Bà Cụ Việt
Tên chánh hội đã trèo lên cái bàn giữa sân, mặt bừng bừng, hồn hà hổn hển, xua tay nói:
- Không được! Không thể được! Nếu như thế thì cả làng này đến tan nát hết thôi. Các cụ các ông các bà không nhớ năm nào họ đưa tầu bay bỏ bom triệt hạ bao nhiêu làng ở Hải Dương, Kiến An, Nghệ An, Hà Tĩnh đấy như. Rồi hàng năm cứ đến ngày ấy, mật thám Hà Nội, lính khố xanh tỉnh, lại về khám xét, bắt bớ, chẳng còn ai làm ăn gì được. Chỉ những lo là lo. Lo đêm lo ngày... tra tấn, tù đày, mất nhà, mất người, mất của...
Hẳn định nói nhiều nữa, sau lý trưởng cất tiếng hắn mới ngừng lại, nhưng vẫn bồn chồn cuống quít khi lý trưởng nói:
- Đói! Vâng, cái đói ai mà không lo. Của mồ hôi nước mắt bị sa sẩy ai mà không xót. Nhưng càng lo, càng sót, càng phải nghĩ xa hơn, tính sự chắc chắn hơn. Dân đói, làng sẽ mở những cuộc lạc quyên, sẽ xin tiền cứu tế mà chính quan huyện đã hiểu dụ hứa cho dân. Rồi ngay các vị chức sắc trong làng đây, chính tôi đây nữa, làng có thiếu thốn đói túng quá, chúng tôi xin đem đầu đi lạy các cụ tiên, cụ phủ, cụ đốc vay thóc cho làng. Có khó khăn cũng chỉ mấy tháng nữa. Giời cho phong đăng hòa cốc, mạnh chân khoẻ tay thì chả mấy vụ mình lại gỡ ngay đấy mà. Tôi, tôi thật không dám ngăn cản gì mà chỉ xin thiển nghĩ như thế. Vậy mình cố chịu đói kém ít lâu rồi lại bình yên vui vẻ có phải hơn không?
Đến đây cái khổ mặt bì bì, môi dầy thâm xịt của tên lý trưởng quay về phía đám đông trong đó có bà cụ Việt khom người trên cái gậy tre nhỏ:
- Thưa cụ Giáo, tôi xin thưa thêm vài nhời với cụ. Kể như cụ hô hào dân làng giữ lấy thóc rất phải, nhưng xin cụ hãy bình tâm nghĩ lại một chút. Riêng về phần cụ, làng cảm cái tình nhà ta, hết anh Giáo Việt đến cậu Huy bị tù, bị đày, nên làng vụ này miễn đong số thóc ruộng cụ. Rồi ra làng còn định cấp thêm cụ thửa ruộng năm sào chân đám mạ ngay cạnh ruộng nhà để chị Giáo cấy thêm. Cả dân nữa, ai cũng túng quá, làng cũng lấy ruộng cho thêm. Thưa cụ, trên là với cụ, dưới là với dân làng, làng xử đối như thế, vậy cụ và dân nên biết mà nghĩ cho trong cái lúc khó khăn hiểm nghèo này. Bạo động thì rất dễ. Nhưng sau rồi lại bị thất bại, bị trừng phạt thì không còn thể nào vớt vát được tí gì! Lại về phần cụ, tôi xin thêm một điều nữa là tình thế này chỉ vài bốn tháng nữa là cùng, anh Giáo và cậu Huy thế nào cũng được tha về. Trên tỉnh đã tư giấy hỏi hạnh kiểm. Tôi đã ký nhận bảo đảm. Như vậy mà giờ cụ lại nghe theo những người ở đâu đâu mà cầm đầu những việc quá bạo này thì thật e ngại quá cho anh Giáo, cho cậu Huy...
Đấy, trên là cụ tiên có mặt ở đây, sau là các cụ, các ông các bà toàn dân, xin nghĩ cho mấy nhời tôi thưa như thế đấy.
