Tàu Đêm
Thóc gạo gì lại cứ một ngày một giá thế này? Gạo xấu trước kia chỉ bốn đồng một tạ là cùng thế mà trong vùng này tháng này lên mười lăm đồng rồi ba mươi đồng rồi tám mươi đồng, đến một trăm thì đã ghê sợ quá. Sau lại tăng hẳn lên hai trăm, ba trăm, rồi cũng tưởng không còn thể cao được nữa, thế mà giờ lên sáu trăm, bảy trăm, tám trăm và không khéo lên một nghìn hay hơn một nghìn cũng không biết chừng. Vậy thóc gạo đi đâu? Còn lên đến thế nào nữa?... Cứ kém đói như thế này rồi đến chết hết mất sao?
Chỗ gần buồng máy lửa cháy rực và ầm ầm ì ì càng đông người thêm. Trên dòng sông, gió thổi như bão và sương tỏa mờ mịt. Đêm khuya tháng tư lạnh không kém gì mùa rét. Đây là người thứ tư rồi mà câu chuyện và cái đói vẫn không bớt phần sôi nổi, trái lại càng gay gắt hơn, mê mải hơn. Người đàn bà ấy kể:
- Cái con ấy tên là cái Tý, năm nay nó độ mười bảy hay mười tám tuổi. Không hiểu bố mẹ nó và quê quán nó ở đâu! Nó đến làm cho bà Cả ở xóm tôi được ba bốn năm thì bà Cả mất. Nó sang làm cho bà Ký. Sau bà Ký dọn lên phố, nay nhà này mai nhà khác, hễ nhà nào có việc là nó làm, không thì nó đi chợ cất lại rau bán ở đầu làng. Sang tháng hai năm nay cả xóm chỉ còn nhà con mẹ Nghị Huy là còn thóc. Trong nhà nghị Huy ruộng tư hàng năm chục mẫu mà nó còn chiếm cả hai chục mẫu ruộng công để cấy nữa. Nhà nó thuê đúng hai chục người làm rồi mà vẫn còn thiếu. Tuy nhà thóc lúa từng kho chật vậy mà khi con mẹ Nghị Huy mượn được cái Tý thì nó giao hẹn ngay với cái Tý rằng ngày chỉ nuôi có hai bát cơm bữa sáng, và một bát cháo bữa chiều, và nếu chẳng may phải hôm mưa gió chỉ có một bát cơm hay bát cháo thôi thì cũng phải chịu. Cái Tý không những nhận nhời ngay mà còn cam đoan ở với con mẹ Nghị Huy mãi mãi, và muốn bắt làm việc gì hay cho ăn thế nào cũng được.
Nào sáng tinh sương đã phải dậy đi vơ bèo, nào lên phố ngày hai buổi để xin nước gạo, nào quét tước dọn dẹp sân sướng, nhà cửa, thổi nấu cơm nước và rỗi thì bế em, thấy cái Tý nó làm mà tôi thương hại. Vì thật nó làm bằng năm người khỏe mà ăn thật không bằng con chó nhà con mẹ nọ. Thế mà đến cuối tháng ba nó cũng lại "thất nghiệp". Hai con lợn sề của con mẹ Huy không hiểu sao bỗng lăn cổ ra chết. Con mẹ Nghị Huy bảo chỉ tại cái Tý ăn cả cám lợn của lợn nó. Nó đánh cái Tý liền mấy trận. Cái Tý khóc sưng cả mắt, đành phải trốn đi. Nó vơ vất gánh thuê ở các chợ rồi cũng ốm. Lúc gượng dậy nó đành phải đi ăn mày.
Bẵng đi mấy hôm tôi không thấy nó và tôi cũng quên đi. Bỗng một hôm đi chợ về, tôi qua cái đám cúc tần ở mé đường sau làng thì tôi giật mình, thấy lạ quá, sao có một con bé giống nó thế. Sau tôi nhìn kỹ nó, nghe nó cất tiếng chào thì tôi lại càng ngạc nhiên hơn. Vẫn cái Tý đấy! Nhưng nó lại chỉ bằng nửa cái dạo nó mới ốm dậy. Mặt nó quắt lại, mắt trố ra, cổ ngẳng, chân tay lèo khèo như chiếc củi rào, cả người đen sạm và chỉ có một miếng vải bằng bàn tay che... Tôi nhìn kỹ thêm thì thấy nó tuy rạc đi như thế nhưng vẫn không ghẻ lở, mặt mày vẫn tỉnh táo lắm. Nó bảo tôi rằng nó ở trên phố về. Nó cố lê về đây vì trên ấy người ta đuổi, và cũng chẳng xin gì được nữa, đã thế lại còn rất ghê sợ cái tụi đàn ông, cũng ăn mày nhưng còn khỏe. Tôi đã mua cho nó chiếc bánh đúc hai hào và tìm cho nó chiếc nón rách.
