← Quay lại trang sách

Ý THỨC BẦY ĐÀN VÀ MỐI NGUY HIỂM

Bạn là một thanh niên thông minh, giỏi chuyên môn, và có một tương lai hứa hẹn. Bạn được chọn để tham gia một dự án ba ngày tại Viện Nghiên cứu và Đánh giá Cá nhân thuộc Đại học California tại vùng Berkeley đầy nắng. Các nhà nghiên cứu nói rằng họ đặc biệt quan tâm tới những phẩm chất cá nhân và tư chất lãnh đạo, vì vậy, họ đã quy tụ được một nhóm đặc biệt gồm 100 người để tìm hiểu cụ thể hơn, rõ ràng hơn, xem những người gương mẫu và ưu tú như bạn suy nghĩ và hành động như thế nào.

Tiếp đó, bạn phải trải qua một hàng rào các câu hỏi, bài kiểm tra và các thí nghiệm, trong đó có một bài tập yêu cầu bạn phải ngồi trong một gian phòng nhỏ với một tấm bảng điện tử. Bốn người khác cũng ngồi trong những gian phòng khác giống hệt nhau kế tiếp sau gian phòng của bạn mặc dù mọi người không thể nhìn thấy nhau. Các slide sẽ xuất hiện trên bảng điện tử và sẽ hỏi bạn những câu hỏi, như đã được hướng dẫn, bạn có thể trả lời bằng các nút ở trên tấm bảng. Mỗi tấm bảng đều được nối với những tấm bảng khác, vì vậy bạn có thể nhìn thấy câu trả lời của tất cả những người còn lại mặc dù không thể trao đổi, thảo luận với họ. Thứ tự trả lời của bạn được thay đổi.

Những câu hỏi đầu tiên sẽ rất đơn giản. Những hình dạng mang tính hình học sẽ xuất hiện và bạn được hỏi là trong số chúng, hình nào lớn hơn. Bắt đầu, bạn là người đầu tiên phải đưa ra câu trả lời. Sau đó, thứ tự trả lời của bạn là thứ hai, điều này cho phép bạn có thể nhìn thấy câu trả lời của người trả lời trước bạn trước khi đưa ra đáp án của mình. Cứ như vậy, ở câu hỏi tiếp theo, bạn được chuyển xuống vị trí thứ ba. Mọi thứ cứ tuần tự như vậy và diễn ra rất nhanh.

Sau cùng, bạn là người cuối cùng trong nhóm phải đưa ra câu trả lời. Một slide xuất hiện với năm đường kẻ. Đường kẻ nào là dài nhất? Hiển nhiên đường dài nhất là đường số bốn nhưng bạn phải đợi trước khi có thể trả lời. Câu trả lời của người đầu tiên hiện trên màn hình của bạn: số năm - Lạ nhỉ? Bạn nghĩ vậy. Bạn cẩn thận nhìn lại các đường kẻ. Rõ ràng cái thứ tư dài hơn cái thứ năm. Sau đó, câu trả lời thứ hai xuất hiện: đường kẻ số năm. Rồi câu trả lơi thứ ba: số năm. Và câu thứ tư: số năm.

Bây giờ tới lượt bạn trả lời: Vậy thì là cái nào dài nhất?

Bạn có thể thấy rõ ràng là mọi người đã sai. Bạn không nên lưỡng lự khi ấn nút chọn số bốn. Tuy nhiên rất có khả năng là bạn sẽ không làm như thế. Khi thí nghiệm này được tiến hành bởi Richard Crutchfiled và các đồng nghiệp của mình vào mùa xuân năm 1953, 15 trong số 50 người tham gia đã lờ đi những gì họ nhìn thấy và đi theo nhận thức có lý trí của mình.

Thí nghiệm của Crutchfield là một sự thay đổi trong cách tiến hành các thí nghiệm của Solomon Asch trong cùng lĩnh vực. Trong một thí nghiệm nổi tiếng về tâm lý học, Asch đã để những người tham gia ngồi cùng nhau theo từng nhóm và trả lời những câu hỏi nhằm kiểm tra nhận thức về hình ảnh. Tuy nhiên chỉ có một người là đối tượng thực sự của thí nghiệm này. Tất cả những người khác đã được chỉ dẫn để đưa ra những câu trả lời sai rõ ràng. Tính tổng cộng, nhóm đó đã 12 lần đưa ra câu trả lời sai. Ba phần tư trong số những đối tượng kiểm tra của Asch đã ít nhất một lần gạt bỏ đánh giá của bản thân họ để đi theo nhận định của số đông. Xét một cách toàn diện, người ta đã có 1/3 số lần ngả theo một đánh giá sai hiển nhiên của nhóm.

Chúng ta là những động vật mang tính xã hội và những gì người khác nghĩ có ảnh hưởng sâu sắc đối với chúng ta. Ý kiến của nhóm không phải là tất cả mọi thứ, chúng ta có thể bỏ qua xu hướng. Nhưng thậm chí cả khi những người có liên quan hoàn toàn là những người xa lạ, thậm chí cả khi danh tính của họ không được tiết lộ, thậm chí cả khi việc đi ngược lại ý chí của số đông sẽ chẳng khiến chúng ta mảy may bị thiệt hại, thì chúng ta vẫn muốn đồng ý với số đông.

Và đó là khi câu trả lời là rõ ràng và không thể tranh cãi. Thí nghiệm của Crutchfield liên quan một chút tới những câu hỏi mơ hồ, trong đó có một câu hỏi yêu cầu người tham gia cho biết liệu họ có đồng ý với ý kiến: “Tôi tin rằng chúng ta sẽ trưởng thành hơn qua những thử thách và sự gian khổ của cuộc sống.” Trong một nhóm đối chứng không được biết về những câu trả lời của người khác, tất cả mọi người đều đồng ý. Nhưng với những đối tượng trong thí nghiệm, khi nghĩ rằng tất cả những người khác đều không đồng ý với ý kiến này, 31% trong số họ cũng trả lời rằng mình không đồng ý. Hỏi họ rằng có đồng ý với ý kiến: “Tôi nghi ngờ rằng mình có thể trở thành một người lãnh đạo giỏi” hay không, tất cả mọi người trong một nhóm đối chứng đều bác bỏ nó. Nhưng khi nhóm đó được tạo vẻ như đồng tình với ý kiến này, 37% số người đã nghiêng theo sự đồng thuận, và đồng ý rằng, họ nghi ngờ năng lực lãnh đạo của chính mình.

Crutchfiled cũng thiết kế ba câu hỏi không có đáp án đúng. Chúng bao gồm một dãy số và các đối tượng thí nghiệm được yêu cầu phải hoàn thiện dãy số đó. Đó là điều không thể bởi các con số này được sắp xếp ngẫu nhiên. Trong trường hợp đó, 79% những người tham gia không hề đoán hay vật lộn để tìm ra câu trả lời của riêng mình, họ chỉ đơn giản là hùa theo những gì mà những người trong cùng nhóm đã nói.

Những nghiên cứu về sự hùa theo này cho thấy người ta có thể gác lại những gì rõ ràng họ biết là đúng để nói ra những điều mà họ biết là sai. Đó là những sự thực chúng ta biết thêm từ nhận thức của đầu những năm 1950, khi Asch và Crutchfield tiến hành những thí nghiệm kinh điển của mình. Nỗi sợ hãi chủ nghĩa phát xít là một kí ức chưa phai mờ. Các nhà khoa học xã hội muốn hiểu tại sao các quốc gia lại không thể cưỡng lại những trào lưu quy mô lớn, và trong ngữ cảnh đó, sẽ thật đáng sợ khi thấy người ta có thể dễ dàng phủ nhận những điều họ nhìn thấy bằng chính cặp mắt của họ như thế nào.

