← Quay lại trang sách

Lửa Thiêu

Quang vùng bước xuống đường. Ra hẳn ngoài hàng cây và quá vườn hoa rồi mà Quang vẫn thấy đầu óc bừng bừng. Sự huyên náo ấy vẫn theo đuổi Quang, chưa chịu buông tha Quang. Những tiếng đàn - những thứ đàn gì thế và sao lại hàng năm chục chiếc thế? - và những tiếng kèn, tiếng sáo, tiếng chũm chọe, tiếng lắc cắc, tiếng trống vẫn cứ rít lên, chói vào tai Quang.

Đêm nay ở Nhà hát lớn, những bọn trước làm tay sai cho giặc Pháp giờ quay phắt sang làm cho giặc Nhật, lại tổ chức đại hội cứu tế. Chúng hoà nhạc, chúng tung hoa, chúng bán hoa, chúng quăng tiền, chúng thu tiền, và chúng cười, vỗ tay, reo hò ầm ầm giữa một không khí chói loà ánh đèn điện và ngột ngạt những quần áo, phấn sáp, vàng ngọc.

Ba nghìn... bốn nghìn... năm nghìn rưởi... sáu nghìn... tám nghìn... một vạn... vạn tư... vạn tám... hai vạn rưởi... bốn vạn... Bốn vạn đồng! Giá một bó hoa danh dự cướp được trong tay một ả lừng tiếng quen biết nhiều bậc quyền cao chức trọng, những cố vấn đại thần, những thượng thư, những tai nọ mặt kia, giàu sang nhất nhì... Những cái bụng lặc lè... Những cái má sề sệ... Những gươm lê thê sáng loáng. Những lon vàng, chỉ bạc, bài ngà, hoa vóc... Những cái đầu bóng soi gương được... Những cái mặt lồm lộp không thể cái gì nhẵn lỳ hơn được... Những bộ ngực, cặp môi không thể cái gì núng nính hơn được. Cả một phè phỡn mê tơi... Cả một mùi thơm nồng nặc... Cả một ánh sáng rực người.

Trong lòng Quang, nước mắt đã rưng rưng.

Cổ họng Quang tức nghẹn.

Ngực Quang bẹp dí. Những hình ảnh bừng bừng ở trước mắt Quang đã nhiều lúc quay lộn tan nát, nhòe nhoẹt.

Quang đã phải cắn ghì lấy môi.

Những dòng chữ ấy và những tiếng nói ấy đã lại nổi lên như gai như lửa trong tâm trí Quang:

"Một dạ hội chưa từng có!!! Tất cả những danh ca Khâm Thiên, Vạn Thái, Ngã Tư Sở cùng tất cả những danh cầm của kinh thành hoa lệ sẽ biểu diễn một nghệ thuật tuyệt vời để giúp quỹ ủng hộ quân đội Nhật và các hội thiện".

Từ nửa tháng trước đây, cái bùa này vừa treo lên, quả nhiên một phần Hà Nội rung chuyển ngay. Một số những trai trẻ vô công rồi nghề và sẵn tiền, những chỉ điểm, hiến binh, những con cái quan lại, nghị viên, địa chủ, gặp nhau đâu bọn chúng nó cũng hất hàm hẹn hò nhau và bất luận giờ nào cũng bàn tán say sưa. Những cảnh vũ nữ cởi truồng che mặt múa hát của sân khấu năm xưa được bọn Pháp khuyến khích cho mở rộng, tuy không trở lại, nhưng với đêm vui nọ, sự khát khao dâm đãng cũng được vuốt ve đôi chút bởi bao nhiêu "đào" lọc chọn của những nhà hát, những tiệm nhảy, những phòng trà đương mọc lên như nấm. Chẳng phải khó khăn tốn kém lắm, bọn người chỉ biết có khoái lạc này, cũng sẽ được đón tiếp, được mời chào, được cười cợt, được đụng chạm không những với các hạng gái trên kia mà còn cả với hạng gái nõn nuột của những con nhà thượng lưu cao quý.

Còn một số nữa đông hơn.

Đó là những con buôn đầu cơ, những kẻ chạy hàng sợi săm lốp, dây điện, "đadênăng", v.v... những thần thế với các phòng kinh tế, sở mỏ, phủ toàn quyền, với các lãnh sự, tham mưu, tổng tư lệnh... những bồi, ma cô, chạy việc của những cửa khó khăn ấy... những mặt mới bốc vác, những đĩ chuyên môn... những đại tri thức mua chuộc để làm quảng cáo, - cả một lớp người tiêu bạc vạn, kiếm bạc triệu, thừa mứa trên những sống lưng xác xơ của dân chúng lầm than mà chúng lớn tiếng gọi lòng thương xót cứu giúp.

