- 17 -
Không phải gương mặt hơi tròn với làn da trắng mịn, không phải đôi môi đầy gợi cảm, không phải đôi mắt rất đẹp, rất trong... Không phải sự phối hợp hài hòa của chúng đã tạo thành một nét đẹp rất thuần phác, thu hút mất hồn ông. Chính bởi cái nút ruồi đen, nhỏ bằng hột ổi nằm ngay trên chót mũi xinh xinh của cô ta đã khiến ông kinh ngạc, chết đứng như vừa bị điểm vào tử huyệt!
Cũng may mà ông Tiến đang chăm chú quan sát chiến trường. Ổng đang phóng tia mắt về phía trước, nhìn đăm đăm vào nhà, xem đối phương có đang phục kích họ không, chẳng để ý chút nào đến việc ông Hai đang đứng chết sửng sau lưng. Nếu quay lại nhìn biết đâu ổng cho rằng bạn mình...rồi đổ ghè tương lênh láng.
Cô gái thì có! Cô cảm nhận tia mắt sửng sốt và nét mặt choáng váng của ông Hai. Cổ cười mỉa trong bụng, nhủ thầm một cách tự hào:
-Cha nội nầy coi bộ bị sét đánh trúng rồi.
Qua giây phút bàng hoàng, ông Hai cũng dần trấn tĩnh. Ông liếc nhìn cô gái để thăm dò phản ứng. Thấy cô ta tỉnh rụi, ổng biết cổ không nhận ra mình nên thở phào nhẹ nhỏm.
Ông Tiến vừa thò tay ra sau lưng để kéo tay ông Hai, vừa nói:
-Đi mầy!
Ổng cố tình để ông Hai đi trước mình. Họ vừa đặt chưn tới thềm là được một đôi vợ chồng lớn tuổi, có lẽ đã chực sẵn bước ra nghênh tiếp.
Người phụ nữ nhỏ thó, có dáng điệu rụt rè và cái nhìn hiền khô. Bả ngó ông Hai với cái miệng he hé như phân vân không biết có nên cười một cái hay không?
Người đàn ông trạc tuổi ông Chín mài dao thì hoàn toàn ngược lại. Đôi mắt ông ta như hai mũi khoan, đang khoét hai cái lỗ tròn vo, sâu hút trên gương mặt ông Hai.
Ông Hai bỗng nghe mình trẻ ra đến ba, bốn chục tuổi. Cái cảm giác của người ăn vụng bị bắt gặp đã chìm sâu trong dạ, tưởng đâu hoàn toàn chết ngộp, nào ngờ lại hồi sinh một cách vô cùng mãnh liệt. Cho dù lần nầy ổng hoàn toàn vô tội, bởi đâu chấm mút chút nào!
Ổng, người tự cho mình là "cây ngay không sợ chết đứng", không ngán bất cứ một ông nhỏ, ông lớn nào, đôi phen còn lên tiếng bắt bẻ ông trời. Bây giờ chợt rung cái cẳng trước cái ông "cha vợ" nầy.
Ông Hai cúi gập cái đầu, chào một cách lễ phép:
-Con kính chào hai bác!
Ông "cha vợ " bèn tằng hắng một tiếng rất to để thị uy rồi hỏi:
-Cậu là thằng Dũng, bồ của con Thư phải không?
Ông Hai chưa biết trả lời sao thì cô gái đã nói hớt:
-Ba để cho anh Dũng với bạn ảnh ngồi xuống rồi muốn hỏi bao nhiêu thì hỏi.
Nghe con gái nhắc một cách trịnh trọng, liếc thấy cả hai đều "đường đường một đấng...". Ổng bèn chỉ tay vào bộ sa lông rồi mời, xuống giọng đến mấy tông:
-Hai cậu ngồi đi!
Rồi ngồi xuống cái ghế dài nhứt, đặt ngay chính giữa trước.
Ổng ngoắc bà vợ của mình- bả đang quay lưng, dợm cẳng, chắc có ý định rút lui vào hậu trường- vỗ tay lên chỗ trống bên cạnh một cái "bộp" rồi bảo:
-Bà lại đây mà ngồi.
Bà ta riu ríu tuân theo.
Ông Tiến, tên tội đồ đích thực, ung dung ngồi xuống cái ghế phía trái. Ông Hai, vẫn chưa được phục hồi nhân phẩm, ngồi một cách rụt rè lên cái ghế đối diện.
Chờ ông Hai an tọa xong. Ông "cha vợ" bắt đầu sát hạch liền.
Ổng nhập đề theo lối "trực khởi":
-Bây giờ cậu tính sao? Cưới hay là không?
Ông Hai chưa kịp đáp, thì ổng lại hỏi tiếp, giọng có phần nghiêm khắc hơn:
-Cậu có vợ con gì không?
Ông Hai đáp vội:
-Dạ không!