Nhưng trên quan điểm nhận thức mang tính tiến hóa, xu hướng con người nghiêng theo đám đông không phải là điều lạ. Sự sống sót của các cá nhân, cá thể phụ thuộc vào hoạt động theo nhóm và tập đoàn, và khả năng sống sót sẽ cao hơn nếu con người ta thể hiện khát vọng đồng thuận. Một nhóm gồm những kẻ nghi ngờ và những người lập dị sẽ không thể săn bắn và hái lượm thành công trên những vùng đồng bằng rộng lớn của châu Phi.

Sự hùa theo còn là một cách tốt để hưởng lợi từ sự chia sẻ thông tin. Một người chỉ có thể biết được những gì mà anh ta biết, nhưng 30 người có thể rút ra những kiến thức và kinh nghiệm của 30 người, và vì thế khi tất cả những người khác tin rằng có những con sư tử đang rình rập trong đám cỏ rậm rạp kia thì hãy gác lại một bên những nghi ngờ đắn đo của bạn mà nhanh chóng kiếm đường khác chạy về trại. Tất nhiên, cả nhóm cũng có thể sai. Ý kiến tập thể có thể bị ảnh hưởng quá mức bởi quan điểm không hợp lý của một người nào đó hay bởi những thông tin xấu hoặc không liên quan gì. Nhưng nếu trong khi mọi thứ vẫn cân bằng thì thường tốt hơn hết là đi theo bầy đàn.

Thật thú vị khi nghĩ rằng nhiều thứ đã thay đổi. Sự bùng nổ của kiến thức khoa học trong năm thế kỉ trở lại đây đã cung cấp một căn cứ mới để đưa ra những đánh giá rõ ràng là tốt hơn so với những kinh nghiệm cá nhân hay tập thể. Và sự phổ biến của các phương tiện truyền thông vài thập kỉ gần đây khiến bất cứ ai đều có thể tiếp cận được với các thông tin đó. Không cần thiết phải hùa theo bầy đàn. Giờ đây tất cả chúng ta có thể hoàn toàn trở thành những người suy nghĩ độc lập.

Hay nói khác hơn, chúng ta có thể hoàn toàn là những người suy nghĩ độc lập nếu chúng ta hiểu được câu nói sau, trích dẫn từ New England Journal of Medicine: “Qua nghiên cứu được thực hiện ngẫu nhiên và có nhiều vấn đề trọng tâm liên quan tới những người đưa ra đánh giá, những người không hề biết về phác đồ điều trị, chúng ta đã so sánh tính hiệu quả và tính an toàn của posaconazole với fluconazole hay itraconazole như một phương thuốc phòng bệnh đối với những bệnh nhân bị bệnh thần kinh neutropenia.”

Rõ ràng là những người suy nghĩ hoàn toàn động lập ngày nay sẽ phải có một kiến thức rộng toàn diện về sinh học, vật lý, y học, hóa học, địa lý, và thống kê. Và anh ấy (hay cô ấy) - những người suy nghĩ độc lập cũng đòi hỏi phải có một khoảng thời gian tự do không nhỏ. Chẳng hạn như ai đó muốn độc lập đánh giá mức độ nguy hiểm của việc tắm nắng trên bãi biển sẽ phải tìm hiểu tới hàng nghìn những nghiên cứu có liên quan. Điều đó đồng nghĩa với hàng tháng trời đọc và xem xét để vẽ nên một kết luận nào đó về điều này - chỉ là một mối nguy cơ rất đơn giản. Do đó, nếu một người suy nghĩ độc lập thực sự muốn hình thành những đánh giá hoàn toàn độc lập về những nguy cơ chúng ta phải đối mặt trong cuộc sống hàng ngày, hoặc thậm chí là những nguy cơ chúng ta nghe thấy trên báo đài, anh ấy (hay cô ấy) sẽ phải có trong tay những tấm bằng tốt nghiệp của những trường đại học đa ngành nào đó, nghỉ làm luôn, và chẳng làm gì ngoài việc đọc và tìm hiểu về tất cả những cách có thể dẫn tới cái chết của mình cho tới khi anh ấy (hoặc cô ấy)… chết thật.

Hầu hết mọi người sẽ cho rằng đây là một điều thiếu tính thực tế. Với họ, cách duy nhất để bắt kịp những dòng trao đổi kiến thức lớn là dựa vào lời khuyên của các chuyên gia - những người có thể tổng hợp thông tin từ ít nhất một lĩnh vực và khiến nó trở nên dễ hiểu đối với những người lĩnh hội bình thường. Đây là cách thích hợp hơn để hình thành nên ý kiến của bạn từ những người, xét về mặt tự nhiên, cũng chỉ hiểu biết ở mức độ ít như bạn. Nhưng điều này cũng có những giới hạn của nó. Ví dụ, các chuyên gia thường bất đồng ý kiến. Thậm chí kể cả khi có một sự thống nhất rộng rãi thì vẫn sẽ có những người không phục, họ sẽ chứng minh quan điểm của mình bằng những con số ấn tượng và những từ ngữ chuyên môn khoa học gây hoang mang, rắc rối.

Một giải pháp khác là chuyển qua những hình thức trung gian, tức là những người bản thân họ không phải là các chuyên gia, nhưng tuyên bố rằng họ có hiểu biết về ngành khoa học đó. Liệu phụ nữ đẻ non có phải chịu những nguy hiểm về sức khỏe? Đã có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Rất nhiều trong số đó là những nghiên cứu đối lập nhau. Tất cả đều rất phức tạp. Nhưng khi tôi truy cập vào một trang web về gia đình: Focus on the Family (Tập trung vào vấn đề gia đình) một nhóm vận động đối thoại hành lang nhằm mục đích cấm việc đẻ non, tôi nhận thấy những nghiên cứu đã chứng minh khá rõ ràng rằng việc đẻ non sẽ đặt sức khỏe của sản phụ trước những nguy cơ rủi ro. Tại trang web này, các nghiên cứu được trích dẫn, các số liệu được đưa ra, và có cả phát biểu cả các nhà khoa học. Nhưng sau đó, khi tôi đọc trang hiệp của Hiệp hội Quốc gia về tình trạng đẻ non (NARAL), một nhóm vận động hành lang đáng tin cậy ủng hộ đẻ non, tôi đã phát hiện ra rằng có những nghiên cứu không thể chối cãi cho thấy việc đẻ non không gây nguy hiểm cho sức khỏe sản phụ. Và cũng lại có những nghiên cứu được trích dẫn, những số liệu được đưa ra, và cả những phát biểu của các nhà khoa học.

Bây giờ, nếu tôi tình cờ, ngẫu nhiên tin vào NARAL hay Focus on the Family, tôi có thể quyết định rằng ý kiến của họ là đáng tin cậy đối với tôi. Nhưng xét một cách toàn diện, có rất nhiều người sẽ có quan điểm rất khác. Họ có thể sẽ cho rằng NARAL và Focus on the Family là những nhóm vận động hành lang theo đuổi những mục đích chính trị. Tại sao tôi phải tin một trong số những nhóm đó để đưa ra một đánh giá vô tư về vấn đề mang tính khoa học này? Homer Simpon đã rút ra điều này sau một cuộc trao đổi với phát thanh viên Kent Brockman: “Người ta có thể nghĩ ra những con số để chứng minh cho bất kì điều gì, Kent ạ, 40% mọi người đều biết điều đó.”

Cần phải bàn thêm về vấn đề nhận thức này. Với những vấn đề quan trọng liên quan tới công chúng, chúng ta luôn bắt gặp những phân tích rất ấn tượng - rất nhiều các con số và các nghiên cứu tham khảo dẫn tới nhiều kết luận hợp lý khác nhau mặc dù tất cả chúng đều được tuyên bố là mô tả chân thực khoa học. Và những phân tích này có một xu hướng mơ hồ là tiến tới việc chính xác hóa các kết luận mà chính chúng khiến cho việc phân tích trở nên cần thiết. Hãy thử nêu tên một vấn đề nào đó, bất kì vấn đề nào, thì ở một nơi nào đó sẽ có những nhà vận động hành lang, những nhà hoạt động và những học giả định hướng tư tưởng của báo chí, họ là những người sẽ rất vui lòng và hào hứng cung cấp cho bạn một đánh giá chặt chẽ và khách quan về vấn đề khoa học đó, mà vấn đề khoa học đó lại tình cờ phù hợp với những mối quan tâm, chương trình nghị sự, hay tư tưởng mà họ đại diện. Vì vậy, vâng, chủ nghĩa hoài nghi cần được bảo tồn.