Cái nhà hát rộng bằng cả một xóm ngoại ô kia đã mở hết cả hàng nghìn bóng đèn. Những tường đắp hoa và chỗ ngồi lót toàn nhung và sáng rực lên để nhìn thấy từng hạt bụi. Bảy từng ngồi chót vót, không hở một chỗ. Nhiều bọn đứng chực bên ngoài đã phải dúi giấy bạc hai mươi đồng vào tay các ả kiểm soát và năn nỉ như ăn mày để vào mà không được. Mặc kệ cả luật lệ phòng thủ chiến tranh, xe ôtô đều bật tung đèn và cứ vun vút đổ đến, vây mấy vòng sáng loáng trước cửa nhà hát. Đứng từ xa mà nhìn, người ta phải tưởng một "thiên đường" nào mới hiện ra.

Hơn một giờ trong cái biển ánh sáng và tiếng ồn ào ấy, Quang đã bao lần cố nhắm mắt lại, cố không nghĩ đến mà không thể được. Mỗi lần hàng mi lập lòe của mắt Quang vừa chụp xuống thì sự tưởng tượng của Quang càng ngùn ngụt hơn.

Ở ngoài kia.

Cái bên ngoài mà Quang vừa đi khỏi kia.

Trời đỏ bầm ở phía tây. Mây đen không ra đen, tối không ra tối, cứ lờ lờ đọng ở trên đầu người ta như khói sôi của cường toan ngấm kẽm.

Cây cối đờ đẫn. Bụi đường lởn vởn làm thành một màn vôi cháy âm ỉ vây không để hở một ngả nào. Trông mọi hình dáng đều phờ phạc, mọi sắc mặt đều nhợt nhạt, cả những hình sắc của những đôi uyên ương dọc đường tình tự.

Quang ra đi, không dám thở mạnh và không dám nhìn lâu vào một vật gì ở hai bên hè.

Một mùi tanh nao ruột tẩm lấy không khí. Những xác chết và cả những thân thể trần truồng, đen như than còn thoi thóp ở tý bụng hoi hóp dính trên mặt đất, đều nằm thành dãy, đều trông lên mắt Quang với những con mắt lờ ngờ vẩn máu cá, và đều rên rỉ cùng một tiếng:

- Đói!

Người qua lại như không nhìn thấy. Nhưng Quang vẫn thấy nhiều tia mắt hơi ánh lên và nhiều nếp trán hơi chau lại.

Lòng thương tuy đã bị dạn đi nhiều nhưng chưa bị tắt hẳn, tuy đứng trước một cảnh tượng tàn khốc mà người ta cảm một cách rõ ràng và ghê sợ rằng mình bất lực. Hơn nữa, người ta còn choáng váng thêm vì thấy còn chiến tranh, còn phải bán thóc cho quân Nhật hay bất cứ tổ chức nào của chính phủ Nhật đưa ra, còn sự đầu cơ hoành hành, còn sống hay chết là ở trong tay những hiến binh tha hồ bắt bớ, tra tấn, bắn giết, và còn chỉ trông vào đồng lương tháng, cái vốn nhỏ, vài mảnh ruộng, hay hai bàn tay không thì cái chết thế nào cũng đến. Chết! Không! Đói đã rồi mới chết. Chết nhan nhản như đây kia. Chết... cả vợ mình, con mình, cha mẹ mình, anh em mình và chính mình...

Chiến tranh... Bóc lột... Đàn áp... Thống khổ... Giầu sang... Những tiếng rên xiết cùng vang trong tâm trí Quang. Sáng nay một tờ báo tuy chỉ được phép nói lờ mờ thôi, nhưng cũng phải để dân chúng biết số người bị cái đói cướp đi đã tới hai triệu rồi. Quang không còn thể đau đớn hơn được.