Ông "cha vợ " hỏi lại:
-Không là không cái gì? Không có cưới, hay là không có vợ? Nói cho rõ ràng!
Ông Hai "điền vào chỗ trống " thật chính xác:
-Dạ cưới và con chưa có vợ.
Ông "cha vợ " vẫn chưa yên bụng, điều tra tiếp:
-Làm cái giống gì mà tới cái tuổi nầy còn chưa chịu lấy vợ?
Ông Hai đáp:
-Tại con lo làm ăn, công việc chiếm hết thời giờ nên chưa rảnh...
Ổng nạt ngang:
-Vậy lấy thời gian ở đâu mà de con Thư rồi làm cho nó mang bầu vậy?
Ông Hai cứng họng.
Cô gái tên Thư vội đỡ lời:
-Ảnh bị tam tai, xui tới ba năm. Cái năm nay kỵ tuổi của ảnh dữ lắm! Tụi con định để qua...
Ổng đập tay xuống bàn một cái rầm, hỏi:
-Để tới chừng nào? Để bôi tro, trét trấu lên mặt tao với má mầy thêm mấy lớp nữa hả?
Cả nhà ngồi im ru. Cô gái cúi đầu, hai giọt nước mắt rơi lên vạt áo.
Ổng lại đập tay lên bàn, lần nầy còn mạnh hơn, nói như quát:
-Bây giờ phải làm đám cưới liền tay, cho dù kỵ tới toi mạng cũng phải làm. Để cái bụng thè lè ra là mang nhục với bà con, họ hàng đó, biết chưa?
Bà vợ lấy tay sờ nhẹ lên bàn tay của chồng rồi nói, giọng nhẹ hều:
-Ông nói nhỏ nhỏ một chút, hông thôi lối xóm họ nghe được, họ cười.
Bả quên rằng hể mình mà khuyên là chồng đều làm ngược lại.
Ổng quát to:
-Cái thằng nầy nó đi muốn mòn mấy con đường ở đây rồi. Tụi nó qua lại, tới lui, ăn giầm, nằm dề với nhau hà rầm, còn ai không biết nữa mà bày đặt giấu.
Ông Tiến đến lúc nầy mới lên tiếng:
-Xin bác bình tĩnh, để...
Ổng mới nói tới đó là bị chặn họng, ông "cha vợ" của ổng hỏi liền:
-Cậu là cái gì của thằng Dũng?
Ông Tiến đáp:
-Tụi con chỉ là bạn, nhưng thân còn hơn anh em ruột. Hai đứa con làm ăn chung với nhau...Con sẽ đứng ra tổ chức lễ cưới cho ảnh.
Ổng liền hỏi:
-Cha mẹ, anh chị em nó đâu mà không làm việc đó?
Ông Tiến đáp đại:
-Ảnh chỉ có một mình thôi!
Nghe ông Tiến giải thích, ông "cha vợ " cảm thấy mũi lòng. Ổng liền dịu giọng, quay mặt về phía ông Hai hỏi thêm cho chắc ăn:
-Vậy ra cậu là con mồ côi hả?
Ông Hai "dạ" một tiếng nhỏ xíu.
Ổng thở ra một hơi rồi nói:
-Như vậy cũng tốt, làm một đám phía nhà gái thôi, mà phải tổ chức cho đàng hoàng. Phải lạy bàn thờ ra mắt cữu huyền, trình diện với bà con bên nội, bên ngoại đều đủ. Phải làm cho thiệt tình chớ không được "hình thức", phải đãi đằng coi sao cho được đó nghe không?
Rồi ổng nắm chặt cứng bàn tay như kềm con cá không cho nhảy ra, đập lên bàn mà nói:
-Bữa nay hai đứa đi sắm đồ.
Ổng đập tay thêm lần thứ nhì:
-Ngày mai đi về nhà.
Đập tay lần thứ ba:
-Ngày mốt là làm đám...
Bà vợ nhắc nhở:
-Ngày mốt là mùng năm đó ông!
Ổng nạt rân:
-Mùng năm, mùng sáu gì cũng kệ!
Lần nầy bà vợ không chịu nhịn, bả nói:
-Chậm lại một ngày có mất miếng nào đâu? Tụi nó ăn đời ở kiếp với nhau, phải lựa ngày cho kỹ. Rủi có bề gì thì ở chưa nát chiếc chiếu là...
Ổng ngắt ngang:
-Vậy sao cái lúc "xáp lá cà" tụi nó không coi ngày cho kỹ đi. Đến non nước nầy thì coi ngày sao kịp. Có bỏ mạng hết hai đứa tui cũng không xót ruột chút nào.
Bả vẫn khăng khăng:
-Ông đừng có giận quá rồi mất trí, bộ không nghe ông bà dạy hay sao?
