Đi
Người bố nhìn.
Suốt hai bên đường, người đổ ra chỉ càng thêm đông. Xóm nào, làng nào cũng chỉ toàn những người đi thôi. Bọn năm người, bọn mười người, có bọn hẳn hàng năm sáu mươi người. Người bố tưởng bọn mình gồm có năm bố con bà cháu nhà y và hai mươi sáu vợ chồng con cái bẩy nhà trong làng như thế đã là đông lắm rồi, ngờ đâu vẫn không thấm!
- Thế kia thì cả tỉnh bỏ đi còn gì!
Người bố nghĩ. Trước hai con mắt bừng bừng của y, càng rộn rập, những bước chân, những gồng gánh, những đùm chiếu, những sống lưng khặc khừ, những bụng mọng lặc lừ, những cái đùi tóp lẩy bẩy, những đầu tóc bù xù, những đứa bé bèo nhèo lờ ngờ. Và hai bên tai ù ù của y càng ran ran những tiếng nói hổn hển, những tiếng gọi thất thanh, những tiếng ho sù sụ, những tiếng rên thoi thóp, tiếng chửi, tiếng lạy van, tiếng trách móc và những tiếng cười, những tiếng hát... Những tiếng cười hô hố, khanh khách, những tiếng hát gào lên như điên như dại.
Thỉnh thoảng có vài cái xe tay ì ạch đi ngược lại thì người ta liền bâu đến đen ngòm. Một cái quần vá đũng một cái áo bợt cả vai, cả khuỷu tay, cả nách, một cái khăn vuông dúm mấy chỗ, một cái khăn bao tải mướp, một cái màn như vó bè, một bát đĩa cóc cáy, một cái điếu bát cổ sứt sẹo bịt chi chít, một cái nồi đồng bẹp, một cái chậu thau xoạc miệng... tất cả những đồ vật lăm lăm muốn trở thành cơm, thành khoai, thành ngô kia lại nhốn nháo giơ lên. Nhưng chỉ có những bàn tay xua đuổi, những cái chân giậm thình thịch xuống sàn xe và những tiếng kêu: "Giời ơi giời! Khổ lắm! Khổ lắm! Nợ lắm!". Sau đó người ta lại giãn ra. Người ta phờ phạc xanh xám hơn, lờ đờ nhìn cố thêm lần nữa và van lơn cố thêm mấy lời nữa, những bọn lái buôn đi mua đồ cũ nọ đang cười trò chuyện trên những đống, những bị, những bồ, những tay nải, những va li xếp ùn ùn ở những cái xe mải miết chạy.
Trời đã nhờ nhờ càng tối thêm. Gió thổi cũng lộng hơn. Những cánh đồng lúa mới xanh xanh tím bầm hẳn lại, heo hút tiếng quạ rền. Mùa xuân có những nóc đình, chùa ngói đỏ tươi, những cờ phấp phới, những chiêng trống, bát âm, tù và ầm ầm, ríu rít, inh ỏi, những dải yếm hoa đào, những áo cánh sồi vàng chóe, những quần điều, những hào bao trễ bên sườn và những giọng hát thấp thoáng nỉ non, cái mùa xuân hội hè đình đám ấy như tự một đời nào quá xa, mất hẳn rồi.
Người bố lại đổi vai. Dưới chiếc đòn gánh rắn và lạnh hơn sắt, cái bên vai vừa mới được nghỉ đau chói lên và buốt như xương bị trật trắng ra. Sự thật, cái gồ xương chỉ còn dính tí da nọ đã trật ra từ bao năm rồi mà một con người lớn lên là quanh năm phải kéo cày, kéo bừa, kéo xe thay trâu bò. Người bố chỉ dám "xuýt" một tiếng khẽ, đoạn nghiến chặt hai hàm răng lại để ghì lấy sức run rẩy. Hai bên gánh nhờ thế vẫn nhún nhẩy đều. Một bên thúng, đứa bé nhất đã ngủ say, còn một đứa bên thứ nhì vẫn ngờ nghệch nhìn. Nó thấy những quán, những hàng sao nhiều mấy? Toàn những hàng cơm nắm, hàng bánh đúc, hàng nước lúc nhúc người và người.