Lại bẵng đi hơn một tuần lễ, tôi không thấy nó. Khi tôi được nghe nói thì mới biết nó vừa mới chết. Cái bà cho tôi biết tin nó chết còn kể thêm cho tôi nghe cái lúc nó chết như thế này:
Buổi chiều hôm ấy những người phu rác kéo xe bò nhặt những xác chết thì thấy nó nằm ở bờ cỏ đằng mé đầm thả sen chỗ mát mẻ sạch sẽ nhất. Một người đã toan thòng dây thừng vào cổ nó lôi đi, thì nó mở mắt ra rên rỉ nói: "Con lạy các ông, con chưa chết đâu!... Con xin các ông làm phúc để con nằm đây đến sáng mai thôi".
Một người khác chạy đến thoạt nghe nó nói đã phải phì cười nhưng sau nghiêm ngay nét mặt và quát lên:
"Còn vẽ, mai với thuổng gì nữa? Thôi để người ta chôn một thể cho tiện việc, đàng nào chả chết!"
Cái Tý liền cố ngóc hẳn đầu lên:
"Không! Con lạy các ông làm phúc để con nằm đây chỉ đến sáng mai thôi, con lạy các ông!"
Nó đã chắp hai tay lạy hẳn hoi. Mấy người phu rác đã xẻng cuốc quay đi chỗ người khác nằm, nhưng thằng cai chủ nhà thầu cứ thét lôi cổ Tý đi chôn, bảo lệnh trên truyền không được để một ai đói nằm chết bẩn thành phố cả!
Thế là người phu rác cầm thòng lọng tròng thừng vào cổ cái Tý lôi xềnh xệch nó xuống hố.
- Thế thì khiếp quá! Giời đất thiên địa ơi!... Kinh khiếp quá!...
Những người nghe kể chuyện đều kêu lên. Sự bàn tán ồn ào lại được một dịp nữa ran đi suốt mé tàu này sang mé tàu khác. Một người đàn bà khác lại tiếp ngay nhời:
- Kể thế thì cũng khiếp nhưng vẫn chưa bằng chuyện "cái nồi luộc" và "thằng quỷ lồi mắt" ở vùng tôi.
- "Cái nồi luộc"! "Cái nồi luộc" là cái gì? Và lại còn "thằng quỷ lồi" mắt nữa?...
- Ấy một cậu em tôi học trên Hà Nội, về thấy cái cảnh đói chết nọ thì đặt cho mấy cái tên như vậy, rồi tôi cũng cứ thế gọi quen mồm đi.
Người đàn bà thứ năm nọ cũng lại nhấp giọng bằng một miếng giầu rồi kể:
"Vùng tôi vốn chỉ trông vào cái khung cửi nên lúc trước sợi khan đã đói rồi sau đây vừa mua sợi không được, vừa làm không thể nào kịp với giá thóc gạo, thì lại càng đói, đói quá, đói đến nỗi không nhà nào không có người chết, và, ai còn sống thì chỉ còn có hai lỗ mắt. Đói bán hết cả mọi cái... Trong làng chỉ còn nhà hoang và người nằm hấp hối... Đói, sau đến nỗi cậy cả đất vách ra ăn vì nhà dỡ ra bán không ai mua. Đói, lắm kẻ bòn vét các thứ, cố lê ra tận chợ huyện bán được đồng bạc, mua được mấy lẻ ngô sống ăn và uống nước đoạn thì chết ngay ở chợ. Lại còn có kẻ cũng nhặt nhạnh bòn vét bán được hơn đồng bạc, lúc về cứ cầm đồng bạc ấy ngẩn ngơ cho đến chiều đoạn lả đi chết ở cổng làng.
