← Quay lại trang sách

- 12 -

Ông Hai đành đội cái nón lên đầu, nhận ra nó quá chật. Cái đầu ông vốn to, lại thêm mớ tóc dày cui nên nong vô hơi vất vả, cảm giác bị "đè đầu cưỡi cổ" càng tăng.

Ông thở dài, thốt:

-Cái giá của sự phồn vinh!

Ông Tiến hỏi:

-Mầy nói cái gì?

Ông Hai giải thích:

-Phải đi bộ thì đâu cần đội nón.

Ông Tiến cười:

-Giờ nầy mà tao với mầy đi bộ lang thang, thiên hạ dám cho là hai thằng mình khùng lắm! Nhìn hai bên lề coi! Sài Gòn đâu còn cái cảnh người người đi bộ dập dìu như hồi mình mới tới đây đi học.

Ông Hai nhận ra mùa đi bộ đã chấm dứt từ lâu. Trên lề không còn những cô, cậu học trò ôm tập đi sát mái hiên, hoặc lủi vô bóng cây để tránh nắng. May mà thuở đó Sài Gòn còn rất nhiều cây ở hai bên đường. Ông bỗng bùi ngùi, nhớ lại thời thư sinh gian nan, vất vả của mình.

Thuở ấy ông ở trọ nhà người bà con tận Chợ Quán. Những ngày hết tiền, túi chẳng còn xu nào để mua xôi ăn sáng thì nói làm gì tới cái chuyện mua vé ngồi xe buýt.

Sáng sáng ông cuốc bộ đến trường, trưa vô thư viện ngồi học. Đang đói mà nghe, thấy cô gái ngồi đối diện, moi túi xách lấy gói bánh tây ra rồi xé cái bao giấy một cách rón rén. Cho dù cô ta thực hiện các động tác ấy rất nhẹ nhàng và nhai rất khẻ khàng, thế mà cả triệu tế bào hết sức thính tai nằm trong bao tử của ông đều nghe được rồi kêu gào thảm thiết! Ông phải chui vô toa lét, kề miệng vào vòi nước uống ừng ực để trấn an tụi nó.

Buổi chiều lết bộ về nhà, đi ngang mấy xe mì, ngửi mùi nước lèo thơm ngào ngạt bay ra từ cái thùng bự bành ky mà...Chỉ muốn nhảy vô đó tự tử cho rồi!

Mấy cái quán cơm còn ác hơn. Để dụ khách, họ đặt một cái vỉ than đỏ rực sát đường. Mấy miếng sườn cốt lếch, mấy que sườn non được ướp đủ thứ: Nước mắm, xì dầu, đường, tiêu, hành, tỏi, ớt...Chúng được sắp xếp một cách rất thứ tự lên đó, phơi bày toàn bộ vẻ gợi cảm của mình không chút ngượng ngùng. Cái màu vàng nâu ánh mỡ, cái mùi thơm của miếng thịt hơi quá lửa, cái tiếng "xì xì, xèo xèo " của những giọt mỡ rơi xuống cục than hồng... đã làm ông tan nát cõi lòng. Chúng khiến chân ông "nặng nề", lòng ông "nức nở"... Ông chỉ muốn ngồi thí mạng cùi lên một chiếc ghế, gọi một dĩa cơm với miếng sườn ngon nhất, lớn nhất, ăn cho "bể mỏ" rồi tới đâu thì tới!

Lúc chưa rơi vào lưới tình của Thủy, ông đã ao ước giá mình lọt vào mắt xanh một cô con gái của một bà chủ quán cơm nào đó, rồi được cổ cho ăn chịu thoải mái, đã đời!

Đường phố Sài gòn đã chà xát bao nhiêu cái dạ dày mỏng tanh vì tự tiêu hóa lấy mình? Đã làm mòn gót, há mỏm mấy đôi giày ba ta? Rách lai bao nhiêu cái quần ka ki? Đã làm kiên cường hơn hay bóp nát vụn nghị lực của bao nhiêu tên học trò tỉnh lẻ nhà nghèo như ông rồi?

Ông thở dài:

-Sài gòn bây giờ xe gắn máy nhiều quá!