Nhưng Homer Simpson không phải thuần túy là một người hoài nghi. Ông còn là một nhà châm biếm. Ông phủ nhận khả năng nhận biết sự khác nhau giữa cái thực và cái không thực, giữa độ chính xác hơn và kém chính xác. Và đó là sai lầm. Chỉ cần một chút cố gắng là có thể chứng minh được rằng con số thống kê mà Homer đưa ra là bịa đặt. Sự thật ở ngoài kia, hãy xem xét một câu chuyện khác trên ti vi vào những năm 1990.

Cùng với sự thật, tính hoài nghi sẽ gây hại cho sự tin tưởng. Và đó có thể là một điều nguy hiểm. Các nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng khi con người, hay những cơ quan, thể chế đối mặt với một nguy cơ nào đó được tin là có thật, sự quan tâm của công chúng sẽ có những biến cách. Sẽ là rất đáng nói khi người nói với bạn đừng lo lắng là bác sĩ của gia đình bạn hay là người phát ngôn của một công ty thuốc lá nào đó. Các nhà nghiên cứu còn cho thấy, như những người khôn ngoan luôn luôn biết, rằng sự tin tưởng là một điều gì đó rất khó tạo dựng nhưng lại rất dễ bị mất đi. Vì vậy, sự tin tưởng là thiết yếu.

Nhưng sự tin tưởng biến đi rất nhanh chóng. Ở hầu hết các quốc gia tiên tiến, các nhà khoa học chính trị đã nhận thấy sự đi xuống trong thời gian dài trong lòng niềm tin của công chúng đối với những chính thể quản lý khác nhau. Điều nguy hiểm ở đây là chúng ta sẽ cùng nhau đi qua làn ranh giới giữa chủ nghĩa hoài nghi và thái độ yếm thế hay nhạo báng. Khi đó sự tôn trọng thích đáng dành cho những ý kiến chuyên môn sẽ mất đi, người ta sẽ chẳng bận tâm tìm kiếm những thông tin, nhận thức khoa học trên Google hay các chat room trên Internet, và thái độ khinh khỉnh của sự nhạo báng có thể làm biến đổi những nỗi lo sợ vô lý và không bình thường. Chúng ta có thể nhìn thấy kết cục của điều đó trong phong trào chống tiêm chủng lan rộng ở Mỹ, Anh, và các nơi khác. Được “tiếp thêm nhiên liệu” từ tất cả giới chức trách, các nhà hoạt động chống tiêm chủng đã công kích kịch liệt mối nguy hiểm từ những liều vaccin đối với trẻ em (một số mối đe dọa chỉ là tưởng tượng, còn một số khác thì có - nhưng mà - hiếm) trong khi họ lại lờ đi những lợi ích vô cùng lớn của việc tiêm chủng - những lợi ích có thể sẽ không còn nữa nếu những phong trào kiểu như vậy tiếp tục lan rộng.

Sự nghi ngờ nguy hiểm này cũng được nói tới trong nghiên cứu của John Weingart: Sự lãng phí là một điều khủng khiếp đối với nhận thức, một phần trong nghiên cứu đầy tính bi quan của ông với tư cách người đứng đầu một ủy ban ở New Jersey mặc dù nó đã xác định được giải pháp cho việc xử lý chất thải phóng xạ nguy cơ thấp. Các chuyên gia đã nhất trí rằng loại chất thải này không phải là một mối nguy hiểm nghiêm trọng, nhưng không có ai muốn nghe như vậy. Weingart, một nhà khoa học nghiên cứu chính trị tại trường Đại học Rutger, cho rằng: “Trong một cuộc họp nào đó giữa Ủy ban và các gia đình, người ta có thể sáng tác ra những ngữ cảnh, và sau đó thách thức các thành viên của Ủy ban và các nhân viên khẳng định là ngữ cảnh đó không thể xảy ra. Một người sẽ hỏi: “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu một chiếc máy bay đâm vào một boong-ke bằng xi măng chứa đầy chất thải phóng xạ và phát nổ?” Chúng tôi sẽ giải thích rằng trong khi chiếc máy bay và những gì bên trong nó có thể sẽ phát nổ thì không có cái gì trong boong-ke đó có thể phát nổ. Và họ sẽ nói: “Nhưng sẽ như thế nào nếu những chất gây nổ được tình cờ bố trí tại đó, và các thiết bị giám sát đã gặp sự cố, bị trục trặc nên người ta không thể phát hiện ra?” Chúng tôi sẽ trả lời rằng đó là một chuỗi các điều kiện có quá ít khả năng để có thể xảy ra. Và họ sẽ nói: “Ừm, vậy là nó có thể xảy ra, đúng không?”

May thay, chúng ta không hoàn toàn bác bỏ sự tin tưởng, và các chuyên gia vẫn có thể tạo được những ảnh hưởng lớn đối với quan điểm của công chúng đặc biệt là khi họ có thể giả mạo được một sự đồng thuận giữa chính những chuyên gia với nhau. Liệu có phải là HIV gây ra AIDS? Trong một thời gian dài, đã có những nhà khoa học cho rằng điều đó không đúng, nhưng đó chỉ là một số rất ít, trong khi phần lớn giới khoa học đều công nhận điều đó. Công chúng đã nghe và chấp nhận quan điểm của số đông. Một ngữ cảnh như vậy cũng đang diễn ra đối với trường hợp của sự thay đổi khí hậu. Hầu hết mọi người ở tất cả các nước phương Tây đều đồng ý rằng những thay đổi khí hậu do con người gây ra là có thật không phải vì chính họ đã nghiên cứu về vấn đề khoa học đó, mà bởi vì họ biết rằng hầu hết các nhà khoa học đều cho rằng như vậy.

Nhưng như Howard Margolis mô tả trong Dealing with Risk (Đương đầu với nguy cơ), các nhà khoa học cũng có thể nhận ra là chính họ sẽ bị lờ đi khi quan điểm của họ đi ngược lại những cảm xúc, cảm nhận mạnh mẽ của công chúng. Margolis nhắc tới trường hợp Hội Vật lý Hoa Kỳ, một tổ chức của các nhà vật lý học, đã dễ dàng thuyết phục được công chúng tin rằng sự thống nhất hờ hững đó không làm nên điều gì nhưng nó cũng chẳng ảnh hưởng gì khi đưa ra một bảo báo cáo mang tính tích cực về tính an toàn của chất thải hạt nhân cấp cao.

Vì thế, chắc chắn rằng những thông tin khoa học và ý kiến của các nhà khoa học có thể đóng một vai trò quan trọng trong nhận thức của mọi người về các mối nguy hiểm, nhưng, cũng giống như sự chia rẽ không có hồi kết giữa những ý kiến chuyên gia và quan điểm của người bình thường, vai trò và sự ảnh hưởng này không đạt tới mức ảnh hưởng như các nhà khoa học và giới chức mong đợi. Chúng ta vẫn còn là một loài sinh vật bị chi phối mạnh mẽ bởi trí óc vô thức và các công cụ của chúng, đặc biệt là các Quy luật Điển hình, Quy luật Tốt-Xấu và Quy luật về những vật đặc trưng. Chúng ta cũng còn là những động vật xã hội quan tâm tới những gì mà những người khác nghĩ. Và nếu chúng ta không chắc liệu rằng chúng ta có nên lo lắng về nguy cơ này hay nguy cơ kia hay không, liệu người khác có lo lắng giống như chúng ta hay không... tất cả những điều này sẽ tạo ra một sự khác biệt rất lớn.