Lại ồn ào. Sự ồn ào ở hai đám. Đám trong đình với bọn kỳ dịch, chức sắc, ruộng nhiều. Đám ngoài sân với dân làng đói khổ và giai tráng. Những cặp mắt lấp lánh của những vòng người ngoài sân càng dồn vào người mẹ già nọ. Từ nãy đến giờ cái giọng run run nhưng rành rọt ấy vẫn chưa cất lên, trái với mọi lần, những khi đối đáp thì nó bắt lấy ngay nhời kẻ địch, đáp lại như những nhát búa rèn trên đe, như những lưỡi dao gọt vào gỗ vậy.
Bà cụ Việt đã đi ra. Bà cụ chống gậy tiến thêm mấy bước ra trước cái đám đông của nhân dân và giai tráng bao bọc chung quanh bà cụ. Nhưng bà cụ cũng chưa nói. Bà cụ chỉ ngước cặp mắt nheo nheo nhìn vào cái mặt bì bì của tên lý trưởng. Im lặng hẳn một lúc. Bà cụ nắm chắc đầu gậy chống dằn một cái xuống đất rồi cười một tiếng và nói:
- Dân làng và tôi cũng xin đa tạ lòng tốt của ông lý tới giờ đã chịu nghĩ đến dân làng và tôi. Như lời ông lý khuyên dân cố chịu đói, chịu khổ, chịu bóc lột thì không phải giờ làng mới nghe mà đã nghe nhà nước bảo hộ và các quan các cụ khuyên hàng mấy mươi đời nay rồi. Chả cứ phải lúc chiến tranh nhà nước mới lo nhiều việc, chi nhiều khoản, mà dân mới như thế này. Ngay lúc trước, thời bình, gạo tám thơm bốn đồng một tạ, diêm bảy xu một chục bao, muối một xu ăn hàng tháng, thì dân làng cũng chỉ được ăn gạo hẩm, độn ngô, độn khoai, tháng ba ngày tám thì ăn cháo, ăn rau má. Còn thuế lúc đó không phải một đồng năm hào như bây giờ mà những hai đồng năm hào. Dệt được vài chục vuông vải đi chợ bán cũng thuế. Bắt được giỏ cua ra tỉnh bán được vài ba xu thì mất một xu thuế. Nuôi được con gà, bòn nhặt được rổ chè, chục na, mấy nải chuối ra bán, thì hàng ba xu, bốn xu thuế. Rồi túng đói quá, cố bò ra các tỉnh Hải Phòng, Nam Định thì thuế cư trú, thuế nước, thuế đèn. Đấy...! Ngay lúc thái bình nhà nước bảo hộ dân làng cũng đã phải ăn đói mặc rét, phải đóng góp cùng kiệt rồi...
Bao nhiêu năm nay đã như thế đấy. Vậy giờ dân làng đã đến bước không còn cả gạo hẩm, ngô sắn đâu mà ăn độn, ăn đói nữa. Không còn tiền đâu mà đóng được sưu cao thuế nặng nữa. Không còn quần áo đâu mà lột ra cầm cố được nữa. Nhà nào ăn chắt để dành lắm, gặt hái trả công trả nợ xong cũng chỉ còn được năm, bảy nồi thóc. Bố mẹ vợ chồng con cái chỉ còn trông vào mỗi một chỗ thóc hai sương một nắng còn lại ấy để cầm hơi. Thế mà lại không còn được giữ lấy. Thế mà lại còn phải bán đi, không có mà bán thì bị khảo đá, cùm kẹp, tù tội. Dân phải bòn vét nốt mà bán, đến nỗi giờ mười nhà thì chín nhà không còn lấy một bát gạo. Như thế dân làng lấy gì mà ăn? Chả nhẽ lại ăn đất? Nhưng mà đất có ăn được thì cũng lại chẳng giữ được. Vì bao nhiêu đất, hết nhà nước cướp đi cho các công sứ, các nghị viên các chủ làm đồn điền làm mỏ, lại đến Nhật cướp để làm trường bay, xây pháo đài. Chả bao nhiêu ruộng bãi thóc lúa, ngô khoai sắp được ăn thì bị nhổ lên để giồng đay đấy như.