Rồi bả đọc liền:
-"Mùng năm, mười bốn, hăm ba. Đủ ba ngày đó chớ ra ngoài đường ". Cho dù mình làm thí mạng đi nữa, bà con, nhứt là mấy người ở xa, chưa chắc họ dám đi.
Lần nầy ổng không cự lại nên bả mạnh dạn nói thêm:
-Đám cưới ít gì cũng phải mời trước một tuần. Dân làm ruộng đâu có tiền nhiều trong túi. Phải để cho người ta có thì giờ kêu bán lúa, mới có mà bỏ vô bao thơ chớ. Đi tay không ai mà dám tới. Mình nấu linh đình rồi chẳng có ai ăn, lúc đó lỡ làng hết trơn! Mất tiền không nói gì mà còn ê mặt nữa.
Ông "cha vợ" làm thinh. Ổng tức mình vì rốt cuộc lần nào bả cũng thắng. Ổng quay sang đổ cục "tức" của mình lên đầu ông Hai.
Ổng nói một cách hằn học:
-Trăm sự cũng do cậu mà ra. Tại sao không nín nhịn chờ cưới xong rồi hãy...Tai sao đầu hai thứ tóc rồi mà còn bồng bột như con nít vậy hả?
Ông Hai gãi đầu:
-Xin bác tha lỗi cho con...
Ổng định nói thêm:
-Con hứa sẽ làm một người chồng tốt!
Nhưng rồi kịp nghĩ. Ổng nhận ra điều đó quá sức chịu đựng của mình, bèn thắng lại liền.
Bà má của Thư bỗng hỏi ông Hai:
-Nhà cháu ở đâu?
Câu hỏi quá đơn giản nhưng lại làm cho cả ông Hai lẫn ông Tiến rụng rời.
Ông Tiến không hổ danh "phù thủy" mà bạn bè trong giới doanh nhân đặt cho. Trong lúc ông Hai còn đang lúng túng, ổng trả lời thay cho bạn:
-Công việc của tụi con phải đi đây, đi đó nhiều lắm! Tụi con có một chi nhánh ở Hà Nội cho nên ảnh phải túc trực ngoài đó, khi nào về Sài gòn thì...
Nói tới đó ổng ngưng lại liền, bỏ câu nói treo lửng lơ. Đây là một tình huống bất ngờ phát sinh, không có trong kịch bản. Ổng phải cương đại để đối phó, nên cần dè dặt, tiết kiệm lời nói một cách tối đa. Bởi đâu biết Thư diễn tả về ông bồ của mình như thế nào với ba, má cổ.
Thư nhanh trí nên nói một lèo:
-Khi nào về Sài gòn thì ảnh mướn một phòng trong khách sạn để ở. Mà cũng ít khi về lắm, năm ba tháng mới về một lần. Tụi con hiếm khi gặp nhau lắm!
Bà "má vợ" chắc lưỡi:
-Sao không về đây ở mà mướn khách sạn làm chi cho tốn tiền?
Lúc nầy ông Hai mới chịu nhập vai.
Ổng đáp:
-Tụi con chưa cưới nên phải giữ thể diện cho cổ.
Bà "má vợ" hỏi tiếp:
-Vậy rồi cưới xong phải tính làm sao? Hổng lẽ cứ vợ trong Nam, chồng ngoài Bắc? Con Thư đang mang bầu mà ở một mình đâu có được.
Bả vừa nói vừa nhìn đăm đăm vào mặt ông Hai.
Ông Hai chới với, chưa biết trả lời sao thì bả bồi thêm một câu:
-Rủi nó chuyển bụng bất tử thì ai đưa đi đẻ?
Ông Tiến lật đật cứu nguy:
-Tới đó chắc tụi con phải thu xếp lại. Con sẽ ra ngoài ấy còn ảnh ở trong nầy.
Bả bỗng quay qua hỏi thăm ông Tiến:
-Chắc cậu đã có gia đình rồi phải hông? Vợ có đi làm hông? Được mấy cháu rồi? Nhà ở đâu?
Bả hỏi dồn dập khiến ông Tiến tối tăm mặt mũi. Ổng chưa kịp đáp thì may thay, cái điện thoại trong túi reo lên. Ổng lật đật móc ra rồi nói như xin lỗi:
-Con xin phép ra ngoài sân để nghe điện thoại.
Lát sau ổng đi vào rồi nói với ông Hai:
-Chắc tao phải chở mầy về ngay lập tức vì ở trung tâm đang có việc cần.
Ông "cha vợ" nhắc:
-Bộ tụi bây không nghĩ được một vài ngày để lo vụ đám cưới hay sao?
Ông Tiến lắc đầu, đáp:
-Tụi con xin lỗi bác, việc nầy gấp rút lắm, không có mặt để giải quyết là không xong. Nhờ bác và bác gái dắt Thư đi sắm sửa giùm tụi con.
Ổng nói vừa dứt là móc cái bóp trong túi quần ra, rút không cần đếm mấy tờ giấy màu xanh có in hình một ông tây có cái lỗ mũi cao nhồng.