Thằng bé càng bồn chồn thấy mãi bố nó không vào hàng nghỉ. Ừ, đã không mua cơm, mua bánh cho chúng nó ăn thì cũng cho chúng nó chiếc kẹo hay cho chúng nó nhấm nhá tí cám rang để dành trong gói kia chứ. Nhưng chợt nghĩ ra thì nó lại lo cho bố nó vào hàng thật. Đừng dại thế! Bố nó chỉ nên tìm một gốc gạo, gốc đa hay bờ suối nào vắng hãy nghỉ và hãy cho chúng nó ăn, kẻo không khéo những ăn mày kia xúm lại xin hết của nó hay cướp hẳn của nó cũng nên.
Sợ quá! Hàng nào cũng mấy chục ăn mày là ít. Có cả những người lọm khọm như bà nó. Có cả những người mặt mày vêu vao như bố nó. Có cả những bé còm nhom như chị em nó. Và họ có những mụn gì ở đầu ở ngực to thế? Những chân cẳng gì lại bằng cái cột thế? Ở chợ làng nó, nhiều kẻ trông đã tợn, nhưng ở đây họ còn tợn hơn. Họ cứ lăn xả vào các hàng, đè sấn lên nhau mà nhặt những hạt rơi rụng. Họ móc cả mồm nhau mà giật những lá bánh, lá gói cơm, gói cá. Lắm người vứt cả con đi để cướp cái vỏ chuối giằng từ mồm người ăn xuống và tranh nhau đến nỗi vỏ chuối đã dí bét với đất mà vẫn cứ quào lấy mà ăn.
Nó còn thấy thêm điều nữa là nhiều kẻ còn rét hơn cả bà, cả bố, cả chị em nó nữa. Bà nó, bố nó, chị em nó còn có quần áo rách mặc, chứ họ thì trần truồng, khố không có mà đeo, phải quặp ủ tay vào háng mà vẫn run cầm cập. Họ nằm cũng run, ngồi cũng run và đi cũng run, mà hễ không run là chết cứng đờ... Họ chết ngay bên vệ đường, ngay bờ cỏ, ngay mé ruộng, ngay trước các quán, chẳng thấy ai chôn cất, khóc lóc... Họ chết như rạ ấy. A! Ban nãy nó loáng thoáng nghe người ta nói chuyện với nhau, vừa có một bọn ba người đàn ông và một người đàn bà cũng như nhà nó, bỏ làng đi tìm việc. Đến tối, rét và mệt quá, bọn này không có chỗ trọ bên rúc vào một đống rạ sau vườn nhà nọ. Mấy ngày sau nhà nọ thấy sao đống rạ nhà mình lại thối sực lên và lắm quạ thế, đuổi thế nào cũng không được, phải tính cách dỡ đống rạ ra. Họ đã kêu lên và cả làng đã đổ đến. Bốn cái xác chết co quắp lấy nhau cái mất tai, cái thủng mũi, cái lẹm môi, trật ra với mấy chục con chuột chạy biến đi.
- Bố mày nghỉ chân thôi chứ!
Người bố không đáp ngay, y để người mẹ già nhắc lại mới cất tiếng:
- Thôi đi cố một quãng nữa rồi nghỉ một thể, chứ cứ nghỉ luôn thế này nhỡ có tầu mà không kịp lại ân hận.
- Tầu! Chắc gì nó có màn ở bến Tân Đệ không? Như tao thì tao cứ thủng thỉnh đi chẳng cần tàu bè gì cả. Đây lên Hà Nội hai ngày đường là cùng. Vừa đỡ được ít ra cũng bốn năm đồng bạc, vừa khỏi chen chúc, khổ sở. Mấy lại mày không nghe người ta nói đấy chứ, dạo này tàu bè nó chả màn bến lẻ nào hết. Lắm bến, người làm họ còn lấy cả xẻng đương xúc than đẩy khách lên tàu xuống sông, vì tầu đã chở quá nặng và chỉ chở những thứ hạng nhiều tiền thôi.