Cass Sunstein trong cuốn Risk and Reason (Nguy cơ và nguyên nhân) đã viết: “Hãy tưởng tượng rằng Alan nói rằng những vị trí chứa chất thải bị cấm là rất nguy hiểm, cũng có nghĩa là Alan đề xướng hành động phản đối bởi địa điểm như vậy được bố trí ở gần đây. Betty, có thái độ hoài nghi và trung lập, có lẽ cũng sẽ ngả theo ý kiến của Alan. Carl, chẳng biết gì, có lẽ sẽ bị thuyết phục bởi những niềm tin, hay ý kiến mà Alan và Betty cùng chia sẻ, niềm tin đó hẳn phải là sự thật. Điều này sẽ lấy mất sự tự tin của Deborah khi chống lại những đánh giá đồng thuận của Alan, Betty và Carl. Kết quả của chuỗi ảnh hưởng này có thể là những dòng thác mang tính xã hội, khi hàng trăm, hàng nghìn, hay hàng triệu người sẽ tiến tới chấp nhận một niềm tin chắc chắn về một điều gì đó bởi những người khác đã tin như vậy.”

Tất nhiên, sẽ có những biến đổi, khác biệt lớn trong khoảng cách từ một ai đó ở trong phòng thí nghiệm với một nhóm trả lời đối mặt cùng những câu hỏi vô giá trị tới “hàng trăm, hàng nghìn, hay hàng triệu người” nhận định rằng một điều gì đó là nguy hiểm đơn giản bởi vì đó là những gì người khác nghĩ. Sau cùng, những người ở trong những căn phòng thí nghiệm biết rằng câu trả lời của họ thực sự chẳng gây ra điều gì. Họ sẽ không bị trừng phạt nếu mắc lỗi, và cũng chẳng được thưởng nếu như trả lời đúng. Nhưng trong thế giới thực, những quan điểm của chúng ta lại rất có thể làm ra chuyện.

Một mặt, chúng ta là những công dân của nền dân chủ, trong xã hội đó, những ý kiến, quan điểm của công chúng sẽ ảnh hưởng tới cách ứng phó (hoặc không ứng phó) của chính phủ đối với những mối nguy cơ. Cụ thể hơn, những gì chúng ta nghĩ về những mối nguy hiểm có thể đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống cá nhân của mỗi con người. Liệu rằng bạn sẽ ủng hộ việc xây dựng một địa điểm chứa chất thải độc hại tại khu vực bạn sống? Nếu dự án đó được thực hiện, có nghĩa rằng những việc làm mới sẽ được tạo ra, và kinh tế tăng trưởng. Nhưng nó cũng đồng nghĩa với một nguy cơ đối với sức khỏe của gia đình bạn. Liệu bạn sẽ nhún vai coi thường trước mối đe dọa từ những kẻ lạm dụng tình dục trẻ em và những tên du côn, lưu manh và để cho những đứa trẻ của mình vui chơi thoải mái trong vườn nhà hàng xóm mà không cần trông nom chúng? Mỗi một câu hỏi như vậy có tầm ảnh hưởng lớn hơn rất rất nhiều so với câu hỏi liệu đường kẻ số bốn có dài hơn đường kẻ thứ năm hay không, vì thế thật khó để tin rằng với những vấn đề quan trọng như vậy, chúng ta sẽ vô tình gạt bỏ nhận định của chúng ta để ngả theo số đông.

Trong thực tế, có một số bằng chứng cho thấy tầm quan trọng của những câu hỏi này sẽ thay đổi tỉ lệ khả năng chúng ta nghiêng theo quan điểm của số đông. Tầm quan trọng sẽ khiến tỉ lệ đó tăng lên. Về căn bản là như vậy.

Robert Baron, Joseph Vandello và Bethany Brunsman, nhóm các nhà tâm lý học thuộc trường Đại học Iowa đã thiết kế một thí nghiệm, trong đó họ nói với những người tham gia rằng họ đang kiểm tra tính chính xác của những bằng chứng được quan sát bằng mắt. Bài kiểm tra bao gồm những slide(1) xuất hiện trong thời gian ngắn và những câu hỏi được đưa ra dựa trên những gì đã hiển thị: Có phải là người đàn ông đó đeo kính không? Bạn có nhìn thấy người đàn ông đó ở trong đội ngũ cảnh sát không? Mỗi vòng có ba người thực hiện bài kiểm tra. Tất nhiên, đó là một thủ thuật. Hai trong số ba người tiến hành bài kiểm tra chính là một phần của thí nghiệm thực sự, nhằm xem xem liệu người khác có đi theo những câu trả lời sai mà họ đưa ra hay không.

Hai biến số mới đã khiến thí nghiệm này khác hơn so với nghiên cứu trước đó về sự ngả theo khuynh hướng. Trong một số phép thử, các slide được phát đi phát lại, hoặc có thể hiển thị trên màn hình trong đủ 5 giây. Các nhà nghiên cứu đã biết được từ bài kiểm tra trước đó rằng mọi người hầu như không bao giờ mắc sai lầm trong những điều kiện như vậy. Nhưng trong những thí nghiệm khác, slide sẽ chỉ thoáng lóe lên trên màn hình khiến cho việc trả lời câu hỏi khó khăn hơn rất nhiều. Các nhà khoa học cũng đưa cho người tham gia những thông tin nền khác về mục đích của thí nghiệm. Một số được nói rằng đó chỉ thuần túy là một nghiên cứu thí điểm nhằm nhận biết được cảm nhận khái quát về cách thức mọi người nhận thức về mọi việc xung quanh để sau này có thể dùng để “phát triển một bài kiểm tra cho chúng ta biết con người ta có thể chính xác tới mức độ nào trong vai trò của một nhân chứng.”

Đây là phiên bản “ít quan trọng” của thí nghiệm. Trong khi đó, có những người khác lại được cho biết rằng các nhà nghiên cứu đã phát triển “Bài Kiểm tra Nhận dạng Nhân chứng Iowa” (I.W.I.T) phương pháp mà các cơ quan cảnh sát và các tòa án sẽ sớm áp dụng trong các vụ án liên quan đến những lời chứng thực của nhân chứng”. “Trong những tuần tới chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu những người tham gia như các bạn thông qua I.W.I.T để thiết lập các quy tắc đáng tin cậy. Do vậy chúng tôi hi vọng rằng bạn sẽ cố gắng hết sức trong cuộc kiểm tra bởi thiết lập các quy tắc chính xác là việc quan trọng.” Hầu hết mọi người cố gắng nỗ lực trong cuộc kiểm tra này vì họ quan tâm đến mức độ chính xác của việc họ làm chứng khi so sánh với người khác. Nhưng để khiến họ có ý thức thực hiện bài kiểm tra tốt hơn, chúng tôi sẽ trao giải thưởng 20USD vào cuối mỗi giai đoạn kiểm tra thí nghiệm cho những người tham gia có độ chính xác cao nhất”. Đây là điều kiện của phiên bản thí nghiệm “có tính quan trọng cao”.

Những kết quả đầu tiên là bản sao chính xác của những thí nghiệm về sự tuân theo nguyên bản: Khi nhiệm vụ dễ dàng và mọi người nghĩ thí nghiệm “ít quan trọng”, một phần ba số người đã bỏ phán đoán riêng của họ và thuận theo câu trả lời của nhóm. Và khi đó nó trở thành phiên bản “nhiệm vụ dễ dàng/tầm quan trọng cao”. Những nhà nghiên cứu dự đoán sự tuân theo sẽ giảm dưới những điều kiện đó và thực sự nó đã như vậy. Nhưng nó không biến mất: khoảng 13% đến 16% vẫn theo nhóm.