Sang cái tháng ba, thì trừ mấy nhà lão chánh tổng, lão Nghị viên cày cấy nhiều nhất làng, còn thì chẳng thấy chỗ nào có khói lửa và tiếng nói, tiếng gọi gì hết. Những kẻ làm thuê làm mướn vừa phần chẳng có công ăn việc làm gì, vừa phần đâm ra tê liệt phù sũng cả, nên bỏ con cái chết gần hết. Thấy vậy, mấy nhà bà cụ Giáo, ông cụ Tú và bà cụ Lang gần chợ chung nhau bỏ ra mỗi phiên một vài bơ gạo và nói với làng không lấy thuế chợ mà quyên các hàng, hàng thì vài lẻ ngô, hàng lẻ cám, một lẻ gạo, một nắm cơm để phát cho những kẻ con mọn. Ai muốn lĩnh cơm thì lĩnh, ai muốn để con ở đến chiều về nhận cũng được. Gửi con ở đây đến chiều thì con vừa được nắm cơm ăn mà mình thì được rảnh tay mà kiếm cái cua cái ốc, hay khỏe thì đi gồng gánh thuê.
Phiên đầu có ngay hàng hai chục người gửi con. Phiên sau tăng lên năm chục. Phiên sau nữa hơn trăm. Được ba phiên là chu đáo rồi sau không ai còn hơi sức dỗ dành, dọn cứt đái và cho ăn, cho uống, chăm nom bằng ấy đứa trẻ được nữa. Về cuối tháng ba thì đến cả mấy nhà đứng ra quyên và cho gạo, cho tiền cũng đói nốt. Đã thế trẻ gửi lại càng đông nên người ta đành phải bỏ mặc. Rồi trong mấy quán chợ, ăn mày nằm chết ngổn ngang, người ta phải làm như là một cái chuồng, không phên, không lá che gì cả, chung quanh cửa đóng gióng tre, dựng ở dưới gốc gạo cạnh bờ ao cuối chợ, để quây chung những đứa trẻ cho tiện việc trông coi.
Trong chuồng hơn trăm đứa bé cứ trần truồng lồm ngồm như những con chuột đỏ hỏn. Sáng còn khá, mười giờ giở đi nắng chói chang, hơi bùn ao ngùn ngụt xông lên như nước sôi, người ta cũng đành mặc. Được miếng cơm lúc tám giờ, đứa nào no thì thôi, còn đứa nào đói thì có cái chậu đựng mươi bát cơm ở giữa chuồng ấy, bò bò lần lần đến lấy mà ăn. Cơm dính bết ở cạnh chậu, cơm vương vãi ra đất, cơm lẫn cả với cứt đái nữa. Còn khát, cũng có một cái chậu đựng nước ở giữa chuồng mà chúng nó vầy vò đục ngầu lên uống với nhau.
Sang cái tháng tư này, cảnh chuồng nuôi những đứa bé lại càng gớm quá! Đứa thì dái sưng đỏ mọng lên, nằm còng queo; đứa thì ngồi rũ ra, mắt díp lại; đứa thì khóc nheo nheo không ra hơi bên cạnh đứa đã cứng đờ, cứt đái dề dề ở đít; đứa thì hễ đứng lên lại ngã dúi xuống, mặt mũi càng tím bầm mà mắt vẫn lờ ngờ không khóc khiếc gì cả. Ruồi nhặng bâu đen ngòm lấy chúng nó, thỉnh thoảng lại rào rào bay lên vì có đứa quờ quạng bò đi chỗ khác. Những đứa này leo cả lên đứa chết, dính bết cứt đái vào người, đưa cả tay vào mặt vào miệng đứa chết mà quệt mà hít. Lại có lắm đứa đói sữa quá, bị nắng quá, trông thấy ai đi chợ cũng tưởng là mẹ, lêu nghêu cố lách ra ngoài, khiến người ta lại phải lôi vào.