Ổng đưa cho bà má vợ rồi nói:
-Đáng lẽ cái chuyện sắm trang sức cho cô dâu là của đàng trai, nhưng tụi con không có thời gian. Bác làm ơn cầm số tiền nầy để mua nữ trang và lễ vật các thứ. Nếu có thiếu thì nói, con sẽ đưa thêm. Xin bác đừng có ngại, cứ chuẩn bị chu đáo giùm.
Bà má vợ cầm trên tay mấy tờ tiền ông Tiến vừa đưa, nhìn chăm chú rồi hỏi:
-Tiền gì mà kỳ cục quá! Có xài được hông vậy?
Thư vội cắt nghĩa:
-Cái nầy là đô la, là tiền của Mỹ đó má!
Bả lập lại câu hỏi:
-Vậy rồi xài ở đây có được hông?
Thư cười:
-Được chớ má! Một tờ như vầy là mua được hơn hai chỉ vàng lận đó!
Bà má giựt mình, nhìn xấp tiền trong tay rồi hỏi:
-Bây nhiêu đây chắc mua được năm bảy cây vàng chớ đâu có ít?
Thư gật đầu, xác nhận:
-Đúng vậy đó má!
Chẳng những bà má mà hình như cả ông ba vợ cũng ngạc nhiên. Cả hai cùng nhìn chăm chú vào mấy tờ giấy hình chữ nhựt, nho nhỏ, xanh xanh ấy, một cách e dè.
Nhân lúc họ còn choáng, ông Tiến nháy mắt ra hiệu cho ông Hai, rồi nói:
-Tụi con xin phép hai bác.
Ông "cha vợ" gật đầu:
-Có công chuyện cần giải quyết thì đi đi, nhưng chiều nay phải ghé ăn cơm đó nghe!
Thấy cả hai còn trù trừ chưa chịu đồng ý. Ổng lấy làm mích lòng, bèn cung cấp thêm một thông tin vô cùng "hấp dẫn" để tăng thêm sức thuyết phục:
-Má con Thư có đem lên một con vịt xiêm ú nù, một hủ chao chùa với bó rau muống non xèo. Bả nấu cái món vịt nấu chao mát tay lắm, tính làm cho con Thư nó ăn.
Rồi nói thêm bằng giọng tiếc rẻ:
-Bác cũng có xách theo một chai rượu gạo. Phải chi biết trước lên đây gặp tụi cháu là bác bưng luôn cái hủ rượu ngâm bìm bịp của bác lên.
Thấy không thể từ chối, ông Tiến bèn đáp:
-Con sẽ ráng làm lẹ cho xong rồi tới hầu rượu bác. Chắc tụi con đến hơi trễ, xin hai bác đừng đợi cơm mà cứ dùng trước, đừng để đói quá rồi ăn mất ngon!
Không chờ để thấy cái gật đầu của hai ông bà. Họ vọt liền.
Ra tới ngoài đường ông Tiến thở một hơi dài:
-Hú hồn! May mà vợ tao gọi chớ không thôi bị bả hỏi hết chuyện nầy tới chuyện khác, vặn vẹo đầu nầy đầu kia, chắc tao chịu không nổi, nói tùm lum không khéo bị lòi chành té bứa hết trơn, hết trọi!
Ông Hai làm thinh không đáp.
Ông Tiến nói tiếp:
-Ổng coi vậy mà dễ đối phó. Bả mới là người tỉ mỉ nghe mậy! Tao để ý thấy bả quan sát mầy kỹ dữ lắm đó! Mà sao mầy không chịu nhìn Thư. Không nói với nó một câu nào hết vậy?
Ông Hai vẫn làm thinh. Ông Tiến đâu biết là mình đã vô tình xát muối vào vết thương mới tinh, còn đang chảy máu ròng ròng của bạn.
Việc gặp lại Thư, người con gái mà ông vớt được trên sông ngày xưa, giờ là gái bao của ông Tiến khiến ông Hai chới với. Ổng như người đang vừa đi vừa ngước mặt ngắm trăng, bỗng bất ngờ đặt chân lên miệng lỗ, rớt cái đùng vào một hố sâu cả trăm thước rồi không thể trèo ra nổi.
Bấy lâu nay ổng xem việc cứu Thư là niềm an ủi, là chai thuốc bổ kiêm chức năng giải độc thần kỳ. Nó giúp ổng lấy lại năng lượng và trong lành hóa cái bộ óc đang có nguy cơ nhiễm độc của mình.
Có những buổi sáng, nhìn con kênh đầy rác, ông Hai nghe buồn vô hạn vì nhận ra mình tốn công vô ích. Công việc nầy cũng giống như đem từng nắm muối bỏ xuống biển. Điều mong mỏi của ổng thật là vô vọng. Chẳng ai thèm để ý, chẳng thể khiến mọi người xúc động rồi thay đổi lối cư xử của họ đối với con kinh. Họ vẫn thoải mái vứt vào đó bất cứ thứ gì không dùng được nữa.