Mọi việc trở nên hấp dẫn khi các câu hỏi khó trả lời hơn. Trong những người nghĩ cuộc kiểm tra “ít tầm quan trọng” một lượng thiểu số tuân theo nhóm, họ làm thế khi thấy các câu hỏi dễ trả lời. Nhưng khi cuộc kiểm tra có “tầm quan trọng cao” sự tuân theo lập thức tăng lên. Những nhà nghiên cứu cũng nhận ra rằng dưới những điều kiện đó mọi người trở nên tự tin hơn về độ chính xác của những câu trả lời bị ảnh hưởng của nhóm. Những nhà nghiên cứu viết “Dữ liệu của chúng tôi chỉ ra rằng khi các đánh giá khó hoặc mơ hồ, các nhân tố ảnh hưởng được thống nhất và đáng tin, độ chính xác tăng dần sẽ tăng cường sự tin tưởng cũng như thuận theo - một sự kết hợp nguy hiểm.”

Những đánh giá về rủi ro thường khó khăn và quan trọng. Nếu Baron Vandello và Brunsman đúng, đó là những điều kiện mà con người chắc chắn sẽ tuân theo quan điểm của nhóm và cảm thấy tin tưởng rằng họ làm thế là đúng.

Nhưng rõ ràng một người có thể nghĩ theo một ý kiến chỉ dựa vào các quan điểm thiếu hiểu biết của những người khác là một điều mong manh. Chúng ta được tiếp xúc với thông tin hàng ngày. Nếu quan điểm của nhóm là ngu ngốc chúng ta sẽ sớm tìm thấy bằng chứng khiến chúng ta nghi ngờ quan điểm của mình. Liệu có phải một người mù không thể dẫn đường cho người mù khác?

Thật không may các nhà tâm lý học đã phát hiện một xu hướng nhận thức chỉ ra rằng trong một số trường hợp người mù thực sự có thể dẫn đường cho một người mù khác một cách rõ ràng. Nó được gọi là xu hướng xác nhận cách thức hoạt động của nó vừa đơn giản vừa hiệu quả. Một khi chúng ta hình thành một quan điểm, chúng ta nắm bắt thông tin ủng hộ quan điểm đó trong khi phớt lờ những thông tin, bác bỏ hoặc thậm chí phán xét khắt khe những thông tin gây nghi hoặc về quan điểm của chúng ta. Bất kể niềm tin nào cũng sẽ như vậy. Không có sự khác biệt khi suy nghĩ về những chuyện tầm phào hay quan trọng. Đó không phải là vấn đề nếu niềm tin là sản phẩm của sự cân nhắc lâu dài và cẩn thận hoặc là điều gì đó đơn giản chỉ do những người khác ở chat room trên Internet nói vậy. Một khi niềm tin được thiết lập bộ não của chúng ta sẽ tìm cách xác nhận nó.

Trong một nghiên cứu thuộc những nghiên cứu sớm nhất về xu hướng xác nhận, nhà tâm lý học Peter Wason đã chỉ cho mọi người thấy một chuỗi gồm ba chữ số 2, 4, 6 và nói với họ chuỗi này theo một quy luật nhất định. Những người tham gia được yêu cầu xác định quy luật đó. Họ cũng có thể làm vậy bằng cách viết ra thêm ba số và hỏi liệu chúng có tuân theo cùng quy luật. Những nhà nghiên cứu hướng dẫn rằng khi bạn nghĩ bạn tìm ra quy luật, hãy nói ra và chúng ta sẽ xem bạn có đúng không.

Dường như hiển nhiên rằng quy luật của các con số là “các số chẵn tăng thêm hai”. Do vậy hãy nói rằng bạn sẽ làm kiểm tra. Bạn sẽ nói gì? Hiển nhiên bước đầu tiên bạn sẽ hỏi: “Thế còn số 8, 10, 12? Chúng có tuân theo quy luật? Và bạn sẽ được trả lời rằng có, chúng tuân theo quy luật.

Giờ bạn thật sự nghi ngờ. Điều này quá dễ. Do vậy bạn quyết định thử bộ số khác. “Liệu 14, 16, 18 có tuân theo quy luật?” Có.

Đến điểm này bạn muốn hét to câu trả lời - quy luật là các số chẵn tăng thêm hai! - nhưng bạn nghĩ phải có một cái bẫy ở đây. Do vậy bạn quyết định hỏi về ba số khác: 20, 22, 24. Lại đúng!

Hầu hết mọi người tiến hành cuộc kiểm tra theo đúng khuôn mẫu này. Mỗi lần họ đoán xong họ được cho biết mình đúng và như vậy dường như các bằng chứng là họ đúng chất đống lên. Hiển nhiên họ trở nên tuyệt đối thuyết phục rằng niềm tin ban đầu của họ là đúng. Chỉ nhìn vào tất cả những bằng chứng! Và như vậy họ dừng cuộc kiểm tra và tuyên bố rằng họ có câu trả lời: Đó là “các số chẵn tăng thêm hai”.

Và họ được cho biết rằng họ sai. Đó không phải là quy luật. Quy luật đúng thực ra là “bất kì ba số nào cũng có trật tự tăng dần.”

Tại sao mọi người làm sai? Rất dễ chỉ ra rằng quy luật không phải là “các số chẵn tăng thêm hai”. Tất cả họ phải thử không xác nhận quy luật các số chẵn tăng thêm hai. Ví dụ họ có thể hỏi rằng liệu “5, 7, 9” có theo quy luật. Làm điều đó và câu trả lời là có - điều này sẽ ngay lập tức phủ nhận giả thuyết. Nhưng hầu hết mọi người không cố gắng phủ nhận. Họ làm điều ngược lại, cố gắng xác nhận quy luật bằng cách tìm các ví dụ phù hợp với nó. Đó là một chiến lược không hiệu quả. Bất kể bao nhiêu ví dụ được chất lên chúng cũng không bao giờ có thể chứng minh niềm tin là đúng. Sự xác nhận không có tác dụng.

Thật không may việc tìm kiếm thông tin xác nhận các niềm tin trở nên tự nhiên, trong khi nó cho các cảm giác lạ lùng và chống lại trực giác để tìm kiếm bằng chứng đối lập với những niềm tin của chúng ta. Vẫn có thể tệ hơn nếu chúng ta tình cờ gặp các ví dụ đi ngược lại quan điểm của mình, chúng ta có xu hướng mạnh sẽ xem nhẹ hoặc phớt lờ nó. Trong năm 1979 - khi tử hình là một vấn đề hàng đầu ở Mỹ - những nhà nghiên cứu Mỹ đã đưa số lượng đồng đều những người ủng hộ và phản đối luật tử hình. Sức mạnh quan điểm của họ được kiểm tra. Sau đó họ được yêu cầu đọc một bài luận có sự cân nhắc cẩn thận trình bày bằng chứng rằng tử hình ngăn chặn tội ác và bằng chứng rằng nó không thể. Những nhà nghiên cứu sau đó kiểm tra lại ý kiến của mọi người và phát hiện rằng chúng chỉ trở nên mạnh mẽ hơn. Họ đã hấp thu những bằng chứng xác nhận quan điểm của họ và phớt lờ những bằng chứng còn lại, thậm chí rời cuộc thí nghiệm với sự thuyết phục chắc chắn hơn rằng họ đúng và ai phản đối đều sai.

Peter Wason đặt ra thuật ngữ xu hướng xác nhận và vô vàn những nghiên cứu khác đã dựa vào phát hiện của ông - hay sự diễn giải của ông về một xu hướng mà những người quan sát cẩn thận đã chỉ ra. Gần 400 năm trước, ngài Francis Bacon đã viết rằng khi sự hiểu biết của con người chấp nhận một quan điểm (thậm chí là ý kiến đã được thừa nhận hay có thể được chấp nhận đối với bản thân nó) đã lôi kéo tất cả những điều khác ủng hộ và đồng ý với nó. Và do vậy dù ý kiến đối lập tìm thấy một số lượng ví dụ có sức nặng lớn hơn thì bất chấp những điều này nó cũng phớt lờ hay được đặt sang một bên và bác bỏ; tuy nhiên uy lực của những quyết định trước đó có thể vẫn không bị xâm hại...” Những từ thông minh được chứng minh đúng hàng ngày bởi vô số học giả và người viết blog.

