← Quay lại trang sách

Tiếng Nói

Tất cả mặt mày họ đều đen lại rồi, đen lạ lắm, như là bằng than đốt đỏ lên rồi dúng nước vậy. Da họ nứt hết. Mắt càng trũng xuống, càng vàng lờ, càng ngờ nghệch. Trông họ càng bần thần. Bàn tay họ như không phải của họ, thỉnh thoảng lại quờ quờ lên mặt, tìm một cái gì đó trong không khí, run run đưa vào mũi, vào miệng đoạn từ từ bỏ xuống và mắt dần nhắm lại...

Trời không nắng chói. Bụi và nắng mờ lẫn lộn. Ở trên cao, những cửa sổ mở ra lừ đừ như những con mắt bệnh tật. Khói nhờ nhờ đùn lên. Mây nhợt nhạt chạy xuống với những quầng sáng đục ngầu. Dưới đường, ở các ngã tư, các phố buôn bán, không thấy “họ” qua lại nhiều như trước. Họ đã nằm gần hết. Họa hoằn mới có kẻ ngồi thì thường là trẻ con. Chúng nó lạy và kêu như những cái máy, van xin cho mẹ, cho bố, cho anh, cho em, hoặc đã chết, hoặc gần chết, nằm bên cạnh chúng nó.

Đầu phố nọ, cũng ở dưới một chân tường bừa rác và cứt đái, mấy dãy người cũng đã nằm xuống rồi. Nhưng ở trước khu nhà bị bỏ bom tan hoang có một người đàn ông cũng gầy guộc, cũng đen sạm, mắt cũng vàng lờ, tay cũng lờ quờ, từ hôm đến đây cũng chỉ ngồi. Anh ngồi cạnh một cái cổng sửa chữa ôtô bửa ra làm đôi. Sau lưng anh, một hàng rào sắt bị bật lên, những gióng sắt rúm lại dàng dịt với nhau. Cách vài bước, cả một đống kèo cột, gạch ngói ngổn ngang lẫn với cỏ với rác. Anh ngồi lên một cái chiếu lành hẳn hoi, xa hẳn những xác chết thành dãy nọ, cách hẳn một quãng hai cột đèn, và, tuy chỗ anh cũng gần một đống rác nhưng không nhớp nhúa ruồi nhặng.

Suốt ngày, suốt đêm, bốn hôm rồi, anh chỉ ngồi ngả người vào cái cổng nọ nơi anh đã khật khừ ôm chiếu đến. Lúc nào anh ngủ là lúc hai con mắt đờ đẫn nhắm lại, hai cánh tay cứng nhắc bỏ thõng trên đùi. Trong khoảng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, những giấc mơ như thế gộp lại chỉ được ba bốn giờ là cùng, còn thì hai cái lỗ mắt kia cứ nhìn không thể hiểu để làm gì mà chẳng thấy anh ngước lên, lạy van ai một tiếng.

Mấy nhà gần đấy đã phải để ý đến người đàn ông nọ. Họ lấy làm lạ cho cái người đói ấy bị bệnh gì hành mà lại ngồi như thế, không ăn gì, không xin ai. Đâu như một buổi chiều có một người phu xe hạ càng xe xuống trước mặt anh ta, lắc đầu nhìn, rồi lay gọi. Người đàn ông đã mở choàng mắt, đăm đăm nhìn lại người nọ song vẫn không cất tiếng. Mãi sau người phu xe phải cúi xuống đón lấy hai bàn tay của người đàn ông nọ, quờ quạng đưa lên, vừa rung rung, vừa vẫy vẫy, lào thào không hiểu nói gì. Một lúc sau, cả hai người im lặng. Cuối cùng người phu xe đi ra máy, lấy cho người đàn ông một ống nước đầy, đặt cẩn thận bên mình anh, rồi kéo xe đi.

Thế thôi. Hôm ấy tới giờ đã bảy hôm. Không một ai cho người đàn ông cái gì, và không thấy anh ăn cái gì cả.

Tối hôm ấy là hôm rằm. Giăng vằng vặc, giời xanh ngắt, vẩy tê tê từng khoảng sáng như vàng. Gió đi đâu hết, bụi cứ mịt mù. Những xưởng máy càng ngùn ngụt ánh đèn điện, ánh lửa lò than, lửa lò hàn xì. Trên những ống khói, khói và tàn than đỏ chốc chốc lại phì ra, làm khu phố rực lên như cháy và những tòa nhà sụp đổ tan hoang hiện ra như ở tự một đời giặc giã man dại nào.