Những lúc đó ổng xót xa nhận ra mình thật là vô dụng, thật là bất lực rồi nản lòng chỉ muốn buông xuống cái cây dầm đang cầm trong tay.
Đã vậy có nhiều người còn nhìn ông một cách dè bĩu. Đa số họ đều nghĩ sai về mục đích của ổng. Có người lại liệt ông vô cái dạng khật khùng.
Rồi ông bỗng nhớ lại cô gái mà mình cứu, thế là vơi bớt niềm thống khổ đang trĩu nặng, từ từ ngoi lên để tiếp tục theo đuổi công việc của mình.
Vì rất ít tiếp xúc với mọi người nên mỗi cuộc gặp gỡ đều để lại trong ông Hai một dấu ấn khó phai. Ổng thường xuyên nhớ đến cái cô gái có nốt ruồi trên chót mũi đó. Một phần do cảm động trước hoàn cảnh của cô. Một phần, như một vị bếp trưởng yêu nghề, cố nhớ lại cái món ngon nhứt mà mình nấu, để thưởng thức thêm một lần nữa cái cảm giác sung sướng, khoái khẩu tột cùng ấy. Huống chi đấy lại là một món quý hiếm, một kỹ niệm ly kỳ, ít ai có được!
Vốn là người mơ mộng nên ổng đã dệt quanh cô ta biết bao huyền thoại.
Khi thì ổng tưởng tượng mình bị chết đuối rồi được đưa đến bệnh viện cứu cấp. May mắn thay, được một vị bác sĩ rất giỏi, rất có lương tâm tận tình cứu chữa. Vị bác sĩ ấy đã phục hồi toàn bộ cái mạng sống đang như chỉ mành treo chuông của ổng. Khi tỉnh dậy từ một cơn hôn mê sâu, ổng nhận ra vị nữ bác sĩ vừa cứu mình có cái nốt ruồi trên chót mũi.
Khi thì ổng tưởng tượng cô gái trở thành một nhà văn, đem cuộc đời bi thương của mình viết nên một tuyệt phẩm khiến cả thế giới đều xúc động.
Trí tưởng tượng của ổng cứ bay cao thêm, xa thêm cho đến nổi, chở tuốt cô ta qua Thụy Điển, nhận cái giải Nô ben rồi mới chịu dừng lại.
Nếu nhà nước ban hành một loại thuế đánh vào các ước mơ, và nếu họ phát minh ra một cái máy đo lường hoàn toàn chính xác cái giá trị và trị giá của nó, chắc ông Hai bán luôn cái mạng cũng không đóng nổi!
Ông Tiến thấy bạn trầm ngâm không trả lời thì hiểu lầm nên nói:
-Để tao đưa cho mầy chiếc xe Vespa cũ của tao cho mầy xài, nó còn tốt lắm! Với mua cho mầy cái điện thoại cầm tay để tụi mình tiện liên lạc.
Ông Hai từ chối ngay tức thì:
-Hổng lẽ tao chạy xe trên sông? Còn điều nầy nữa, cái nhà của tao chỉ đủ cho tao nằm mà thôi. Lấy đâu ra chỗ để chứa thêm nó nữa?
Ông Tiến nói:
-Vậy thì tao mua biếu mầy cái điện thoại di động có được hông?
Ông Hai nói đùa:
-Tao ngu gì mà chịu.
Ông Tiến hỏi:
-Sao vậy?
Ông Hai đáp:
-Lấy để làm mọi cho mầy dài dài hả?
Ông Tiến hỏi lại:
-Hổng lẽ mỗi lần muốn nhắn cái gì tao phải đi cả chục cây số tới gặp mầy? Hỗng lẽ mỗi lần ba má Thư lên thăm con gái với cháu, tao lại phải làm tài xế hay sao? Không phải tao sợ mắc công, chuyện của tao mà. Chỉ ngại ổng bả nghi ngờ là mắc cái giống gì mà hai thằng mình cứ đeo xà nẹo...
Ông Hai cắt ngang, nói từng câu, bằng cách nhấn mạnh từng chữ:
-Sẵn mầy hỏi, tao nói luôn! Tao chỉ xuất hiện một lần nữa trong lễ cưới mà thôi! Từ đó về sau mầy đừng... Tao rút lui luôn không tham gia vào nữa.
Ông Tiến hoảng hồn:
-Vậy tao phải nói làm sao với Thư đây khi cổ đòi ông chồng phải có mặt, tháp tùng về quê ăn giỗ, ăn tết.
Ông Hai đáp:
-Mầy không nói được thì nhờ ông tổng thống Mỹ nói giùm. Không làm được thì sai tiền làm. Mấy tờ đô la đó không phải là đa năng, đa dụng hay sao?