Không nên đánh giá thấp quyền lực của xu hướng xác nhận. Trong suốt cuộc bầu cử Tổng thống năm 2004, một nhóm nghiên cứu do Drew Westen đứng đầu ở Đại học Emory đã đưa tới 30 người cam kết ủng hộ - một nửa là người đảng Dân chủ, một nửa là người đảng Cộng hòa - và để họ nằm trên những chiếc máy chụp cộng hưởng từ (MRI). Trong khi não họ được kiểm tra cẩn thận, họ được cho xem ba tuyên bố của George W. Bush hoặc về ông ta. Tuyên bố thứ hai đối lập với tuyên bố thứ nhất, khiến hình ảnh của Bush tệ đi. Những người tham gia được hỏi liệu những tuyên bố này có mâu thuẫn và sau đó đánh giá mức độ mâu thuẫn của chúng. Một bản tuyên bố thứ ba sau đó đưa ra lời biện minh về sự mâu thuẫn rõ ràng giữa hai bản tuyên bố. Những người tham gia được hỏi liệu có phải bản tuyên bố không còn mâu thuẫn như ban đầu chúng xuất hiện. Và cuối cùng họ lại được yêu cầu đánh giá mức độ mâu thuẫn của hai tuyên bố ban đầu. Thí nghiệm được lặp lại với trọng tâm là John Kerry và lần thứ ba là một chủ đề trung lập.

Những kết quả rõ ràng rất khó để gây ngạc nhiên. Khi những người ủng hộ Bush đối mặt với những tuyên bố mâu thuẫn của Bush họ đánh giá chúng ít mâu thuẫn hơn những người ủng hộ Kerry. Và khi được giải thích, những người ủng hộ Bush thấy nó hợp lý hơn những người ủng hộ Kerry. Không có sự khác biệt giữa những người Cộng hòa và Dân chủ khi kiểm tra chủ đề trung lập.

Tất cả những điều này đều có thể đoán được. Tuy nhiên điều được thể hiện trên MRI đáng ngạc nhiên hơn. Khi mọi người xử lý thông tin đi ngược lại những quan điểm mà họ tin chắc - thông tin khiến hình ảnh ứng cử viên của họ tệ hơn - họ thực sự sử dụng những phần khác của bộ não so với khi họ xử lý những thông tin trung lập hoặc tích cực. Dường như xu hướng xác nhận thực sự được kiểm soát bằng các vi mạch trong mỗi chúng ta và điều đó có những hậu quả to lớn đối với việc những ý kiến tồn tại và lan tràn như thế nào.

Một số người hình thành niềm tin không dựa vào điều gì khác ngoài thực tế là những người xung quanh anh ta tin vậy. Niềm tin đó có xu hướng xác nhận để góp phần vào những thông tin sắp được sàng lọc: Nếu nó ủng hộ niềm tin, nó sẽ sẵn sàng được chấp nhận; nếu nó đi ngược lại niềm tin nó sẽ bị phớt lờ, bị xem xét cẩn thận hoặc thẳng thừng bác bỏ. Do vậy nếu thông tin đồng thời xuất hiện trên báo chí, truyền hình và các cuộc đối thoại nó sẽ củng cố một niềm tin ban đầu được hình thành chỉ vì mọi người khác trong giờ nghỉ giải lao cũng nói vậy.

Đó là ở mức độ cá nhân. Điều gì xảy ra nếu mọi người chia sẻ một niềm tin cùng thảo luận nó. Các nhà tâm lý học biết câu trả lời và nó không hề thú vị. Họ gọi nó là sự phân cực nhóm.

Dường như có lý do để nghĩ rằng khi những người có cùng tư tưởng tập hợp và thảo thuận về một địa điểm bỏ hoang có khả năng gây nguy hiểm, hoặc các mô cấy ngực mà họ tin khiến cho họ mắc bệnh hay một vài rủi ro khác, các quan điểm của họ sẽ có xu hướng hợp nhất xung quanh điểm trung bình giữa những nhóm người. Nhưng họ sẽ không làm vậy. Hàng thập kỉ nghiên cứu đã chứng minh rằng các nhóm thường đi đến kết luận cực đoan hơn quan điểm trung bình của những cá nhân trong nhóm. Khi những người phản đối địa điểm bỏ hoang có thể gây nguy hại cùng tập hợp và thảo luận về nó, họ sẽ nhanh chóng bị thuyết phục rằng địa điểm này nguy hiểm hơn họ nghĩ ban đầu. Khi một người phụ nữ tin rằng các mô cấy ngực là mối đe dọa gặp những người phụ nữ có cùng cảm giác đó, cô ấy và tất cả phụ nữ trong cuộc họp chắc chắn dời cuộc họp với niềm tin rằng ban đầu họ đã đánh giá thấp sự nguy hiểm. Động lực luôn giống nhau, dù các quan điểm có như thế nào. Khi những người có cùng tư tưởng tập hợp và nói về những quan điểm đang tồn tại của họ có xu hướng trở nên cực đoan hơn.

Về phần nào đó nhược điểm lạ lùng này của con người bắt nguồn từ xu hướng chúng ta phán xét bản thân bằng việc so sánh với người khác. Khi chúng ta tập hợp thành một nhóm có cùng tư tưởng, điều chúng ta chia sẻ là một ý kiến mà tất cả chúng ta tin rằng đúng và do vậy chúng ta so sánh với những người khác trong nhóm bằng cách hỏi “Tôi đúng như thế nào?” Chắc chắn rằng hầu hết những người trong nhóm sẽ phát hiện rằng họ không giữ ý kiến cực đoan nhất, điều này cho thấy họ ít đúng hơn những người khác. Và do vậy họ trở nên cực đoan hơn. Những nhà tâm lý học xác nhận lý thuyết này khi họ đặt mọi người trong nhóm và yêu cầu họ đưa ra quan điểm mà không đưa lý do tại sao và sự phân cực vẫn như vậy sau đó.

Động lực thứ hai sau sự phân cực nhóm là những con số đơn giản. Trước khi tới một cuộc gặp gỡ những người cùng tin rằng mô cấy ngực bằng silicon gây ra bệnh tật, một người phụ nữ có thể đọc vài bài báo và các nghiên cứu cùng chủ đề. Nhưng bởi vì những người trong cuộc họp đông hơn hẳn cô ấy, họ chắc chắn sẽ có những thông tin mà cô ấy không biết. Có lẽ đó là một nghiên cứu cho thấy rằng các mô cấy gây ra một bệnh mà cô chưa từng nghe nói tới, hoặc có một bài mô tả những tác động của các bệnh do mô cấy gây ra tồi tệ hơn cô biết. Dù là gì thì nó cũng dẫn cô đến kết luận rằng tình hình tệ hơn cô nghĩ. Khi những thông tin này chất đầy lên, quy trình tương tự sẽ diễn ra đối với bất kì ai trong cuộc họp bị thuyết phục rằng vấn đề lớn hơn và đáng sợ hơn họ nghĩ. Tất nhiên có thể là quan điểm của mọi người được giảm nhẹ bằng việc nghe các thông tin mới đi theo hướng ngược lại - ví dụ một bài báo của một nhà khoa học phủ nhận rằng các mô cấy gây ra bệnh. Nhưng hãy nhớ xu hướng xác nhận: Mỗi người trong cuộc họp có xu hướng chấp nhận thông tin ủng hộ ý kiến của họ và phớt lờ hoặc bác bỏ những thông tin không ủng hộ. Do vậy thông tin trong cuộc họp sẽ bị định kiến sâu sắc khiến nó trở nên lý tưởng cho những ý kiến củng cố. Các nhà tâm lý học cũng giải thích rằng do loại phân cực này chỉ dựa vào chia sẻ thông tin nên nó không đòi hỏi bất kì điều gì khác như một cuộc đối thoại mặt-đối-mặt - một thực tế đầy đủ được giải thích hàng ngày trên vô số blog chính trị.