Ông Tiến bắt lỗi:

-Mầy ở Sài gòn bấy lâu nay, có đi đâu mà làm như Từ Thức không bằng.

Ông Hai cắt nghĩa:

-Tao suốt ngày ngồi trong xuồng, đi đường thủy không hà. Ít khi ra đường nên...

Ông Tiến cắt ngang bằng một giọng e dè:

-Tao hỏi câu nầy mầy đừng buồn, đừng giận nghe!

Thế rồi ổng bỗng im ru, chắc ngại.

Ông Hai chờ hoài không nghe nên hỏi lại:

-Mầy hỏi cái gì sao không nói?

Thấy ông Tiến vẫn làm thinh, ông bèn nói:

-Chắc mầy muốn hỏi tại sao tao ở chỗ đó, làm cái nghề đó phải hông?

Ông Tiến gật đầu:

-Tao biết tánh mầy thích làm việc tốt, thích cho hơn nhận, sống theo lý tưởng...Nhưng thiếu gì cách có ích hơn, thoải mái hơn! Mắc gì phải...

Ông Hai hỏi:

-Tao đố mầy ba cái món đồ, bất cứ thứ gì: Thân thể, quần áo, chén bát, nhà cửa, kể cả đất đai... bị bẩn. Muốn cho chúng sạch trở lại, mình phải làm sao?

Ông Tiến đáp:

-Phải rửa!

Ông Hai hỏi thêm:

-Rửa bằng gì?

Ông Tiến đáp:

-Bằng nước!

Ông Hai hỏi tiếp:

-Nếu nước dơ thì lấy cái gì để rửa.

Ông Tiến làm thinh, suy nghĩ rất lâu rồi hỏi lại:

-Theo mầy thì lấy cái gì để rửa?

Ông Hai đáp:

-Mồ hôi!

Ông Tiến cười:

-Mồ hôi làm sao đủ...

Ông Hai đáp:

-Một người chắc chắn không đủ, nhưng nếu ai cũng đổ mồ hôi thì tao cho là đủ.

Ông Tiến cười phá lên:

-Đâu phải ai cũng nghĩ như mầy, đâu phải ai cũng thích...

Ông Hai đáp bằng giọng hết sức nghiêm trang:

-Mấu chốt là ở chỗ đó! Người ta không muốn, hoặc có muốn cũng không dám làm.

Ông Tiến hỏi:

-Tại sao không dám!

Ông Hai vừa hỏi, vừa đáp:

-Bộ mầy không hiểu sao? Họ bị lệ thuộc vào cái thang giá trị của xã hội. Xã hội thúc đẩy, khuyến khích họ càng leo lên thật cao càng tốt. Thế nhưng mỗi một thời kỳ, thứ tự trên đó lại xáo trộn, bị lộn tùng phèo một cái ào hoặc đổi chỗ cho nhau một cách từ từ. Theo mầy bây giờ cái nấc thang thấp nhứt là những người nào?

Ông Tiến đáp cái rụp:

-Mấy người ăn xin, mấy tên lang thang ăn bám xã hội chớ ai!

Ông Hai hỏi tiếp:

-Thế mầy có biết ai là người hành khất vĩ đại nhứt không?

Ông Tiến không thèm suy nghĩ, hỏi:

-Ai?

Ông Hai đáp:

-ĐỨC PHẬT THÍCH CA!

Không chờ ông Tiến bác lại, ổng giải thích:

-Vào thời đó! Nghề hành khất được mọi người trong xã hội của ngài tôn trọng. Lúc ấy người ta chú trọng hết sức đến sự tự do. Tự do của tâm trí cũng như thân xác. Họ nhận ra rằng con người, chừng nào còn làm nô lệ cho của cải, còn mang tính sở hữu là còn trầm luân, khổ não. Bởi vậy họ vứt bỏ hết, không bám vào bất cứ thứ gì kể cả tình cảm. Đức Phật Thích Ca còn rốt ráo hơn! Ngài còn không bám vào thân, không chấp nhận sự điều khiển của nó. Ngài đề xướng thuyết "vô ngã". Ngài đã thành công, buông bỏ tuyệt đối, đạt được sự tự do tuyệt đối, đi đến trạng thái mà ngài gọi là nhập niết bàn!