Còn bạo động để giữ lấy cho hàng trăm, hàng nghìn người, cho bố mẹ anh em, vợ chồng con cái mình được sống thì sự bạo động này phàm ai là người muốn sống, muốn không phải làm mãi mãi cái kiếp ngựa trâu, đều phải bạo động hết, dù có bị tù đày, chết chóc chăng nữa... Dân Nga không bạo động ấy à? Người Nga được sung sướng, nước Nga thành cường quốc, không vì bạo động ấy à? Nhiều dân nước khác nữa mà tôi "nữ nhân nan hoá" ít chữ nghĩa nên không biết rõ, cũng chẳng bạo động hết cuộc nọ đến cuộc kia đấy sao?
Giữ thóc đây chỉ là một việc nhất thời, để dân làng no, dân làng sống đến vụ tới. Nhưng rồi còn sang mùa khác, sang năm khác. Còn cả đời mình, đời con cháu mình. Chả nhẽ cứ chịu nô lệ đói khổ mãi sao? Chả nhẽ cứ phải chết đói đi một dạo, bỏ làng bỏ mạc đi chết vùi chết dập một dạo để rồi lại đói, lại chết sao? Đằng nào con người ta cũng chết một lần. Vậy mà chết một lần để được mãi mãi tự do sung sướng, mở mày mở mặt thì lại càng không nên sợ chết,
Không biết ông lý làng nhà xem báo chí tình hình các nước rồi xét đoán thế nào, chứ như tôi võ vẽ nghe dân gian bàn tán thì cả ông Nhật cũng là giống đi ăn cướp, mà ông Tây cũng thế. Hai quân ăn cướp ngồi cùng mâm thì không thể nào không ghen nhau ăn được đâu! Vậy cái lúc nhà bị cướp mà quân cướp chúng nó ganh nhau, đánh nhau, thì mình là chủ, anh em con cái trong nhà phải bảo nhau xông ra mà phang cho chúng nó chết để lấy lại của. Việc nhà cũng như việc làng. Việc làng cũng như việc nước. Toàn gia, toàn quốc, đâu đâu cũng bảo nhau, nghe nhau, giữ cho nhau người sống của còn là được.
Thằng giáo Việt, thằng Huy nhà tôi chúng nó không bằng dân, bằng nước được. Dân có sống, nước có sống, có tự do, sung sướng thì chúng nó mới sống, mới tự do, sung sướng, mới cất đầu, mở mặt lên được.
Quay lại, cặp mắt nheo nheo của bà cụ Việt nhíu thêm, sáng quắc lên. Giọng nói hổn hển của bà cụ dằn hẳn xuống:
- Trên Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, nhiều nơi dân theo Cách mạng, theo Việt Minh nhất định không nộp thóc thì đã giữ được thóc, nhất định quân Nhật chống quân Pháp thì đã đánh tan quân Nhật, quân Pháp. Còn ở Bắc Ninh, Hưng Yên, dân nhất định không đi phu cho Nhật, không để cho Nhật phá ruộng cướp đất, không chịu bỏ lúa trồng đay, thì Nhật phải chịu. Còn dân làng ta thì cứ chịu nộp thóc, nhịu làm nô lệ, chịu bóc lột róc xương róc thịt cho Nhật Pháp đè nén, tù đày, bắn giết hết đời mình, đến đời con cái cháu chắt mãi sao? Chúng ta phải thoát đời trâu ngựa. Chúng ta phải sống cho ra người. Chúng ta phải nổi lên mà tranh đấu. Hy sinh mà tranh đấu!...
Tiếng tranh đấu được toàn thể dân làng hô lên vang dậy. Cùng với những nắm tay, những đòn ống, đòn gánh giơ lên, những tiếng hét xé lên:
- Đả đảo giặc Pháp! Đả đảo giặc Nhật!