Ông Tiến làm thinh không trả lời.
Lát sau ông lại hỏi:
-Hình như mầy có cái gì uất ức trong lòng phải không?
Ông Hai hỏi lại:
-Sao mầy nói vậy?
Ổng đáp:
-Cái giọng chua chát đó, đâu có giống cái cách nói của mầy từ trước tới giờ.
Ông Hai thở dài:
-Có lẽ từ giây phút nầy trở đi, tao sẽ thay đổi nhân sinh quan, thay đổi công việc và thay đổi luôn tính cách. Tao sẽ đối lập với con người trước đây của mình.
Ông Tiến áy náy:
-Tao ủng hộ việc mầy thay đổi công việc, nhưng phản đối mầy thay đổi tính cách.
Ông Hai hỏi:
-Tại sao vậy?
Ông Tiến nói:
-Tao cần những người như mầy để giữ vững tâm thế của mình. Giúp tao đi chậm lại, nhìn xuống chưn để khỏi phải vấp đá rồi té sặc máu!
Ông Hai nghe bạn nói có vẻ trịnh trọng quá bèn pha trò:
-Vậy ra mầy thuê tao châm dầu cho cái ngọn đèn lương tâm của mình luôn nữa hả? Nhiệm vụ đó lớn lao quá, cực khổ nhứt à nghen! Tao đòi tiền công cao lắm! Mầy trả có nổi không đó?
Ông Tiến chụp lấy câu nói ấy liền, đáp:
-Bao nhiêu tao cũng chịu, miễn mầy đồng ý nhận.
Rồi hỏi tiếp:
-Mầy muốn bao nhiêu?
Ông Hai cười:
-Tao không lấy đồng nào hết, để cho mầy bức rức chơi!
Ông Tiến năn nỉ:
-Mầy để cho tao mua tặng vài món nghe? Chắc chắn phải có thứ mầy đang cần, đang thiếu chớ?
Ông Hai làm thinh.
Ông Tiến đã để ý ngay từ lúc họ gặp nhau lần đầu. Ấy là trong một rừng ăng ten chi chít, chỉa thẳng từ mái nhà lên trời như đám cỏ mần chầu đó. Chỉ mỗi cái mái nhà của ông Hai là trống trơn, không có cây ăng ten mọc trên đó. Ổng nghĩ có lẽ ông bạn của mình không mua nổi cái ti vi.
Ổng hỏi, hơi e dè:
-Hay là tao tặng mầy một cái ti vi?
Ông Hai đáp:
-Tao không cần.
Ông Tiến chợt nhớ lại sở thích số một của hầu hết sinh viên thời trước.
Đó là vào những ngày mà trong túi của một người trong số họ có mấy tấm giấy in hình đức Trần Hưng Đạo, khi được trả lương cho công việc dạy kèm, làm thêm. Vào những dịp đó, họ thường bị bắt buộc hoăc tự nguyện- điều nầy hơi hiếm- đãi nhau một chầu phim.
Ông Tiến vẫn còn nhớ như in các cuộc tranh luận nãy lửa giữa họ khi xem xong phim. Họ cãi nhau ngay khi ra khỏi rạp cho tới khi về đến nhà. Có lúc kéo dài gần như bất tận. Chẳng ai nhịn ai, chỉ để bảo vệ quan điểm của mình, hoặc đôi khi bênh vực cho nữ tài tử mà mình yêu thích. Có lần ông chủ nhà bên cạnh phải quát lên "im đi cho người ta ngủ " họ mới chịu ngưng.
Ổng bèn hỏi tiếp:
-Chắc mầy thích có thêm cái "đầu máy" nữa hả? Bây giờ mấy chỗ cho mướn phim mọc lềnh khênh, tao tặng cho mầy một bộ để nằm nhà mà coi cho đã.
Ông Hai đáp:
-Tao xài hết cái nhu cầu đó rồi!
Ông Tiến suy nghĩ tiếp, bỗng buông bớt một bàn tay ra khỏi ghi đông, vỗ lên đùi mình một cái bộp rồi nói bằng cái giọng hào hứng:
-Sao tao quên mất cái chuyện mầy là tay đàn guitar số một của lớp mình vậy ta?
Ổng quay mặt về phía sau, hét to:
-Tao sẽ tặng cho mầy một dàn máy nghe nhạc âm thanh nổi.
Lần nầy thì ông Hai đáp một cách dứt khoát:
-Nhà tao không có điện.
Ông Tiến ngạc nhiên:
-Không có điện là sao?
Ông Hai giải thích:
-Chỗ tao ở sắp giải tỏa rồi, cho nên tao không mắc điện.
Ông Tiến hỏi tiếp:
-Nguyên cái xóm đó đều không xài điện hay chỉ có mỗi mình mầy?
Ông Hai đáp:
-Chỉ một mình tao thôi.