Ông Tiến phản đối:

-Đem những người hành khất ngày nay ra so sánh với đức Phật là mang tội lớn lắm đó! Ngài là đấng minh triết, xã thân cho muôn loài. Còn họ thì cho, chỉ tao với mầy thôi, được cái gì?

Ông Hai nói:

-Họ cho mầy sự mãn nguyện, sự sung sướng vì thấy mình đẹp hơn, cao quý hơn, hạnh phúc hơn người khác. Cái đó không phải là thứ quý báu nhất, hơn tất cả của cải hay sao?

Ông Tiến làm thinh, ông là người đang thành đạt, ông biết bạn mình nói đúng. Đừng nói gì so sánh mình với những người hành khất, ngay cả với cái người ngồi sau lưng mình thôi ông cũng nhận ra cái cảm giác đó rồi. Tuy thương và thật lòng ái ngại cho bạn nhưng ông vẫn không khỏi hãnh diện ngấm ngầm.

Không muốn dấn sâu vào cái đề tài hóc búa ấy, ông Tiến moi óc tìm một điều gì hay ho để nói.

Chợt thấy một người đàn ông đầu trần, tóc hoe, vác ba lô sau lưng đi trên lề đường phía bên kia. Ông chưa kịp lợi dụng y ta để thay đổi chủ đề, thì ông Hai đã mừng húm, đập tay lên vai ông rồi vừa cười, vừa chỉ ngón tay trỏ về phía người du khách đó, vừa nói:

-Có một người đi bộ kìa!

Ông Tiến giải thích:

-Đó là mấy thằng "tây ba lô" đi du lịch. Từ ngày nhà nước áp dụng chính sách kinh tế thị trường, mở bớt vài cánh cửa, mời nước ngoài đến đầu tư và quảng bá du lịch, du khách tây phương đến nước mình khá đông. Mầy còn nhớ con đường Phạm Ngũ Lão không?

Ông Hai theo thói quen, đáp bằng cách gật đầu. Ổng chợt nhớ mình ngồi sau lưng ông Tiến, gật đầu làm sao bạn thấy nên đáp bổ sung:

-Nhớ, rồi sao?

Ông Tiến nói:

-Bây giờ nó được gọi là "phố Tây ba lô". Mấy căn nhà ở đó họ biến thành khách sạn mi ni hết ráo! Đặc biệt, chỉ có dân du lịch tới ở thôi hà!

Ông Tiến nói thêm:

-Tao đoán là trong tương lai, nước mình sẽ "phất" lên nhờ du lịch như Thái Lan vậy đó!

Ông Hai lại gật đầu:

-Ừ! Nước mình có nhiều cảnh đẹp lắm! Ba miền có ba sắc thái khác nhau. Sông, núi, biển hồ, đồng bằng... Cảnh gì cũng có. Ẩm thực thì phong phú, người mình lại khoái khách, nhứt là khách tây. Con nít người lớn gì cũng vậy, hể gặp họ là cười hết miệng liền.

Ông Tiến thở dài:

-Có điều đường phố mình còn nhếch nhác quá! Bởi vậy nhà nước đang cố quét sạch mấy người buôn bán lấn chiếm lòng lề đường!

Ông Hai bỗng nhớ đến gương mặt nhăn nhó của Tư Nên ngày nào. Nhớ đến cô Tám và hai đứa con đã nhiều lần phải ăn xôi trừ bữa. Cho dù trong những ngày bị đuổi ráo riết, cổ bưng thau xôi đi bán dạo, rồi đem về để trước cửa, năn nỉ mấy đứa con nít trong xóm ăn giùm, bán rẻ rề mà đâu có hết! Những ngày đó ông thường mua mão rồi đem ra đình bắt ông Năm, em mình, ăn phụ.

Ông thở dài, nói:

-Tội nghiệp bà con xóm tao! Bấy lâu nay họ ôm con đường mà sống, bây giờ bị đuổi thẳng tay, ai cũng rầu thúi ruột. Tao thấy hể cải cách là dân nghèo chịu thiệt.