Khi Alan thuyết phục Betty, điều đó cũng thuyết phục Carl và cũng khiến Deborah tin tưởng. Sự sàng lọc thông tin theo định kiến bắt đầu và các ý kiến dần mạnh hơn. Các tổ chức được hình thành, thông tin được trao đổi. Các quan điểm trở nên cực đoan hơn. Và trước khi bạn biết nó như Cass Sunstein đã viết, có “hàng trăm, hàng nghìn hay hàng triệu người” bị thuyết phục rằng họ bị đe dọa bởi những hiểm họa chết người mới. Đôi khi họ đúng. Mỗi người chỉ mất vài năm để bị thuyết phục rằng AIDS là một bệnh mới nghiêm trọng. Nhưng họ cũng có thể sai. Như chúng ta thấy không phải khoa học đã biến đổi hình ảnh các mô cấy ngực silicon từ một đối tượng tầm thường thành một kẻ giết người độc hại.

Dù có lý hay không, những làn sóng lo lắng có thể quét qua các cộng đồng, khu vực và các quốc gia nhưng chúng không thể kéo dài mãi mãi. Chúng theo các mạng lưới xã hội và do vậy chúng kết thúc nơi các mạng lưới xã hội kết thúc - điều đó giải thích tại sao sự hoảng hốt về mô cấy ngực silicon lan tràn khắp nước Mỹ và Canada (nơi cấm việc cấy ghép) lại khó có thể gợn sóng ở châu Âu.

Giới truyền thông hiển nhiên đóng vai trò chủ yếu khiến các làn sóng này khởi đầu và khiến chúng tiếp tục bởi vì các nhóm làm cho quan điểm của họ được biết tới thông qua nhiều cuộc đối thoại và e-mail. Các nhóm cũng phát ngôn qua truyền thông một cách rõ ràng nhưng cũng đầy hàm ý. Xem bất kì bản tin đọc bất kì bài báo nào: Những tuyên bố quan trọng về mối nguy hiểm - heroin là một loại thuốc giết người, ô nhiễm gây ra ung thư, mối quan tâm sau ngày càng trở nên tệ hơn - chỉ được nêu là sự thật mà không có bằng chứng ủng hộ. Tại sao? Bởi vì chúng là điều mà “mọi người đều biết” là sự thật. Nói cách khác là những ý kiến của nhóm. Giống như tất cả ý kiến của nhóm, chúng ảnh hưởng mạnh mẽ tới những vấn đề chưa được quyết định.

Giới truyền thông cũng phản ứng lại nỗi lo lắng đang tăng lên bằng việc đưa ra những báo cáo - hầu hết luôn là những câu chuyện cảm xúc về sự chịu đựng và mất mát - về điều mà mọi người lo lắng. Điều đó khiến những độc giả và người xem của Cái Bụng ngồi lại và chú ý. Bạn có nhớ Quy luật Điển hình? Cái Bụng tin rằng càng dễ đưa ra ví dụ về điều gì đó đang xảy ra thì nó càng chắc chắn xảy ra. Mối quan tâm ngày càng tăng về những mô cấy ngực bằng silicon gợi ra nhiều câu chuyện về những người phụ nữ với những mô cấy và bệnh tật. Những câu chuyện này tăng những đánh giá trực giác của công chúng về mối nguy hiểm của các mô cấy. Mối quan tâm tiếp tục tăng lên. Và điều đó khuyến khích giới truyền thông sản xuất thêm nhiều câu chuyện về những người phụ nữ bị bệnh vì các mô cấy đáng sợ hơn và mang tính tin đồn nhiều hơn. Càng nhiều tin đồn, càng đáng sợ. Giống như một chiếc microphone gắn quá chặt vào một loa phóng thanh, truyền thông hiện đại và bộ não nguyên thủy của loài người tạo ra một vòng lặp lại.

Cass Sunstein đã viết “Dựa vào nền tảng này không hề ngạc nhiên rằng những nước tương đồng về mặt văn hóa và kinh tế biểu lộ những phản ứng khác biệt rõ rệt đối với những rủi ro giống hệt nhau. Dù năng lượng hạt nhân được chấp nhận rộng rãi ở Pháp, nó gây ra nỗi sợ đáng kể ở Mỹ. Dù ứng dụng gen vào thực phẩm gây ra mối lo lắng lớn ở châu Âu nhưng nó lại không phải là vấn đề ở Mỹ, ít nhất cho tới gần đây. Cũng không hề ngạc nhiên khi một đánh giá công khai về bất kì rủi ro nào được đưa ra cũng có thể thay đổi đột ngột và thậm chí khi không có một thay đổi lớn nào trong thông tin khoa học liên quan”.

Giờ đây chúng ta đã nhận diện được hai nguồn - ngoài những tính toán duy lý - có thể định hình phán xét của chúng ta về rủi ro. Đó là nhận thức vô thức - Cái Bụng - và những công cụ mà nó sử dụng, đặc biệt là Quy luật Điển hình và Quy luật Tốt-Xấu. Chúng ta mà chúng ta có xu hướng tuân theo ý kiến của những người xung quanh. Nhưng nếu đó là tất cả câu chuyện thì sau đó hầu hết mọi người trong cùng cộng đồng sẽ có những ý kiến tương tự về những rủi ro đáng báo động và những rủi ro không đáng báo động.

Nhưng chúng ta không làm vậy. Thậm chí trong bất kì cộng đồng nào các ý kiến được phân chia rõ rệt. Rõ ràng rằng có điều gì đó đang hoạt động và điều gì đó là văn hóa.

Đây là một lĩnh vực đòi hỏi sự khéo léo. Ví dụ “văn hóa” là một trong những từ có những nghĩa khác nhau đối với những người khác nhau. Chuyển từ tâm lý học sang văn hóa cũng có nghĩa là bước từ một lĩnh vực hàn lâm sang một lĩnh vực khác. Rủi ro là một chủ đề lớn trong xã hội học và văn hóa là thấu kính mà các nhà xã hội học nhìn qua đó. Nhưng các nhà tâm lý học, những người nghiên cứu rủi ro và các đồng nghiệp của họ trong các ngành xã hội học hiếm khi nói chuyện với nhau. Trong vô số những cuốn sách về sự rủi ro do các nhà xã hội học viết, nó nhận được rất ít sự quan tâm của các nhà tâm lý học, nếu không muốn nói là họ chẳng thèm đếm xỉa gì cả. Đối với các nhà xã hội học thì văn hóa đáng được quan tâm. Điều gì xảy ra trong bộ não tôi khi ai đó nhắc tới việc nằm trên bãi biển ở Mexico - liệu tôi nghĩ tới rượu tequila hay ung thư da? – không hề hấp dẫn hay đáng quan tâm.

Trong thực tế một ranh giới được vẽ ra giữa tâm lý học và văn hóa, nhưng ranh giới phản ánh sự tổ chức của các trường đại học hơn là điều đang diễn ra trong đầu chúng ta. Cân nhắc các chức năng của Quy luật Tốt-Xấu trong đánh giá của chúng ta về sự mạo hiểm. Ý nghĩ nằm trên bãi biển Mexico tạo ra một cảm giác tốt trong các nếp nhăn của não tôi. Như chúng ta đã thấy, cảm giác đó sẽ định hình đánh giá của tôi về rủi ro liên quan đến việc nằm trên bãi biển cho tới khi da tôi đổi thành màu của vỏ dừa. Thậm chí một bác sĩ định nói với tôi cách ứng xử này sẽ tăng rủi ro bị ung thư da lên đáng kẻ, cảm giác dễ chịu sẽ khiến tôi, bằng trực giác hạ thấp sự rủi ro: Cái Đầu có thể nghe lời bác sĩ nhưng Cái Bụng thì đang đeo kính mát.