Người nào người ấy hễ ngơi tay quạt mồ hôi lại vã ra. Ai cũng kêu nhà mình nóng như cái hầm và vác cả ghế ra hè ngồi nói chuyện.

- Này hai bà! Hay cái người đàn ông ngồi chỗ gara bị bỏ bom ấy chết rồi.

- Việc gì người ta chết!...

- Họ không chết sao tôi không thấy đụng đậy, ăn uống, nói năng gì cả?!

- Thì cứ phải động đậy, phải ăn, phải nói cho bà xem mới là sống ư?

- Hẳn chứ lại.Tôi thì tôi cho người ấy thế nào cũng chết ngồi.Vì cái nghiệp đói nó làm cho người ta cứ lả dần đi rồi chết lúc nào không biết. Mà nếu họ chết, thì khi còn sống họ nằm co quắp, thì chết cũng nằm co quắp, khi còn sống họ gục xuống thì chết họ cũng gục như thế. Vậy giờ người đàn ông nọ ngồi như thế không khéo đã chết rồi mà hai bà không biết, hay rồi họ chết thì thế nào cũng cứ ngồi như thế mà chết.

- Tội nghiệp! Sao giờ lại sinh ra nhiều cái chết khốn chết nạn như thế?!

- Dào... chả tội nghiệp gì hết!... Thân làm tội đời cả thôi. Những ngữ này lúc còn mạnh cái chân, sáng con mắt, khỏe mạnh cứ ăn nhồi ăn nhét cho thật đẫy tễ, rồi lúc không có việc làm, hay vấp phải ốm đau thì rạc ngay người đi, mấy hôm đói là chết thôi...

- Tôi thấy nói dưới trại Giáp Bát, Giáp biếc gì gần Văn Điển ấy, người ta nuôi cho ăn, vậy sao họ cứ đi ăn mày, không chịu xuống đấy nhỉ?

- Gớm cái bà này mới quái chứ! Vậy cả như bà thì không lạc quyên, không cứu tế, không thương, không giúp... thì làm gì bây giờ?!...

Một lúc lâu sau mới lại có tiếng nói cất lên, và tiếng nói nhẹ hẳn đi, hơi run run:

- Làm gì?!... Các bà tính còn làm gì bây giờ được nữa!... Như chồng mình đi làm, lương tháng ba bốn trăm bạc, con cái hàng đống, nhà cửa thuê, lần hồi buôn bán cầm trong tay bạc nghìn mà cũng chẳng ra gì. Hễ động mua hàng gì thì lại hạ, rồi có lỗ, có muốn vay mượn xoay xở vớt vát thì những đứa có của chúng nó thấy vàng không có, kim cương không có, nhà cửa chồng con thế kia, chúng nó chối ngon chối ngọt... Đấy cảnh mình thóc gạo kém cót, mà còn lo lắng chạy vạy ăn như thế huống hồ... Rồi đây lại còn kém nữa, đồng tiền lại còn mất giá nữa, lại còn nay chạy báo động, mai chạy báo động thì mình cũng đến chết cả mất!...

-Thôi!... Thôi!... Không nghe những chuyện ấy đâu. Gớm!... Chuyện gì chẳng chuyện lại cứ những chuyện chết chóc ấy!...

Tiếng quạt phành phạch một thôi một hồi, ngắt nhời mọi người lại. Sau đó lại im lặng. Lần này một bà chỉ ngồi nghe đến giờ mới nói:

- Các bà này! Thôi ai thế nào mặc ai! Còn đổi đời đến thế nào nữa mình cũng chỉ nhờ giời... Đấy tôi chỉ còn nghĩ thế... Còn như mình đối xử với những người ăn mày thì mình phải tùy từng người mà đối xử. Như con mẹ cứ đến đêm lại đánh con nó để con nó khóc thét lên làm hàng phố phải cho cơm, hay như cái lão già gần về sáng mình chợp ngủ lại dắt cháu đến mà khóc kể lể rầm phố, thì mình không cho cũng không được; chứ như cái người đàn ông ở cổng gara bị bom nọ, tôi thấy thế nào mình cũng phải cho người ta. Người ta có được cơm cháo gì của Cứu tế cho hay không mình không cần biết, mà mình chỉ nên nghĩ rằng mình cho người ta được miếng nào, người ta biết thêm miếng nấy, rồi nếu người ta có chết nay, chết mai, chết khốn, chết nạn thế nào, người ta cũng đỡ oán hận rằng ở gần những nhà còn có ăn có uống, người ta ngồi đói như thế cho đến lúc chết mà không được qua một miếng gì.