- Đả đảo đế quốc Pháp! Đả đảo quân phiệt Nhật!
- Không nộp thóc! Không đóng thuế! Không giồng đay! Không đi lính!
- Bắn Việt gian... Bắn hết những đứa làm tay sai cho giặc bóp cổ mổ hầu dân chúng.
-Việt Minh muôn năm...
- Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm.
Tiếng kêu, tiếng hét, tiếng gầm, vùn vụt mãi lên. Những đám người, những vòng người, những lũ người rách rưới hốc hác ấy ùa cả ra cổng làng, chỗ nhà lý trưởng chứa kho thóc. Không phải chỉ những đòn gánh mà thêm cả gậy tày, tay thước, đòn càn, liềm hái, dao phạt bờ, quang thúng, gánh gio, gánh gạch, gánh cát, gánh ngói ùn ùn chạy theo và tua tủa giơ lên. Trong những lớp lớp xô đẩy, chen lấn, vang ầm ấy có cả những người mẹ bụng chửa vượt mặt, những em nhỏ tóc để cun cút, và có cả những lưng còng những cái gậy dắt díu sờ rờ...
Bỗng... tiếng trống, tiếng tù và, tiếng còi, tiếng thanh la, tiếng thùng và tiếng kêu, tiếng hò hét ở khắp các luỹ tre, các chân đồi các làng chung quanh đấy tràn ra. Những người, chỉ có thể nhận ra đó là "những người" thôi, mà vẫn không thấy một bóng người nào trong những tiếng ầm ầm bao tỏa nọ.
Dân làng vừa ra tới cổng thì chiếc ôtô sơn xám đã ình ình trên đường cái. Theo sau ôtô, một dãy dài xe bò chất đầy thóc có lính khố xanh đeo súng đi kèm. Tên Tây đồn mặt đỏ sần ngồi nún nún cái tẩu thuốc lá to như mẩu củi gộc ở trên xe giật mình. Nó cau mặt nhìn cái đám đông khác lạ vô cùng nọ tiến đến trước xe với một cái im lặng sao mà cũng lạ lùng quá chừng.
- Gì thế? Gì thế? Phó quản?
Viên phó quản đã đoán ra rồi luống cuống tìm câu trả lời. Thấy vẻ mặt biến sắc và sự run rẩy của kẻ tuỳ tùng, tên Tây đồn đỏ gay mặt lên, quay lại:
- Đội! Hô lính đứng lại. Lưỡi lê lên đầu súng và sẵn sàng bắn... Còn phó quản xuống xem chúng nó kéo nhau định ăn mày cái gì?
Xe phì thêm một tiếng dài nữa, dừng lại. Không để ôtô đỗ hẳn, viên phó quản bước xuống theo Tây đồn hầm hầm, súng lục lăm lăm cầm tay.
- Chúng bay kéo nhau đi làm gì? Chúng bay kéo nhau đi xin gì?
Vẫn không có tiếng đáp. Không một chút nhốn nháo. Hơn ngàn cặp mắt chỉ càng quắc nữa lên. Bà cụ Việt toan bước ra trước đám đông, một bàn tay liền nắm lấy cánh tay bà cụ kéo lại:
- Cụ Giáo! Chúng con xin cụ... Cụ để anh em giai tráng chúng con...
Bà cụ Việt phải nhắm mắt lại một giây mới nhận ra được người nọ. Bà cụ cảm động:
- Anh Điền! Anh cũng ra bao giờ thế?
Đó là người thợ cày lùn đen và rỗ hoa không hiểu ở đâu đến làng này đi ở đã bốn năm năm nay. Ngày còn Huy ở nhà, Huy vẫn dấm dúi sách báo và đi nói chuyện với anh. Hơn ba tháng nay, không ai mượn, Điền chỉ quanh quẩn ở nhà bà cụ Việt và mấy nhà nữa trong xóm, có ngày chẳng có hột cơm nào, vậy mà vẫn tươi như không, đọc các báo bí mật cho mọi người nghe cho mãi đến khuya. Điền thấy bà cụ nhìn mình có vẻ suy nghĩ, anh càng thở mạnh:
- Cụ Giáo! Cụ già yếu! Xin cụ để chúng con...