Người bố lại im lặng. Y hổn hển bước, mặc người mẹ già đi lẽo đẽo đằng sau nói. Mặt y, tai y, tất cả tâm tư y lại bị cuốn trong những đám người lũ lụt ở hai bên đường mà gió vù vù càng thổi tơi bời những manh quần, áo, chăn chiếu dum dúm quấn quýt lấy người họ.
Chợt người bố dừng lại. Nhưng không phải y nghỉ mà lại nghển cổ nhòm một đám đông ở dọc đường.
- Khiếp! Bố mày cứ như trẻ con ấy. Nghỉ thì không nghỉ mà cứ gặp cái gì cũng xem. Xem cái gì mà xem luôn thế?
Đưa mắt nhìn thấy được đó là một người đàn bà đầu tóc rũ rượi, nằm sõng sượt, người mẹ già liền bảo con:
- Lại người chết đấy mà. Đi đường bây giờ gặp đám chết nào cũng đứng lại xem thì mấy năm cũng không hết. Kia kìa... những hố nhớn hố bé cứ đào suốt hai bên đường vậy mà bố mày còn lấy làm lạ, xem với chả xem...!
Nhưng chưa dứt tiếng, người mẹ già cũng phải nghển ngay cổ để nhìn cho rõ. Cái gì thế? Cái gì mà lạ đến thế kia? Vẫn người chết, nhưng là người chết nằm ưỡn ngực lên. Ngực đã khô cứng đen cóc đen cáy. Ở cái đầu vú to thây lẩy một đứa bé vẫn cứ rúc vào bú, miệng nó nhay nhay, một tay nó luồn vào nách, một tay nó vân vê cái bên vú lép hơn. Cái núm thịt chết khô căng lên ấy, đã được đứa bé tưởng là còn sữa, đầy sữa, như người mẹ đã lại được no, nên đứa bé lại cố nún ụt à ụt ịt một cách hăm hở và lại vân vê một cách sung sướng như thế.
Tất cả mọi người đều đờ đẫn nhìn ba mẹ con nhà nọ. Có mấy người đàn bà rơm rớm nước mắt. Nhưng rồi cũng bỏ đi. Người mẹ già vội quay ra kéo tay con:
- Thôi!... Bận sau thì đừng có xem nữa. Cứ xem làm gì mãi thế!
Người bố nuốt ừng ực mấy tiếng trong họng, quay trở gánh con ra. Y không nhìn lại hai bên đường nữa, mà trông hút về một phía xa. Mắt y mờ dần... Cảnh vật cũng dần dần xám đen lại...
⚝ ❖ ⚝
- Kìa! Sao thế hả bố mày?
Người mẹ già quay lại nhìn con trai ngồi sau cái gánh, gục mặt xuống gối sụt sịt. Bà cụ chớp chớp mắt:
- Bố mày khóc đấy à? Việc gì mà khóc!
Hai vai gầy của người con trai càng giật mạnh lên với những tiếng hừng hực. Y vắt mũi sùn sụt. Người mẹ già lại năn nỉ:
- Làm sao mà khóc? Việc gì mà khóc!
Mãi người con trai mới nức nở ra nhời:
- Đi, giời đất bây giờ thì còn làm ăn được gì nữa mà đi. Đấy... đi đấy... đi khốn cực, chết vạ chết vật như thế đấy... đi...
- Thì mình phải cứ như ở mình chứ. Có người chết cũng còn có người sống. Còn người thì phải còn ta.
- Nhưng bao nhiêu đời ông đời cha mẹ có đi như vậy đâu. Cho đến đời mình cũng chỉ chân lấm tay bùn ở nhà quê, bây giờ bỏ làng ra đi mãi đâu đâu thế này thì biết làm gì để sống một nhà hàng năm miệng ăn?