Phiên nào ít cũng bốn năm đứa bé chết. Phiên gần đây thì hàng chục. Có cái thằng lồi một mắt trước kia là tay chân của nhà chánh tổng chuyên làm khách nợ cho nhà lão Nghị nhận trông nom thì vừa đói rượu, vừa lười, nó cứ để đến chiều mới nhặt những xác chết đem chôn một thể. Nó xách chân từng đứa bỏ vào cái xe bò như những con mèo chết ấy. Một hôm giời đương nắng chang chang bỗng nổi cơn nổi trận, mưa như trút nước xuống, thành thử những đứa bé cứ ngoi ngóp bùn nước ngập ngụa trong chuồng. Thằng Lồi mắt vừa nhặt xong mười mấy cái xác chết nên không kịp chôn. Sau trận mưa thấy mấy đứa nữa chết, nó nghiến răng chửi váng cả giời đất lên, rồi nó xách chân những đứa bé đứng ngay trong chuồng mà ném bình bịch vào xe. Không biết hôm ấy nó có đào lỗ không, hay chỉ vùi ở cái hố rác, mà sáng hôm sau người ta thấy có đứa trôi ra đường, không hiểu vì nước mưa chảy giạt đi, hay đứa bé ấy cũng như cái Tý bà nọ vừa kể, hãy còn sống nên cố ngoi ra".
- Ở quê bà hở? Vùng nào thế hở bà?
- Giời đất thiên địa! Lại còn đến thế nữa cơ à?
Những tiếng người đương hỏi nhao nhao ở một phía thì cả tàu bỗng ầm ầm lên, xô đẩy nhau rối loạn:
- Có người bỏ con xuống sông!... Có người bỏ con xuống sông!
Nghe được rõ tin này tất cả hành khách đương bàng hoàng tỉnh hẳn người lại như cất được gánh nặng. Họ đã tưởng có tàu bay đuổi mà cái tàu họ đương đi này tuần lễ trước đã bị bắn sạt nóc, hành khách suýt chết hết nếu tàu không chạy gần một bờ sông cạn và lái nhanh được vào bờ. Nhưng thoát khỏi sự hãi hùng bị bom đạn tàn sát, người ta lại càng ồn ào hơn. Không chỉ xô đẩy nhau thôi, người ta còn xéo bừa qua cả đầu nhau để được nhìn xem cái người đàn bà nọ sao mà có thể nhẫn tâm như thế được?
Tiếng hỏi gọi, tiếng trả lời, tiếng kêu ai ái, tiếng chửi rủa và cả tiếng khóc thét của trẻ con nữa dồn đến tối ngòm cả lại một góc tầu.
- Làm sao có người lại đang tâm bỏ chết con họ như thế?
- Nó người như thế nào nhỉ?
- Trói nó lại cho mại bản khi đến bến điệu nó lên "bóp" thôi!
Những người nói chẳng còn thể nghe ra ai với ai. Và chỉ có những người đi buôn gạo, đi mua rẻ đồ đạc ở các vùng quê và mấy đám nhà giầu ra tỉnh chơi quần lành, áo tốt, vàng bạc đầy người là làm ầm ĩ lên thôi. Còn số đông những người cũng ra tỉnh nhưng để trốn đói và những mong có công ăn việc làm, bọn năm người, bọn mười người, khư khư ôm giữ con cái bên những gồng gánh lủng củng chồng chất lên nhau, thì họ chỉ nghển lên trông và vẫn chẳng nói chẳng rằng gì hết.
Thoáng phút, chung quanh một người đàn bà rách rưới, mặc váy, ngồi sụp xuống sàn và gục mặt vào lòng, những kẻ xúm đến can thiệp đã chi chít như kiến. Kẻ chửi, kẻ mắng, kẻ trách, kẻ chặc lưỡi, kẻ thở dài, kẻ bàn tán... không biết bao nhiêu giọng, bao nhiêu nhời dội tới tấp lên cái đầu bù xù và cái mặt cúi gằm xuống nọ.
- Đói thì đói chứ sao lại khốn nạn đến như thế?
- Ở nhà quê không làm gì được, đã cố công bế con ra đến đây thì cố giữ lấy nó mà đi xin nuôi nó chứ sao?
- Hay muốn rảnh rang nữa thì cho nó vào nhà bà Sờ xem ai hiếm hoi thì để người ta nuôi có được không?
- Ôi dào cái hạng mụ này thì chỉ biết có lúc no ăn ấm cật... ấy thôi mà. Giá có bế con đi ăn mày thì có ai cho con thứ gì mẹ cũng lại tọng hết vào miệng mẹ, rồi chỉ khổ đứa bé bêu nắng, bêu mưa.