Lại mấy bàn tay nữa run run nắm lấy hai cánh tay gầy tóp của người mẹ già nọ:
- Cụ Giáo! chúng con xin cụ... cụ để chúng con... anh em thanh niên chúng con...
- Sao lại thế? Tôi phải ra! Càng già yếu lúc này càng phải ra. Bảy tám mươi tuổi đầu rồi có sao tôi cũng chẳng ân hận gì vì được gánh vác cho dân làng, cho đất nước, mà để các anh em giai trẻ ở lại... còn...
Tiếng quát của viên phó quản lại rít lên. Chưa dứt tiếng, bà cụ Việt đã chống gậy lại tiến ra trước đám đông. Giọng bà cụ vẫn sang sảng:
- Dân chúng tôi không xin gì cả. Dân chúng tôi chỉ đòi lại chỗ thóc mồ hôi nước mắt của dân chúng tôi đem bán thôi... dân chúng tôi đói khổ lắm rồi...
Viên phó quản gằn tiếng:
- Bà cụ đòi là đòi cái gì? Nhà nước mua hẳn hoi của dân chứ có bắt nộp không đâu? Và nhà nước mua để bán lại cho phu phen thuyền thợ, các người nghèo, các người đói khổ, ở các thành phố chứ có lấy cho mình đâu?
Bà cụ Việt chờ hẳn tên kia ngừng lại một lát mới cất tiếng:
- Vâng, nhà nước không lấy không nhưng thóc bốn trăm tạ mà giả không được ba mươi đồng một tạ. Của mười đồng không được một đồng. Ai không bán thì bị tù, bị cắm ruộng, dỡ nhà. Đấy nhà nước mua như thế đấy!
Còn những thợ thuyền đi làm ăn ngoài thành phố thì mỗi người ăn đói cũng phải hai mươi cân một tháng, vậy mà chỉ được mỗi người chín cân, trẻ con lại không được. Và thợ thuyền cả nước có hàng mấy mươi vạn nhưng thử tính xem bao nhiêu người được mua gạo, bao nhiêu vợ con cha mẹ họ có được tiền mua gạo? Đã thế lại còn thất nghiệp, nhà máy nào cũng hạ lương, cũng đuổi thợ. Vậy thợ tiền không có, vợ con nheo nhóc, buôn bán làm ăn không ra, thì có bán rẻ gạo đấy cũng đói vẫn hoàn đói...
Như quan quản ở trong nhà binh quan biết đấy, nhiều nơi tích trữ thóc ăn không hết đến nỗi phải đổ xuống sông, phải đốt, phải chôn đi. Có nơi phải luộc, hấp gạo bảo để dự trữ nhưng rồi cũng để mục nát phải chôn lấp đi. Ấy là chưa kể thóc lấy nấu cồn cho máy bay, cho ô-tô Nhật chạy... thóc làm bột luyện than để đốt... Bao nhiêu chủ sở, bao nhiêu ty rượu, bao nhiêu ông nọ bà kia quyền thế tay chân của quan tư, quan năm Nhật tha hồ mua bán thóc gạo, lãi vàng đánh từng trăm lạng.
Chính quan quản và anh em lính tráng cũng mang tiếng được thóc gạo no đủ. Nhưng thật có được no đủ đâu! Anh em, họ hàng làng mạc và cả bố mẹ vợ con ở nhà quê cũng phải ăn đói, ăn nhạt, chết dần chết mòn, đương phải bỏ quê quán đi tha hương cầu thực kia kìa...Vậy thóc nộp cho quan nọ, quan kia, cho liên đoàn này, liên đoàn khác, thóc dâng cho Nhật để chúng nó đi ăn cướp mãi, phá lúa, chiếm ruộng, bắt lính, bắt phu, khiến dân tan hoang chết chóc, thóc nộp như thế hỏi dân cứ nộp mãi à? Không đòi lại à?