Mắt người mẹ già cũng long lanh:
- Nhưng còn ở quê quán sao được nữa? Đến đằng anh Bài có cái nhà gỗ lim cũng phải bán rồi, đằng cụ Thiện thóc giống cũng dỡ ra ăn nốt. Rồi đằng cụ Tư đem ra chợ bán cả hoành phi câu đối mà người ở tỉnh về họ cũng chẳng thèm mua. Như thế cái túp nhà mình ở, cái miếng đất tận cùng tịt cuối xóm lại cạnh bãi tha ma ai chết cũng vùi ngay đấy, thì còn trông mong gì. Ở tổng bên làng Chanh ấy, nhà nào cũng mấy cái khung cửi chạy rầm rập suốt ngày suốt đêm, ai nấy cũng quần nái, yếm lụa, đường gạch san sát mà cũng người chết người đi vắng hẳn, trong làng xơ xác bỏ hoang, vậy hỏi làng mình toàn những người làm thuê làm mướn, ruộng bãi cầm bán hết, một thước đất cấy cầy không còn, thì ở lại làm sao được? Tao chỉ nghĩ đến cụ Xã già cố ra ngồi bên cạnh con mẹ Thương, rồi ông con cùng chết ngoài bờ ao, là tao không còn tâm trí nào rốn lại được nữa. Thế là cả cái chi họ Nguyễn nhà này, người bỏ đi, người chết chỉ còn độc bố mày. Cái đận này lặn lội ra tỉnh, tao chẳng dám mong no đủ, mà chỉ cầu sao giữ lấy được thằng cu cho nó hương khói rồi dù có sao tao cũng...
Người mẹ tắc lại. Những tiếng run run, nghẹn ngào thành hẳn những tiếng nức nở. Đến lượt người con giai nhìn mẹ. Y thần mặt ra lúc lâu rồi thều thào lắc đầu:
- Nhưng khó khăn lắm mẹ ạ. Mẹ không xem suốt dọc đường chỉ những người đi và toàn những cảnh vừa rồi đấy. Giờ thì đâu đâu cũng thế thôi, chả đâu còn có công ăn việc làm cả, chả ai còn thể thương xót và cưu mang được ai hết!...
- Đã có giời! Không ai cưu mang được ai nữa thì đã có giời. Chả nhẽ giời lại đoản hết cả mọi người? Bố mày với tao còn nhúc nhắc được thì vẫn còn có thể trông mong qua khỏi cái đận này. Có việc thì bố mày với tao cùng làm. Ít việc quá thì mình bố mày làm tao ở nhà đi nhặt nhạnh cái rau cái cỏ. Nếu khó khăn khốn cực quá thì cả tao và bố mày cùng ăn xin, xin được ai là người hiền từ nhân đức cho một hột cơm hột cháo nào thì để cả mà nuôi lấy thằng cu, và cái gái nhớn cái gái bé. Giờ đã ngoài đôi mươi tháng giêng, mà cuối tháng ba sang tháng tư thì có thóc chiêm. Giời để cho sống qua mấy tháng nữa là không việc gì nữa. Phải! Không lo nữa, có thóc chiêm, hơn hai tháng nữa có thóc chiêm... Có thóc chiêm...!
Đến kỳ "thóc chiêm", những cánh đồng xanh rì kia sẽ vàng rực. Những bông lúa trĩu hạt. Những lưỡi liềm cắt xoàn xoạt. Những gánh lúa kẽo kẹt. Những tiếng đập thình thịch. Những tiếng cối xay ù ù. Và lại những tiếng cười.. tiếng nói...
