ. Ngờ đâu mới được chưa đầy một tháng thì đã bị chộp.
Ông Hai thở dài:
-Đi đêm có ngày gặp ma. Đâu phải lần nào cũng thoát được. Con mà còn làm nữa thì...
Cô gái lắc đầu lia lịa:
-Một lần là con tởn tới già luôn, con giải nghệ liền lập tức. Chắc chắn không có lần thứ nhì đâu bác!
Hơn nửa đêm ông Hai mới dám bơi xuồng về nhà. Đưa cô gái lên bờ xong, ông chạy u lại đình, kéo cẳng ông em đang ngáy o o mà xin cầu cứu. Ông Năm chạy vù đi, lát sau mang về một bộ đồ còn khá mới.
Ổng đưa ông rồi nói:
-Thiệt là xấu hổ. Bà Ba Tứ Sắc hỏi ráo riết, tui bí quá đành nói thiệt. Cũng may hôm bữa anh cứu bả nên bả mới tin, còn lựa bộ đồ thiệt tốt mà đưa, nói là để trả ơn.
Ông Hai lật đật cặp nách bộ đồ, đem về đưa cho cô gái rồi hối:
-Cháu mặc cái nầy vô đi!
Chờ cô gái thay đồ xong ông mới bật hột quẹt để đốt cây đèn trứng vịt lên. Ánh sáng vàng vọt vẫn giúp ông nhận ra gương mặt trong sáng, tuy không son phấn vẫn rất dễ nhìn của cô gái. Cổ hết sức có duyên nhờ trên chót mũi có cái mục ruồi cỡ hột ổi.
Cô gái hỏi cho có chuyện để nói:
-Bộ nhà mình không mắc điện hả bác?
Ông cười:
-Bác về nhà là để ngủ thôi nên ít khi xài điện. Hơn nữa mấy căn nhà sát bờ sông cứ bị hăm giải tỏa hoài hà! Nên bác đâu dám bỏ tiền xin gắn đồng hồ điện!
Tiếng lục đục bên nhà ông khiến cô Tám để ý. Cổ thường dậy vào giờ nầy để nấu xôi. Chắc nghe có giọng phụ nữ trong nhà ông nên tò mò.
Cổ tằng hắng mấy cái rồi hỏi:
-Anh Hai ơi! Bữa nay có xôi đậu phọng nè! Ăn hông, tui đơm cho một dĩa?
Ông trả lời:
-Thôi khỏi đi cô Tám. Hồi chiều chị Chín cho một tô canh khoai mỡ bự chà bá, ăn với dưa mắm ngon quá mạng. Tui ráng ăn cho hết tới bây giờ còn no!
Dù ông từ chối nhưng lát sau tấm ván nhỏ giữa hai nhà vẫn bị đẩy bật lên và một dĩa xôi đưa qua. Miếng xôi cháy vàng ươm hết sức hấp dẫn làm ông Hai kềm lòng không đậu.
Đưa dĩa xôi cho cô gái trước, ông nói:
-Ăn đi cháu, xôi nầy ngon lắm đó!
Cô gái hình như cũng đói bụng nên không khách sáo. Cô cầm miếng xôi lên, bẻ ra làm hai rồi đưa cho ông phần lớn hơn bằng cả hai tay và mời lại:
-Bác ăn với cháu cho vui đi bác!
Miếng xôi ngon làm sao! Mùi nước dừa thơm lừng cộng với mấy hột đậu phọng mềm mụp của nó cũng đã đủ ngon rồi! Cái không khí thân thiện, niềm cảm thông dành cho cô gái khiến nó càng thêm hấp dẫn. Cho tới nổi bây giờ nhớ lại, ông bỗng nghe nước miếng tươm ra ngập hết mấy cái chưn răng.