Nguyên hai tỉnh Nam Định và Thái Bình, nơi Quang sinh trưởng, bị tàn sát thế là nửa dân số. Tại đây, có làng đã chết hết. Cả những nhà đã cày cấy bốn năm mẫu, mọi năm nào thóc ăn, thóc để. Không còn một ngọn rau, một củ chuối. Có kẻ đã ăn sống cả lúa non để bồng bế con cái ra đi hẳn, bỏ mặc cha mẹ anh em thân thuộc ngắc ngoải ở lại. Nhà cửa trơ trụi, vườn đất cỏ mọc um. Nhìn đâu cũng thấy mờ mờ khói. Sáng, trưa, chiều hôm nay... ngày mai... ngày kia... làng mạc, đồng áng cứ lịm dần, lịm dần, và, dưới mặt trời chang chang, trông xa thăm thẳm như vùng Mê Hà trong truyện Tây du, đọc thầm một trưa hè.

Trong khi ấy, những tin thóc lấy lại của những kho Pháp tích trữ sẽ đem bán cho dân và những tin gạo ở miền Nam tải ra tiếp tế cứ nhạt dần đi. Thay vào đó, những tin gạo cứ tăng giá vùn vụt. Năm trăm... năm trăm rưởi... sáu trăm... bảy trăm... tám trăm... và có nơi đã tới một nghìn một tạ gạo. Thợ lương ba đồng một ngày... buôn bán mỗi mớ rau lãi dăm xu... kéo xe ngày trừ tiền thuế còn được bốn năm đồng là đắt khách nhất... làm mướn đi cày khoẻ lắm mới được chủ mượn công không hay có công chỉ dăm hào một buổi... đi ở vú em cơm một bữa cũng không đắt. Phải cả một đời, suốt cả một đời, nhịn cả mọi thứ, dân nghèo chưa chắc đã mua nổi một tạ gạo. Đã thế, chỗ này bọn đầu cơ được giấy của Nhật lại về đong với hàng va li toàn giấy bạc năm trăm, chỗ kia hàng đoàn cam nhông về chuyển nốt thóc. Xa hơn, bao nhiêu toa xe lửa đã không chở gạo mà chỉ chở đường để bán gấp mùa bức. Rồi được chuyến xe bò nào hì hục chuyển gạo ra gần tới Bắc thì lại bị quân Nhật lấy hết. Thùn thụt, lại thêm không biết bao nhiêu cam nhông khác đã đưa gạo qua biên giới không phải để nuôi lính mà để bán chợ đen cho bọn "hán gian" cùng các tay sai dùng.

Cứu tế!... Cứu tế... Hai tiếng này càng được khua ran...

Kịch, hát, chiếu bóng, trưng bày tranh ảnh, ngày vui phụ nữ, bữa nhịn trong tù... trại Giáp Bát... đoàn Khất thực... dân chúng các nơi cứ phải nối tiếp nhau đứng lên mà chống đỡ nạn đói.

Người chết chỉ tăng thêm.

Ở thành phố xác chết đã tới mức phải đem đi bằng xe ôtô rác vào vùi từng hố rộng.

Và ăn mày. Những ăn mày đông hơn cả người đi đường, lũ lượt ngổn ngang tràn hết cả mọi ngả. Họ đi như thế để rồi lả đi, thay thế ngay bằng những lớp khác.

Hơn cả mấy miền quê tàn hại nhất, phố xá đã lắm buổi chiều vắng lạnh một cách hoang mang như những năm dịch tả ngày xưa các cụ già kể lại. Đèn che lù mù. Nhiều hàng chỉ hé hé sáng! Nhà thường thì đóng cửa kín. Xe tay lơ thơ. Những gánh quà bánh bán rong phải họp từng đám, chúi vào nhau ở trước cửa mấy hiệu đóng. Cả những đầu đường trước kia huyên náo không thể chịu được cũng chỉ ồn ồn một lúc chập tối. Những hiệu sách có tiếng là sầm uất đều ế trơ ra. Ai có vào, dán mắt tìm ở các tủ thì vẫn thấy những quyển sách đã bày từ mấy tháng trước, từ năm ngoái hay không, thì là những tờ báo lem nhem, mỏng teo. Sách học hoàn toàn là những sách cũ. Giấy bút tuyệt nhiên không được một học trò nào hỏi đến. Cái lớp tuổi xuân phơi phới ganh đua và vui tin kia đã bỏ hẳn nhà trường, vơ vất lông bông ở nhà; còn những người lớn chung quanh thì bơ phờ chán nản trong các công sở, các nhà máy, các bàn giấy, các phòng đọc sách, âm ỉ một thứ không khí nặng nề, u uất, ngột ngạt.