Ông Tiến cũng thở dài:

-Cuộc cải cách nào cũng đòi hỏi sự hy sinh. Nhưng hình như cái khoản hy sinh đó thường dân hay lãnh đủ còn...

Ông Hai thêm:

-Đó là cái giới chịu nhiều thiệt thòi nhiều nhứt: Nghĩa vụ thực hiện đầu tiên, quyền lợi hưởng sau cùng.

Xe dừng lại trước một cái quán không có bảng tên. Những dòng chữ màu xanh, được vẽ bằng cọ trên tường cho biết họ bán cà phê, điểm tâm, cơm bình dân.

Ông Tiến dựng xe ngay trước cửa, ngồi quay mặt ra đường để ngó chừng chiếc xe. Ông Hai ngồi đối diện. Ông Tiến kéo một cái ghế trống lại kế bên mình rồi bảo:

-Mầy qua đây ngồi nhìn ông đi qua bà đi lại với tao cho vui!

Bên kia đường một căn nhà lầu ba tầng, trang bị cửa kính rất sang trọng. Một tấm bảng rất to choán hết mấy cánh cửa cái, cửa sổ của tầng trên, ghi: "Trung tâm tin học, ngoại ngữ DŨNG TIẾN ".

Ông Hai quay sang nhìn bạn. Ông Tiến gật đầu:

-Nhà của tao đó!

Ông Hai buộc miệng:

-Mầy giỏi quá! Tạo được cơ ngơi như vầy đâu phải là dễ.

Ông Tiến khiêm tốn:

-Tao hên nhiều hơn hay. Căn nhà nầy là của ba má vợ đi Mỹ để lại cho vợ tao. Nhờ anh chị em vợ gửi tiền về cho mượn nên tụi tao mới mở nổi cái trung tâm nầy.

Ông Hai hỏi:

-Được bao nhiêu lớp vậy mậy?

Ông Tiến đáp:

-Ngoại ngữ ba, tin học một.

Ông Hai vừa định hỏi tiếp, thì ông Tiến đã nhanh miệng hơn:

-Mầy uống cà phê, ăn điểm tâm hay mình ăn cơm trưa luôn?

Ông Hai còn ngần ngừ chưa kịp đáp thì ông Tiến đã quyết định:

-Thôi ăn trưa luôn đi, giờ nầy mấy món điểm tâm chắc nguội ngắc hết rồi.

Ông Hai hỏi:

-Mầy về tới trước cửa nhà rồi mà không vô ăn cơm với vợ, với con sao?

Ông Tiến thở dài:

-Tụi tao không có con, vợ tao bận, không nấu cơm trưa được. Hơn nữa, bả ghét chui vô bếp lắm! Tụi tao ngày ba bữa ăn cơm tiệm không hà!

Sợ ông Hai khoét sâu vào đề tài con cái, ông Tiến nhắc:

-Hồi nãy mầy tính hỏi tao cái gì đó?

Ông Hai cau mặt ráng nhớ, lát sau vỗ tay lên đùi, cho hai chưn mày trở về vị trí cũ, rồi hỏi:

-Cái trung tâm của mầy dạy mấy thứ tiếng?

Ông Tiến đáp:

-Tiếng Anh là chủ yếu. Còn tiếng Nhật với tiếng Hoa thì ít người học quá nên tao dẹp rồi.

Ông Hai thắc mắc:

-Như vậy thì gọi trung tâm có đúng hông? Có phóng đại hông?

Ông Tiến cười:

-Mầy có nghe chữ "nổ" chưa? Bây giờ là thời buổi mà ngành quảng cáo bùng nổ, cho nên ai cũng làm nghề thổi bong bóng hết. Mình làm ăn, không "nổ", không quảng cáo rầm rộ là lỗ, là bị thiên hạ qua mặt vù vù. Tao còn đỡ, chớ nhiều thằng còn nổ "dã man" hơn nhiều.

Ông Hai lại hỏi:

-Như vậy có bị xem là lường gạt thiên hạ hông mậy?