Viên phó quản tái mét mặt. Hắn luống cuống thêm vì thằng Tây đồn giục nói lại cho nó nghe. Trong khi ấy bà cụ Việt đã đến tận mặt thằng đồn, đứng trước ngay mũi súng lăm lăm của nó. Giọng nói của bà cụ vang lên hơn. Người đứng tít bờ ruộng đằng kia cũng nghe rõ từng tiếng và cũng thấy rõ những ánh sáng lấp loáng trong đôi mắt bà cụ ngước lên nhìn vào mặt kẻ địch.
-Tao không cần biết!... Con mụ già chó lợn kia phải cút ngay đi nếu không viên đạn sẽ suốt qua cái đầu bẩn thỉu của mày. Chúng mày lại định bắt chước những con vật dại dột năm 1930 ở Nghệ An, Hà Tĩnh và năm 1941 ở Nam Kỳ đã làm bẩn những viên đạn của tao à?
Bà cụ Việt vẫn không rời mắt kẻ địch:
-Ông không phải quát tháo nạt nộ. Ông phải giả thóc cho dân chúng tôi. Thóc chúng tôi không phải để ông bóp cổ lại dân chúng tôi... Để ông dâng cho Nhật đi ăn cướp... Để dân chúng tôi chết đói...
-Tao không thèm nghe gì cả. Con mụ già chó lợn bị đẩy ra cầm đầu nói nhảm này phải xéo ngay. Một lần cuối cùng tao truyền cho mày và tất cả đàn cừu dại dột đi theo mày cũng phải xéo ngay. Tao chỉ có mệnh lệnh: là chúng mày phải nghe. Và tao nhắc lại, chúng mày đừng có ngu xuẩn lại làm bẩn những viên đạn của tao như những đàn vật ở Nghệ An Hà Tĩnh và Nam Kỳ kia. Phải xéo ngay... xéo ngay...
Cái mặt sần sùi của thằng đồn càng tía thêm. Cặp mắt xanh như lè lửa. Nó lại nghiến răng nhắc lại lần nữa:
-Lính! Lưỡi lê cắm lên... Sẵn sàng rồi bắn...
Lách cách... phập phập... lách cách...
Ngay đó bà cụ Việt quay ra:
-Quan quản, ngài đội và các anh em binh lính... Sao quan quản, ngài đội và các anh em binh lính bằng này người mà lại để một kẻ khác máu tanh lòng cai trị mình, sai khiến mình đi bắn giết hàng trăm hàng ngàn đồng bào. Bao nhiêu năm nay chúng nó đã mượn tay anh em để đè nén, bóc lột, vơ vét của cải nước nhà, hàng rừng, tiền bể của rồi... Chúng nó đối với anh em, với đồng bào máu mủ của anh em, thì như vua, như chúa, như hùm, như beo mà đối với thằng Nhật thì như tôi, như tớ, như giun, như dế. Ngoài hơi sức gan trường can đảm của anh em ra, chúng nó chẳng dám làm gì hết. Chúng nó còn vững được, còn sống được, còn quyền cao, chức trọng, sung sướng được chỉ vì có lưng anh em, có người anh em làm bia đỡ đạn và đi lính giết người cho chúng nó.
Chúng nó đã thua nhục nhã đầu hàng thằng Đức ở bên Tây... Chúng nó hiện đang sấp mặt cúi đầu dưới chân thằng Nhật ở Đông Dương... Thời cơ tốt đã đến. Anh em đồng bào không thể bắn giết lẫn nhau, cùng nhau chịu nô lệ lầm than mãi mãi. Không thể thế được!... Anh em hãy quay súng mà bắn vào đầu chúng nó... Bắn cho tan đầu quân tham tàn hèn nhát ấy đi. Anh em là con dân nước Việt Nam. Anh em hãy ủng hộ và tranh đấu cùng dân chúng Việt Nam. Nước nhà sắp được tới lúc tự do, sung sướng, vẻ vang. Anh em hãy ủng hộ, tranh đấu cho nước nhà cùng chúng tôi. Anh em hãy đi theo dân theo nước nhà mà quay ngay súng lại...