Nước mắt Quang đã vỡ ra chan hòa trước tấm phông chói lòa. Sự sống đã đến chỗ tắc rồi! Cái bức tường lửa - như lời của một người bạn Quang đã nói - không phải giờ mới hiện ra. Bao năm rồi! Trong cảm giác và trong trí tưởng Quang nó đã dựng lên, cháy bừng bừng. Dội vào nó, muôn vàn tiếng kêu đã trào lên:

- Sống!... Phải sống!...

Lúc này đây, những tiếng kêu thống thiết ấy, nhiều khi đã tưởng bị dập tắt đi lại càng cất cao lên, bóp chặt lấy tâm trí Quang. Quang thấy đương sống một cuộc đời u tối, căm giận hơn bao giờ hết. Một lũ ăn cướp và một lũ vô lương tâm, tàn ác và tham lam vô cùng, đã ùa ra mà hò hét cổ võ cho nhau vơ vét, bóc lột. Thêm vây cánh cho bọn này, một lũ hiểu biết sự đau khổ, nhục nhã hẳn hoi nhưng chẳng bao giờ dám phản đối một bạo quyền nào, đã cố cúi đầu mà chấm mút những phần máu đó. Dưới cùng là bao nhiêu lớp dân chúng cần lao và hiền lành đã bị tất cả những bè lũ trên đây tuốt thịt rút xương và bị chúng làm cho thù hằn nhau, chia rẽ, lục đục, để chúng đàn áp và bóc lột cho đến chết!

A! Đế quốc! Khai sáng!... Giải phóng!... Dân tộc Việt Nam của Quang, hơn hai mươi triệu linh hồn máu mủ với Quang đã bị giết đi một phần rồi dưới những chữ mạ vàng kia. Bom đạn, phu phen, lính tráng bắt buộc, buôn bán phá sản, làm lụng thất nghiệp, tù tội đày ải, chết rét, chết đói, dịch tễ? Tất cả những sự tàn khốc này đã bị một tổ chức tuyên truyền nhồi sọ khéo léo đến nỗi người ta thấy thành một tai giời và một cuộc thi phúc thi phận. Trước thì bọn giặc Pháp, sau thì bọn giặc Nhật, hết sức xô đẩy nhân dân, cùng nhau tàn phá một ngày một đêm sâu sắc hơn để làm kiệt quệ thêm cả mọi sinh lực chiến đấu. Cạnh những tấn thảm kịch ấy lại còn những cảnh đau xót là nhiều kẻ cùng dòng máu Việt Nam nhưng vì bị mua chuộc mà quên cả tổ tiên, anh em con cháu sau này, đã giúp cho quân thù phân chia tàn sát đồng bào, đạp đất nước xuống sâu nữa cái hố diệt vong.

Và bao nhiêu dân tộc khác với bao nhiêu triệu sinh linh cũng bị hy sinh một cách tàn nhẫn, cho những danh từ choáng lộng của một lũ lái súng và chúa đất tung ra kia...

Những mẩu tin tức bí mật gần đây lại nhắc lại trong trí tưởng Quang. Quân Đức phản đối rầm rầm ngoài mặt trận. Thợ thuyền và dân chúng Đức có nhiều kẻ bị cả nhà chặt đầu, treo cổ vì tội biểu tình, đòi bớt giờ làm, thêm bánh mì, và thôi đi lính. Bên Nhật cũng thế. Một sự rối loạn ghê gớm đương âm ỷ chỉ chực bùng lên ở khắp mọi nơi chiếm đóng và ở ngay trong nước Nhật khiến từng xâu người bị phơi nắng cho chết. Còn bên đế quốc Anh Mỹ sự bóc lột, đè nén, càng tàn bạo. Nhiều trận đói cũng đương giết hàng triệu người ở Ấn Độ và ở các nước nhược tiểu châu Mỹ, đương làm ngòi cho cả một phong trào sâu rộng, mạnh mẽ mà bọn đế quốc đã tìm hết cách kìm hãm bao năm rồi, giày đạp trên bao nhiêu xương máu của dân chúng. Cả miền Bắc Phi, Angiêri, Marốc nữa, một khi còn bị bọn thực dân, bọn giả dân chủ thiết lập lại cái chế độ thuộc địa thì sự thống khổ vẫn thế. Rồi ở cả ngay chính nước Anh và Pháp ê chề bại hoại sau mấy năm ròng, mất bao thanh niên trai tráng, không hiểu sẽ đền bù những sự đau khổ tàn sát, đổ mồ hôi nước mắt của những người mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha bằng những cái gì? Hay lại vẫn một lũ người giầu thêm, thừa mứa ăn chơi thêm. Hay lại phải một cuộc cách mệnh lụt máu để thay hẳn cái đời sống quỷ quái, đểu giả nọ.