Thật đơn giản. Nhưng một đoạn của câu đố đã biến mất. Tại sao suy nghĩ nằm trên một bãi biển ở Mexico cho tôi những cảm giác tích cực? Sinh học không giải thích được điều đó. Chúng ta có thể thưởng thức cảm giác ánh nắng - một nguồn cung cấp nhiệt và vitamin D - nhưng chúng ta không tự nhiên nghiêng về việc phơi nắng trên bãi biển bởi vì con người chỉ bắt đầu làm điều này trong thời hiện đại. Do vậy tôi đã học được rằng điều Tốt ở đâu? Chắc chắn là kinh nghiệm. Tôi đã làm điều đó và nó rất thú vị. Nhưng tôi đã nghĩ nó thú vị trước khi tôi thực hiện nó. Đó là lý do tôi làm vậy. Do vậy một lần nữa, tôi phải hỏi câu hỏi: Tôi có ý tưởng này từ đâu?

Tôi có nó từ những người đã làm và nói với tôi rằng nó thú vị. Tôi có nó từ những người khác chưa làm nhưng họ nghe nói rằng nó thú vị hoặc từ sách, tạp chí, truyền hình, đài phát thanh và phim. Đặt tất cả chúng hòa với nhau và rõ ràng tôi có thông điệp rằng tắm nắng ở bãi biển Mexico rất thú vị từ nền văn hóa xung quanh tôi. Tôi là người Canada. Mọi người Canada cũng thường đi tới miền nam vào mùa đông hoặc mơ về điều đó. Những bãi biển nhiệt đới là một phần trong văn hóa của Canada như mũ len và khúc quân cầu trên băng và đó là điều thuyết phục tôi rằng nằm trên bãi biển Mexico rất thú vị. Thậm chí tôi chưa từng chạm ngón chân vào cát ở Mexico, ý nghĩ nằm trên một bãi biển ở Mexico sẽ gây ra những cảm giác tốt trong não tôi - và những cảm giác đó sẽ ảnh hưởng tới đánh giá của tôi về những rủi ro liên quan.

Đây là một câu chuyện rất điển hình. Chắc chắn có một số phản ứng mang tính cảm xúc chủ yếu có nguồn gốc sinh học ví dụ như sự khiếp sợ các xác chết hay phân, nhưng các cảm giác của chúng ta thường bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm và văn hóa. Tôi có một người bạn Do Thái theo các quy định về chế độ ăn kiêng của người Do Thái là cấm ăn thịt lợn. Anh ta luôn làm vậy. Thực tế anh ta đã tiếp thu những quy định đó sâu sắc tới mức anh ta đúng là cảm thấy buồn nôn khi thấy thịt muối hay thịt xông khói. Nhưng đối với tôi nhìn thấy thịt muối có nghĩa là Thiên Chúa giáo và ngủi thấy mùi thịt xông khói gợi lên hình ảnh những buổi sáng thứ Bảy ngập nắng. Hiển nhiên ăn thịt lợn không nguy hiểm tệ hại nhưng vẫn có rủi ro bị ngộ độc thực phẩm (điển hình là giun xoắn). Nếu bạn tôi và tôi được yêu cầu đánh giá rủi ro đó những cảm giác rất khác nhau mà chúng tôi có sẽ dẫn dắt kí ức vô thức của chúng tôi, sử dụng Quy luật Tốt-Xấu - cho các kết luận rất khác nhau.

Sự đồng thuận đóng vai trò quan trọng trong nhận thức của chúng ta về những mối nguy hiểm của thuốc. Một số loại thuốc bị cấm thì đơn giản sở hữu nó đã là một tội. Đây là một dấu hiệu sâu sắc và chúng tôi cảm thấy nó từ trong xương thịt. Đó là những chất đáng sợ và nguy hiểm. Đôi khi chúng ta nói về chúng như chúng là những sinh vật có nhận thức nấp trong ngõ hẻm. Chúng ta thể hiểu với những cảm giác mạnh mẽ rằng chúng ta sẽ nhìn thấy những loại thuốc này cực kì nguy hiểm: Hít loại cocaine đó, hút loại heroin đó đồng nghĩa với việc bị nghiện hay cái chết.

Không hề có nghi vấn về việc các loại thuốc có thể gây ra tổn hại kinh khủng nhưng có rất nhiều lý do để nghĩ rằng chúng không nguy hiểm như hầu hết mọi người nghĩ. Hãy xem xét về cocaine. Năm 1995 Tổ chức Y tế Thế giới đã hoàn thành “nghiên cứu toàn cầu lớn nhất đã từng được thực hiện về cocaine". Trong số những phát hiện của nó: “Thỉnh thoảng sử dụng cocaine” không nhiều và không ép buộc là “khuôn mẫu điển hình của việc sử dụng cocaine” và sử dụng cocaine không đúng cách dẫn tới các vấn đề thể chất hay xã hội.”

Tất nhiên sẽ rất mâu thuẫn khi thừa nhận rằng các loại thuốc trái phép không nguy hiểm như mọi người vẫn tin nhưng những nhận thức phóng đại của về ro rõ ràng là điều là chúng ta mong được thấy dựa vào sự phản đối mạnh mẽ của mọi người về thuốc. Các chính quyền không chỉ biết điều này, họ còn sử dụng nó. Các chiến dịch ngăn chặn việc sử dụng thuốc điển hình bao gồm quảng cáo và giáo dục tại lớp học nơi có mục đích rõ ràng là tăng những nhận thức về rủi ro (báo cáo của WHO về cocaine mô tả hầu hết sự nhận thức về thuốc là “nông cạn, khủng khiếp, quá tiêu cực”) trong khi các cơ quan về thuốc theo dõi những nhận thức về mối nguy hiểm phổ biến và báo trước bất kì sự tăng lên trong nhận thức như một sự phát triển tích cực. Liệu những rủi ro được nhận thức đồng hành với rủi ro thật sự không phải là mối quan tâm. Rủi ro được nhận thức cao hơn luôn tốt hơn.

Sau đó là những loại thuốc hợp pháp. Thuốc lá dần trở thành một chất bị hạn chế và chê trách nhưng rượu vẫn là một loại chất gây nghiện được yêu thích ở các nước phương Tây và nhiều nơi khác. Đó là một phần của kết cấu văn hóa, chất bôi trơn cho các sự kiện xã hội, biểu tượng của sự tán dương. Một cuộc khảo sát năm 2003 của truyền hình Anh cho thấy rượu thường xuất hiện trong “những hình ảnh tích cực, yến tiệc và vui vẻ.” Chúng ta yêu thích rượu và vì lẽ đó không ngạc nhiên khi những quan chức về y tế thường phàn nàn rằng mọi người nhìn thấy ít sự nguy hiểm trong thuốc kích thích, những thứ có thể gây nghiện, bệnh tim mạch, rối loạn dạ dày, bệnh gan mãn tính, một vài loại bệnh ung thư, hội chứng do rượu và sử dụng quá liều gây nguy hiểm - một loại thuốc rõ ràng đã giết nhiều người hơn tất cả các loại thuốc lậu hợp lại. Tác động thực của những cảm giác hoàn toàn khác nhau mà do rượu và các chất kích thích khác đã được tổng kết rõ ràng trong một bản báo cáo năm 2007 của Trung tâm về lạm dụng các chất của Canada: Hầu hết mọi người “có một quan điểm phóng đại về những tổn hại kết hợp với sử dụng thuốc bất hợp pháp nhưng lại đánh giá thấp tác động tiêu cực của rượu trong xã hội. Đó là Cái Bụng, theo những ám hiệu từ nền văn hóa.

Quy luật Điển hình cho văn hóa cơ hội khác để ảnh hưởng tới Cái Bụng. Đó là vì Quy luật Điển hình càng dễ tập hợp các ví dụ về điều đang xảy ra, thì càng có sự chắc chắn lớn về những điều đang xảy ra - những điểm mấu chốt trong sức mạnh của những kí ức mà chúng ta hình thành. Sức mạnh kí ức của chúng ta phụ thuộc nhiều vào sự chú ý. Nếu tôi tập trung mạnh mẽ vào điều gì đó và gợi nhớ về nó lặp đi lặp lại, tôi sẽ nhớ nó tốt hơn khi tôi chỉ liếc nhìn nó và không nghĩ lại về nó. Điều gì tôi hầu như chắc chắn tập trung