Ông Tiến cười buồn:

-Ban đầu tao cũng đắn đo, ray rức. Bị qua mặt mấy cú nên phải cắm đầu bơi theo họ thôi. Thời buổi nầy cạnh tranh ráo riết lắm! Mầy nghe cái câu "thương trường là chiến trường chưa"? Để thành công người ta bất chấp thủ đoạn, vũ khí càng tối tân, càng có độ hủy diệt cao càng tốt.

Ông Hai thở dài:

-Hình như bây giờ có hai dạng giàu. Một là nhờ tài, hai là nhờ tội.

Ông Tiến bổ xung:

-Còn một dạng thứ ba nữa là vừa tài, vừa tội.

Người phụ nữ trung niên bước tới hỏi ông Tiến:

-Thầy Ba ăn gì? Cơm dĩa hay cơm phần?

Ông Tiến quay sang ông Hai:

-Cơm phần cho ngon hén! Mầy muốn ăn thứ gì thì cứ gọi.

Ông Hai lắc đầu:

-Tao lạc hậu với cái việc ngồi quán, gọi món ăn lắm, tùy mầy thôi!

Ông Tiến quay mặt về phía người phụ nữ, hỏi:

-Bữa nay có canh gì bà chủ?

Bả đáp một lèo:

-Canh chua cá ngác, canh rau mồng tơi, canh khoai mỡ.

Ông Tiến hỏi tiếp:

-Món mặn, món xào?

Bả vừa kể vừa bật mấy ngón tay:

-Cá rô kho tộ, tôm đất rim với thịt ba rọi, cá kèo kho tiêu, cá cơm kho giòn. Thịt bò xào, mực xào...

Ông Tiến ngắt ngang:

-Canh chua, tôm rim, cá kèo kho, cải rỗ xào thịt bò. Bốn món được rồi.

Bà ta lắc đầu:

-Bữa nay không mua được cải rỗ, chỉ có thịt bò xào bó xôi, xào lê nghim, xào khổ qua, xào...

Ông Tiến quyết định một cái rụp:

-Xào bó xôi!

Bả hỏi thêm:

-Thầy uống bia hay...

Ông Tiến không thèm hỏi ý ông Hai, đáp luôn:

-Hai lon Ken.

Bà chủ vừa bỏ đi vừa lập lại thật to những món ông Tiến đã gọi. Cô gái đang xới cơm trong cái nồi cơm điện loại to nhứt, đứng sau quầy thức ăn cứ gật đầu từng chập.

Ông Hai vội vàng phản đối:

-Tao uống trà đá thôi! Uống bia vô nữa là cái bao tử...

Ông Tiến liền gọi vói theo:

-Không uống bia, cho hai ly trà đá!

Rồi quay lại hỏi:

-Bộ mầy đau bao tử kinh niên hả?

Ông Hai lắc đầu:

-Lâu lâu uống rượu mới bị.

Ông Tiến rầy:

-Vậy thì uống làm chi!

Ông Hai cười:

-Tại từ chối không được.

Ông Tiến thở dài:

-Phải tập lắc đầu đi, nhứt là những thứ liên quan tới sức khỏe. Tao rút kinh nghiệm từ bản thân mà khuyên. Mầy phải bỏ cái tánh xìu xìu, ểnh ểnh thì mới khá nổi.

Ông Hai nghe rồi bật cười. Ông Tiến hỏi, giọng không vui:

-Bộ tao nói sai hay sao mà mầy cười?

Ông Hai đáp:

-Mầy nói đúng. Tại tao nhớ mấy câu nầy hình như hồi xưa tao hay nói với mầy thì phải?

Ông Tiến cười:

-Thì lời vàng, ý ngọc, nên tao mới cất để dành, bây giờ trả lại cho mầy đó!

Bà chủ bưng cái mâm to đựng đầy đủ các món với cả một thau cơm lớn.

Ông Hai quở:

-Mầy kêu làm chi mà nhiều dữ vậy?

Ông Tiến cười:

-Bây nhiêu mà nhiều sao? Tao nhớ ngày xưa, bị tụi tao thách, mầy ăn hết vèo cái nồi cơm số ba. Báo hại bữa đó tao với thằng Lương nhịn đói.

Ông Hai cảm động:

-Mầy còn nhớ mấy chuyện đó sao?