-Ma quỷ! Sao lại thế kia?
Tên đồn rợn người, nhớn nhác; thấy những binh sĩ chung quanh nó đều không nhúc nhích. Thằng quỷ mặt tím ngắt đi ấy lại gầm nữa lên. Nó vươn thẳng tay đấm vào mặt bà cụ Việt. Thuận chân nó đá phốc thêm vào giữa ngực bà cụ. Rồi cứ cái gót giầy toàn sắt ấy nó đạp và đạp. Bà cụ Việt đã gục xuống đất lại chồm dậy, lăn xả vào ôm lấy cánh tay cầm súng của thằng đồn và kêu gọi. Tiếng hò reo liền trào lên. Dân làng chồm cả lại cái ôtô và đoàn xe bò thóc.
- Đả đảo đế quốc Pháp! Đả đảo đế quốc Pháp...
- Phải giả thóc cho dân!... Phải giả thóc cho dân...
- Anh em binh lính hãy ủng hộ dân... Hãy quay súng lại mà bắn giặc...
Tiếng súng nổ vang. Viên đạn đầu tiên của cái súng lục sạt qua đầu bà cụ Việt. Ngay khi bấm cò xong, tên đồn lập cập nhảy vội lên xe, đóng sầm cửa lại, chúi mặt xuống dưới cái cánh tay của nó run run giơ lên khẩu súng. Những lớp người tràn đến. Gió, cát, gạch, đá ném xả vào xe. Mấy tiếng súng lục nổ nữa rồi tắt. Lách cách, lách cách, một ngọn súng đen sì khác chĩa ra. Tiếng nổ lần này ran lên, xé lên qua một làn khói lửa:
- Nó bắn liên thanh... Tây đồn nó bắn liên thanh anh em đồng bào ơi!... Dân làng ơi!... Nằm rạp cả xuống, nằm rạp cả xuống...
Tiếng kêu của đám đông. Có cả tiếng kêu của những cai đội và lính tráng. Nhưng những lớp người vẫn cứ chồm đến với bà cụ Việt mặt đẫm máu và khắp người đầy máu. Ngùn ngụt. Tiếng hò reo, kêu thét. Những xe bò thóc hất ngược càng lên. Những quang gánh thúng mủng sục vào tới tấp. Trên hai con đường ở làng dưới và làng trên, người đã đổ ra ùn ùn đen kín hết cả các bờ ruộng. Cũng quang gánh thúng mủng, cũng hò reo... Tiếng chiêng khua thêm... Cả một vùng giời chuyển động...
...
Sau đêm ấy, đêm có giăng hay tối giời, ở sân đình sân trường, đường làng, ngoài bãi, ở cả những nhà rách vách nát đến những tường hoa sân gạch, những tiếng hát và những tiếng bước chân cứ vang lên theo nhịp hát:
Môôột hai...
Một hai đi một hai
Toàn dân đương lạnh đói
Toàn dân đương cùm trói
Tiếng khóc ran bên tai...
Môôột hai...
Một hai đi một hai
Việt Nam mau dấy lên
Đánh tan quân Nhật Pháp
Bắn tan lũ cường quyền
Cướp lấy chính quyền...
Cả trẻ con để chỏm, bòi dái tồng ngồng, cả những cái váy vá đùm vá đụp, đến những cái quần nái gọn ghẽ mới tinh... cả những bắp đùi nẫn rắn đến những ống chân lẳng khẳng và những cái lưng còng... cả xóm bên đi đạo, xóm ngoài mươi nóc ngụ cư... cả làng trên làng dưới... những tiếng "một hai" là tiếng độc nhất nổi lên trên những luỹ tre ra khắp cánh đồng.
Luôn luôn không khí vắng lặng hẳn đi. Một cái gì âm ỉ bừng bừng nén lấy ngực tức tối của cả mọi người.
1945