Ông Tiến kêu lên:
-Trời đất ơi!
Rồi hỏi bằng một giọng vô cùng ai oán:
-Mầy sống cái kiểu gì mà không cần tới điện?
Nghe cái giọng bi thiết của ổng, ông Hai liền bật cười.
Nghe ổng cười, ông Tiến bỗng nổi xung, bèn hỏi:
-Có phải mầy muốn chống lại nền văn minh của con người hay không?
Ông Hai lại cười tiếp.
Ông Tiến lại hỏi bằng giọng châm chọc:
-Mầy muốn trở lại thời kỳ mông muội hay sao mà không xài tới điện?
Ông Hai thở dài, trả lời:
-Mầy suy diễn làm chi cho sâu xa quá vậy? Đơn giản lắm! Tao không muốn lệ thuộc vào đồ đạc, hàng hóa, các loại tiện nghi. Chỉ có vậy thôi hà!
Ông Tiến nói:
-Sống là phải lệ thuộc. Sống đơn độc là nguy hiểm lắm!
Ông Hai đáp:
-Mầy phải phân biệt hai dạng người nầy: Bảo tồn và đả phá.
Ổng liền trình bày quan điểm của mình:
-Có một số người thích sống đơn độc để bảo tồn những giá trị tinh thần mà họ trân trọng nhứt. Họ không nguy hiểm như mầy nói đâu. Đó chính là những người cực đoan trong tình cảm. Họ không muốn sự cọ xát làm trầy xước những thứ tốt đẹp mà họ ấp ủ, muốn giữ nguyên trạng thái của nó. Họ không phải là những kẻ mang tư tưởng phá hoại bởi căm ghét loài người, rồi xa lánh đồng loại như mầy nghĩ.
Ông Tiến lắc đầu:
-Nếu yêu thương thì sao không hòa nhập với nhau? Bây giờ ngành truyền thông đang phát triển nhanh nhứt đó mầy có biết không? Con người được kết nối rộng rải và chặt chẽ hơn bao giờ hết. Người ta không còn sống lẽ loi nữa. Họ lên mạng chia sẻ cảm xúc của mình với khắp mọi người trên trái đất.
Ông Hai hỏi:
-Để chi vậy?
Ông Tiến đáp:
-Bộ mầy không thích tìm hiểu xem thế giới đang xảy ra chuyện gì hay sao? Bộ mầy không thích tâm sự với một người hoàn toàn xa lạ, để kể với họ về những điều thầm kín nhứt hay sao? Bộ mầy không thích trò chuyện với cô bạn mà ngày xưa mầy thầm yêu trộm nhớ, để hỏi coi hồi đó cổ nghĩ về mầy như thế nào hay sao?
Ông Hai hỏi:
-Mấy cái đó bộ báo chí, thơ từ không phải đã và đang làm đó à?
Ông Tiến đáp:
-Đúng, nhưng mà chậm và ít ỏi lắm!
Ông Hai hỏi:
-Tại sao cần phải nhanh và nhiều?
Ông Tiến đáp:
-Bởi vì tất cả mọi người đều muốn hưởng thụ tối đa. Cuộc sống như bữa tiệc búp phê mà món nào cũng ngon. Chẳng ai muốn bỏ sót thứ gì, họ muốn nếm cho hết để khi rời khỏi bàn tiệc không phải hối tiếc, cho nên phải nhanh, phải vội để có càng nhiều càng tốt.
Ông Hai pha trò:
-Để rời bàn tiệc với cái bụng lặc lè...
Ông Tiến đáp:
-Còn hơn với cái bụng trống không!
Dừng lại một chút ông Tiến tiếp:
-Chính điều đó thúc đẩy sự tiến bộ, giúp nền văn minh phát triển tột độ, giúp cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn. Giúp con người ngày một thông tuệ hơn!
Ông Hai nói:
-Mầy nói rất đúng, nhưng cái câu "giúp cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn" thì nên xét lại.
Ông Tiến hỏi:
-Tại sao?
Ông Hai đáp:
-Bởi vì thiên nhiên phải chi trả cho tất cả các hóa đơn đó. Bởi vì mọi người đều đổ dồn về một phía nên họ không thể tránh việc giẫm đạp lên nhau.
Ông Tiến thở dài thượt:
-Bây giờ tao hiểu tại sao mầy sống cái kiểu nầy rồi.
Ông Hai làm thinh. Ông Tiến chờ hoài không nghe bạn hỏi bèn tự trả lời:
-Mầy sợ bị mắc nợ thiên nhiên, phải không?
Ông Hai vẫn làm thinh.
Ông Tiến gặng:
-Có đúng không?
Ông Hai đáp:
-Đã làm người thì ai mà không mắc nợ thiên nhiên?
Ông Tiến cãi lại:
-Tao thì cho rằng thiên nhiên mang ơn con người.