- Giời đây!... Giời đày cả đấy! Sấm ông Trạng đã truyền "mười người chết bảy còn ba, ba người chết hai còn một" cơ mà. Chuyến này thi phúc, thi phận cả đấy!
Có kẻ lấy chân đá đá vào người mẹ nọ mà vẫn không làm được y nhúc nhích. Không những y không cất tiếng đáp mà gần như không khóc nữa. Cái mặt gằm xuống đầu gối ấy thỉnh thoảng mới rung rung cùng hai vai gầy, áo toặc ra để hở lỗ chỗ da thịt. Chán chê rồi người ta mới chịu về chỗ, bỏ mặc người mẹ nọ ngồi rũ một mình ở xó tối. Cả cái đám đông ban nãy chuyện dở dang về cái đói cũng thôi. Sự ồn ào chỉ còn tiếng máy chạy, tiếng nước ngược bị xé ra, tiếng sóng và tiếng lầm rầm của hành khách chen vai thích cánh.
Bên ngoài đen như mực. Sương mù quấn lấy cả tầu. Làng mạc, ruộng nương, bờ bến âm âm, u u, thăm thẳm. Họa hoằn mới có vài ánh lửa leo lét. Nhiều người đã ngáy. Họ phải ngủ ngồi hay không thì phải nằm co quắp với nhau ở cả những lối đi nhớp nháp. Mặt ai nấy đều nhăn nhúm phờ phạc. Lẫn với những tiếng thở hổn hển, khò khè, rên rỉ, còn có thêm những tiếng ho sặc sụa, tiếng khóc oe oe, nheo nheo. Không khác gì cảnh các ngã tư, các bờ hè, các cổng chợ, các bến ôtô và ga tầu hỏa của cảnh đói đương diễn ra ở các thành phố. Đây ban đêm ánh đèn cũng đục lầm và trên mặt đất người sống và xác chết cùng rũ ra, ngổn ngang, không chăn không chiếu. Những sắc mặt cũng đen sạm, những con mắt cũng vàng lờ sâu hoắm. Già trẻ, đàn ông, đàn bà cũng khó mà phân biệt nếu không có những mái tóc, những ngực và những khoản dưới phơi ra. Một mùi hôi thối nồng nặc cũng ngụt lên với sự ồn ào. Và ở xó xỉnh nào cũng chỉ thấy nói những chuyện gạo, chuyện ăn, chuyện thu thóc, chuyện giồng đay, phá lúa, chuyện bom đạn, chuyện chết chóc, chuyện bắt bớ, tra tấn tù đày bắn giết...
- Đến bao giờ mới hết chiến tranh?... Đến bao giờ người ta mới có cơm ăn việc làm no đủ?... Đến bao giờ dân Việt Nam mới cất đầu mở mặt?
Những câu hỏi trên đây cũng lại thấy thốt lên như đã thốt lên trong mọi đám đông, từ tờ mờ sáng cho tới đêm khuya, khi mà người ta mệt lịm đi, ở các ngả đường, các hang cùng ngõ hẻm.
Bỗng những tiếng kêu rú lên. Cả tầu lại một lần nữa bị chuyển động ầm ầm vì hành khách nhốn nháo hỏi gọi nhau.
- Người đàn bà bỏ con nhảy xuống sông tự vẫn theo con rồi!... Người đàn bà nhảy xuống sông tự vẫn theo con rồi!...
Lần này có thêm rất nhiều người xô cả về một mạn tàu. Nhưng dưới vùng trời đen kịt, người ta chỉ thấy dòng nước như mực chảy ì ì, luôn luôn réo lên trước mũi con tầu đầy lèn người và hàng hóa, - những người, trong số đó chín phần mười là dân quê cùng khổ lũ lượt nối tiếp nhau bỏ đồng ruộng bị bão gió tàn phá, bị vơ vét thóc lúa, bị sưu cao thuế nặng, bị cướp nhà cướp ruộng, họ dắt díu, bồng bế vợ con ra các thành thị, tha lôi những gồng gánh, chổi cùn rế rách, nồi đất bát đàn, quần tã áo mướp, những đồ vật không còn thể sao đổi lấy được vài lẻ gạo, những đồ vật cuối cùng của cả một đời sống bằng hai bàn tay trắng và mồ hôi... họ ra đi bán mình cho bất cứ công việc gì... với bất cứ giá nào để sống...
1945