Người mẹ già hổn hển:
- Làm người thì không được ngã lòng, còn sống ông lão, tao không thấy bao giờ ông ấy hé răng kêu ca nửa lời. Tao thường kể chuyện với bố mày năm vỡ đê Đồng Dụ, tao đương có mang bố mày, còn con mẹ Trương mới lên sáu, cả nhà chỉ biết trông vào ông ấy thì ông ấy lại ốm. Nửa đêm ông ấy đương sốt, thế mà vừa động trống ngũ liên, tao ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy mất ông ấy rồi. Giời tối như mực, như trút nước xuống, gió thổi bay cả người, ông ấy chẳng nón áo gì cứ thế ra đê. Chẳng phải mình ông ấy mà cả làng đều thế, già, trẻ, nhớn bé vuốt mặt không kịp, cứ nước dâng đến đâu, thì đắp đất cao đến đấy. Thật là đánh vật nhau với nước, tranh nhau mà làm, thế mà quan huyện, chánh tổng vẫn còn hò hét đánh đập. Nhưng rồi nước cũng tràn vào. Chớp mắt đã ngập băng cả mọi nhà cửa. Ông ấy bơi ngay về nhà ghép giường phản cho mẹ con ngồi với cả con vện. Nhà có hũ ngô, ông ấy nhường cả, đoạn lại vớ cây chuối bơi ra đình. Trận lụt ấy hơn hai tháng mà chưa rút hết nước, thóc gạo cũng kém, nhiều nơi cũng đói, cũng phải bồng bế dắt díu nhau bỏ quê quán đi tha hương cầu thực...
Những giọt nước mát giàn hẳn ra ròng ròng xuống gò má. Người mẹ già lấy dải yếm chấm chấm đoạn cổ giữ lại giọng:
- Vừa lụt xong ông ấy làm lại nhà ngay, rồi lại xin với cụ Bá nhận non mẫu ruộng và cấy chia. Bao nhiêu công của lại đổ ra đồng, ngờ đâu nước rút thì đến hạn hán, ông ấy phải từ mờ sáng đến nửa đêm rạc cả người tát nước mà cũng không vớt vát được. Lại đói kém. Lần này thật không còn thể đào bới cái gì ăn được nữa. Nhưng không hiểu sao năm ấy cũng mất hết cả thóc lúa, cũng phải bán ruộng, bán đất, bán nhà, nhưng mà không thấy khó khăn kinh khiếp như bây giờ! Không thấy chết nhiều quá! Nhưng giờ thì ai cũng sạch sành sanh, thức gì cũng đắt như vàng, rõ sẵn đấy mà không thể mua được. Người chết không còn thể đếm được là bao nhiêu... Chết hơn cả Quan ôn dịch tễ bắt đi. Chết!!...
Người con trai như thiếp đi trong những tiếng nói của người mẹ. Khổ mặt hốc hác của bà cụ càng nhợt nhạt, và hai con mắt kèm nhèm càng lõm sâu xuống như mất hẳn vì nhòa nước. Thằng bé gầy nhom ôm trong lòng bà cụ được ngồi lâu đã lại ngủ. Trông hai thân hình nọ dán vào nhau như là một người có hai đầu, hai mặt và hai cặp mắt vậy. Chợt người mẹ già choàng ngước mắt lên:
- Bố nó này... mày có thấy đôi chỗ lúa đã tốt rồi không? Và ở mấy chỗ bãi dâu đòi được về không phải giồng đay mà được giồng ngô, thì có cây bắp đã nhu nhú. Năm nay như thế chắc chỉ đến tháng tư là cũng nhiều nơi được gặt. Vậy tao tính chỉ cuối tháng ba là về thôi. Nguyên gặt cho đồng làng cũng phải sang tháng năm, rồi hết tháng năm có được cao công mẹ con hãy đi làm, không lại nói với ông quản lý xin cái đám ruộng của cụ Tuần ấy mà cấy chia. Xin cái mẫu ruộng hai bố con mày bán năm lụt ấy mà cấy. Ngay vụ chiêm này tao với bố mày có cũng chỉ nên ăn một bữa thôi, rồi đến tháng chín, tháng mười phải giồng ngay khoai và phải gieo thêm su hào bắp cải đằng vườn mẹ Trương nữa... Thôi, chỉ còn phải đói mấy tháng nữa, giời để qua khỏi là lại được no, phải, lại được no, bố nó ạ.
Người con trai loạng choạng đứng lên. Người mẹ già chống đầu gối đứng dậy theo, vừa xốc thằng cháu cho nó cưỡi thật chắc trên lưng... Những bước chân ê ẩm lại lê đi trong những đám người lũ lượt, trần truồng, tả tơi, run rẩy. Trên đầu họ, trước mặt họ, trời mây càng xám đặc, gió càng lồng lộng hun hút.
1945