Không đợi ông Hai hỏi, ổng giải thích:
-Con người đã và đang tôn tạo thiên nhiên. Nhờ có con người mà thiên nhiên ngày càng lộng lẫy hơn. Những công trình kiến trúc đồ sộ. Những lâu đài, dinh thự nguy nga, những kỳ quan nhân tạo chính là những món trang sức quý giá nhất mà con người đã dâng cho thiên nhiên đó!
Ông Hai hỏi:
-Như cái gì, đâu mầy kể coi?
Ông Tiến đáp:
-Vạn lý trường thành nè! Đền Ăng Co nè! Kim tự tháp nè...
Ông Hai hỏi:
-Mấy cái đó để làm gì?
Ông Tiến cự nự:
-Thì để tôn vinh sức mạnh và ý chí của con người chớ còn làm gì nữa?
Ông Hai nói:
-Vậy thì ăn nhậu gì tới thiên nhiên? Nó bị người ta xà xẽo, bứng, cắt từ chỗ nầy rồi đem lại chỗ khác ráp, hư hao, đau đớn thấy mồ chớ có sướng chút nào đâu?
Ông Tiến cự:
-Nhờ có mấy thứ đó mà ta mới biết được con người thời đó họ tài như thế nào...
Ông Hai bác ngang:
-Mầy coi đó là tài năng, tao coi đó là chứng tích về lòng tham và tội lỗi của cái giới cầm quyền, vua chúa ngày xưa. Họ bắt dân chúng làm tới hộc máu để củng cố cho vương triều của họ mà thôi! Mầy có biết bao nhiêu người bỏ mạng, bao nhiêu gia đình tan nát vì họ không?
Ông Tiến nói:
-Nhưng nhờ vậy mà ngày nay mới có những tuyệt tác đó. Mầy không biết chớ, khi tận mắt chứng kiến mấy cái công trình ấy, mình cảm thấy hãnh diện ghê lắm!
Ông Hai hỏi:
-Mầy có xem chưa mà nói?
Ông Tiến gật đầu:
-Tao chưa thấy Kim tự tháp, còn hai cái kia thì có tới coi rồi. Tao hết sức mang ơn những người đã để lại các di sản lớn lao đó cho nhân loại. Tao thấy rất đáng hy sinh tính mạng để tạo ra các kỳ quan ấy. Chúng là một bằng chứng cho ta thấy, nếu hợp sức lại thì chẳng có thứ gì mà con người không làm được.
Ông Hai cãi:
-Theo tao thì nếu vì mấy cái công trình đó mà đánh đổi, cho dù một mạng người tao cũng không làm, đừng nói chi cả đống người chết vì chúng.
Ông Tiến chưa kịp phản đối, thì bỗng dưng chiếc xe lảo đảo, cái bánh xe phía sau chao qua, chao lại, khiến ổng mất thăng bằng, tay lái loạng choạng.
Ông Hai đang ngồi thong dong, hai cánh tay ôm cái eo trước mặt một cách hời hợt, thấy vậy cũng hết hồn, mấy ngón tay cũng tự động bấm sâu vào hai bên hông của bạn.
Ông Tiến thắng xe lại, không thèm nhìn xuống đất mà ngước mặt lên trời rủa:
-Đồ bất nhơn!
Ông Hai giựt mình, cự:
-Ổng có làm gì đâu? Sao khi không mầy chửi ổng lãng xẹt vậy?
Ông Tiến thở dài, đáp:
-Tao đâu có chửi ổng, tao chửi mấy cái thằng rải đinh trên đường chớ bộ!
Ông Hai hỏi:
-Sao mầy biết có người rải đinh?
Ông Tiến đáp:
-Mầy chịu khó nhìn đi, nó nằm dài dài xung quanh đây, thiếu gì!
Thấy ông Hai còn ngồi yên trên xe, ổng hối:
-Xuống đi mầy, đẩy phụ tao đi kiếm chỗ vá.
Ông Hai lật đật leo xuống rồi tới ông Tiến.
Ông Hai thở dài, vừa đẩy vừa than:
-Biết ở đâu mà kiếm đây trời?
Ông Tiến an ủi:
-Đừng lo, chỗ nào có đinh rải là chỗ đó có vá xe. Nó ở gần đây thôi!
Quả thật, họ đi một đổi chừng hai trăm mét thì thấy ngay một cái ống bơm đang dựng bên đường. Nó được mấy cục gạch thẻ chêm xung quanh để đứng cho vững. Chủ của nó là một người đàn ông đang ngồi dưới gốc cây phượng vĩ trên lề. Ông ta đang thay ruột cho một chiếc xe đạp còn mới. Chiếc xe ấy có lẽ là của một cậu bé mặc áo sơ mi tay ngắn màu trắng, quần tây xanh, đang ngồi chồm hổm bên cạnh, nét mặt thấp thỏm vì sợ trễ giờ học.