Ông Tiến gật đầu:

-Đó là quảng đời tuy chật vật, thiếu thốn mà vui nhứt của tao đó mầy!

Ông Hai triết lý:

-Hình như nghèo dễ vui hơn giàu hả mậy?

Ông Tiến ngậm ngùi:

-Chớ còn gì nữa! Tao nhớ có lần túng tiền, lượm được năm đồng tao mừng quá mạng. Bây giờ mà có kiếm được bạc tỷ chắc tao cũng không mừng bằng.

Ông Hai nhắc:

-Hồi đó mầy lúc nào cũng than túng tiền, than cho tới nổi bị đem hai chữ "Túng tiền" gắn vô tên luôn! Mà ai đặt cái biệt danh đó cho mầy. Mầy có nhớ không?

Ông Tiến cười:

-Thì cái thằng Lương "Bất lương" đó chớ ai! Nói thiệt hồi đó tao giận nó hết biết. Sợ đeo luôn suốt đời, gỡ không ra. Mầy biết không tao ghét cái thằng "nghèo" hơn bất cứ thằng nào. Bởi vậy mà...

Ông Tiến dừng ngang, ông Hai lại chờ, lại hỏi:

-Bởi vậy mà sao?

Ông Tiến thở dài:

-Tao không dám cưới con Bé Hai.

Ông Hai ngạc nhiên:

-Con Bé Hai nào?

Ông Tiến hơi ngượng:

-Con nhỏ giúp việc cho bà Mười bán cơm đó!

Ông Hai nhớ ra rồi hỏi liền:

-Phải cô gái ốm nhom, mặt buồn hiu, mắt ngó xuống đó hông?

Ông Tiến gật đầu:

-Nó tốt lắm! Biết tao nghèo nhứt bọn nên thương. Có lần tao ghé ăn một mình, kêu dĩa cơm với dưa mắm, mỡ hành. Nó đem ra một dĩa cơm bự bành ky đầy nhóc. Tao trộn lên thấy có nguyên một miếng sườn vùi chính giữa. Nó còn làm bộ thối tiền lộn cho tao. Tới bây giờ tao cũng còn thắc mắc, không biết tiền đó là của bà Mười hay nó bỏ tiền túi của mình vô! Hồi đó tao thương nó thiệt tình, quyết định ra trường có việc làm là cưới...

-Vậy sao mầy...

Hỏi tới đó là ông Hai hối hận nên ngưng liền.

Ông Tiến thở dài:

-Thì cũng tại cái thằng "Nghèo" làm kỳ đà cản mũi.

Kỹ niệm không vui ấy làm cả hai ăn không thấy ngon.

Uống hết ly trà đá ông Tiến rủ:

-Vô nhà tao nghỉ đi, một chút bớt nắng tao chở mầy về.

Ông Hai đáp:

-Ừ!

Ông Tiến ngồi tại chỗ gọi:

-Tính tiền!

Bà chủ chạy đến, nhìn thức ăn còn ê hề bà xịu mặt hỏi:

-Sao bữa nay ăn ít quá vậy thầy Ba?

Ông Tiến đáp:

-Xin lỗi chị! Thức ăn ngon lắm, tại gặp lại bạn thân nên mừng quá ăn không nổi.

Bà chủ chắc lưỡi:

-Bỏ uổng quá!

Ông Hai e dè hỏi:

-Bộ ba cái nầy đem đổ bỏ thiệt sao chị?

Bà chủ hỏi lại một cách phật ý:

-Hổng lẽ tui trút vô nồi, bán lại cho khách?

Ông Hai lật đật bào chữa:

-Không phải, không phải! Ý tui là ngon thế nầy ai nỡ đem bỏ. Vây nhờ chị đựng vô bịt để tui đem về nhà ăn, chiều nay khỏi nấu, có được không?

Rồi ông nói thêm:

-Món nào cũng đặc sắc, bỏ tiếc lắm!

Nét mặt bà chủ tươi rói trở lại.

Bả nhìn ông, tia mắt chứa đầy thiện cảm, cười và đáp:

-Để tui vô hộp cho anh đàng hoàng.