Căm hơn! Đau xót! Cái nhân loại căm hờn và đau xót đã tới cùng mực chịu đựng rồi...

Nhân danh những "tự do" "chính nghĩa" một lũ tham bạo đã đẩy con người vào một cảnh thiếu thốn, khổ sở không thể còn giấu giếm hơn được nữa. Thợ thuyền làm việc như súc vật, không còn giờ giấc. Dân quê nai lưng ra cày cấy để nhịn và chết đói. Binh lính bị bịt mắt lại đi các mặt trận để bắn và đỡ đạn của những kẻ cũng khốn cực như mình, nhưng đã biết đứng dậy phá xiềng xích định đoạt đời mình. Kẻ cầm ngòi bút bắt buộc chỉ để ca tụng. Các trí óc chỉ để vâng các lệnh sai khiến...

Và tất cả đàn bà, con trẻ, kẻ già đều phải nhịn ăn, bớt mặc, đầu tắt mặt tối làm những người máy. Không một tiếng kêu được cất lên! Không một lời đòi hỏi được rỉ ra. Không một chút gì là quyền sống, là hạnh phúc của mình được nhìn tới!... Chỉ có bắn và giết!... Sự bắn giết diễn ra không còn kể ngày đêm... Không còn biết đến bao giờ... Dưới quyền hành tuyệt đối của một lũ khát vàng và máu.

Tấm phông chói loà ở trước mặt Quang bỗng biến đi.

Quang quắc mắt lên trông.

Một hình thù hiện ra, rã rượi, lẩy bẩy và chập chờn.

Từng bước, từng bước, hình thù họ lùi dần vào một khoảng tối âm u rồi thoắt cái ngập hẳn đi.

Quang choáng váng.

Quang ghê rợn, thấy hình thù nọ rõ ràng có đôi mắt long lanh, một cặp môi tươi mọng và một lồng ngực phồng nở. Một con người lành mạnh đấy. Hay chính Quang đấy! Hay thật một người lính Nhật, lính Đức, dân Anh, dân Pháp, dân Ấn, dân Mỹ đấy?

Hay một người của đất nước Trung Quốc, Triều Tiên, Mã Lai, Nam Dương cũng đương quằn quại bên cạnh đất nước Quang đấy.

Một con người sắp bị chết thảm khốc hái đi, đã hiện ra một lần cuối ở trước mặt Quang. Một con người dưới cái chế độ này, chịu cái chế độ này. Một con người đã có hẳn một sức mạnh và một tâm hồn và một lòng tha thiết. Nhưng nó đã là một con người lẻ loi bị tỉa ra, di lên như sâu kiến.Nó đã không cùng những con người khác cũng bị đau khổ vì bóc lột, áp bức, sát cánh nhau vùng lên thành hàng ngũ mà bẻ những gông cùm giằng lấy sự sống trong tay quân thù.

A! Một con người cam chịu chết. Không! Không thể như thế được!...

Quang nức nở, tim Quang bị xóc hẳn lên. Nước mắt Quang đỏ ngầu vỡ nữa ra. Quang run cả da thịt. Sự vật chung quanh Quang cũng run lên, vang ầm. Những câu hát - cách đây năm năm, hồi Quang còn mười tám tuổi đi học việc trong một nhà máy, hồi Quang đã từng dự vào những tổ chức thanh niên bí mật và những cuộc đình công biểu tình bị đàn áp tàn nhẫn, Quang thường âm thầm cất lên những lúc vui mừng, hay đau khổ và chán nản - những câu hát đã lâu lắm Quang không dám nhắc đến ấy giờ cất hẳn lên, rầm rầm trong đầu Quang.

Quang vụt nghĩ đến phong trào cách mệnh đương sôi nổi và bao lần tiếng gọi của nó vẳng đến tai Quang và Quang đã cố đón hút lấy. Không thể nén được, Quang vội nghiến răng gầm lên theo: "Dấy lên! Những ai nô lệ trên hoàn cầu", "Dấy lên! Những ai bị áp bức trong đời"...

1945