- Ừ, thì cho người ta... cho người ta để được phúc đức về sau thì còn gì hơn!... À mà hôm nay cúng rằm, bên bà còn những gì đấy?

Tiếng cười đáp lại:

- Không!... Thưa bà đã mấy tháng nay tuần rằm, cúng giỗ nhà tôi đều tinh giảm đi rất nhiều, chỉ còn hương hoa thôi. Các bà tính bày vẽ ra mâm nọ mâm kia bây giờ nào có ít ỏi gì! Rồi khi mình ăn lại cứ lờm lợm, ghê ghê nghĩ đến những ruồi nhặng và người chết chung quanh thì còn ai dám bày vẽ ra nữa?...

- Thế bà định cho gì? Nhà giáo mô phạm nói có khác!...

- À... Chiều nay cả tôi và cháu cứ váng vất thế nào ấy, tôi lại bảo cái nhà Cả nó nấu nồi cháo đỗ đen cả nhà ăn cho mát. Ấy chẳng đường tây, đường ta gì mà bốn cháu chúng nó mỗi đứa cứ hàng bát to ăn ngon đi. Còn một bát để phần thầy cháu đi dạy học về, nhưng giờ chưa thấy thầy cháu về thì thôi đem cho người đàn ông nọ để bác ấy ăn... Hôm nay tôi, mai bà nào có gì cho nấy.

Cả bọn ồn ào đứng lên... Một người con gái của một bà được gọi ra bưng bát cháo của bà có chồng đi dạy học xăm xăm đi trước. Một cột đèn... một cột đèn nữa. Mùi thối đẵ thoang thoảng. Không bảo nhau, mấy bà đều chậm bước không dám khạc nhổ nữa, chỉ bưng mũi. Một bà đã toan bảo mấy bà hàng xóm quay lại nhưng thấy đến chỗ người đàn ông nọ chỉ còn vài bước và không phải qua một xác chết nào thì lại cứ đi.

- Này!... Này!... (Đến bên người đàn ông, người con gái nọ lấy chân đá vào đùi anh, gọi) - Tôi cho cái này đây...

Người đàn ông như không nghe thấy và không biết rằng có kẻ thích hẳn guốc vào mình. Anh chẳng đụng đậy và cũng chẳng lên tiếng. Người con gái vừa đá vừa gọi nhiều nữa mà người đàn ông vẫn không nhúc nhích.

- Đấy! Tôi nói có sai đâu, chết ngồi rồi!

- Chết! Việc gì mà người ta chết! Chết mở mắt nhìn và bụng vẫn thở thế kia à?

- Ừ thì chưa chết hẳn mà chỉ chết đến mỏ ác thôi.

Người con gái mới gội đầu xong đương hong tóc, sốt ruột liền gí bát cháo vào tận miệng vẫn he hé nọ:

- Đây cháo có cả đường đây. Có ăn không? Này! Cầm lấy mà ăn.

Mọi người đều giật mình, suýt lùi bước chạy.

Người đàn ông bỗng quờ tay lên, mắt trắng lờ đờ đưa đẩy vừa nhìn vừa lắc đầu, thều thào:

- Không!... Tôi không ăn đâu!...

- Không với khồng gì nào! Cháo đậu xanh sánh sành sạnh với đường cát của người ta đây mà!

Người đàn ông nhăn rít mặt lại, chỉ lắc đầu thôi, không đáp.

Bà có con gái bưng hộ cháo cúi hẳn xuống:

- Ốm đau mệt mỏi cũng phải cố mà ăn đi chứ! Ngồi nhìn mãi được à? Này, này cháo nhà bà giáo mới nấu chứ chẳng phải cháo ôi cháo vữa gì đâu. Bà ấy thấy bác từ hôm đến chỗ này đói mà vẫn giữ gìn sạch sẽ và chẳng được ai cho cái gì, thương tình bà ấy mới đem cho, chứ chán người đang sa sả kêu van kia kìa...

Người đàn ông chớp chớp mắt rồi giương hẳn mắt lên, nhìn như bật con ngươi ra những cái đầu người cúi cúi ở trước mặt mình.

- Tôi không ăn gì nữa... Tôi không ăn gì nữa... Tôi không muốn ăn là không muốn ăn chứ có phải tôi ốm đau đâu... mệt mỏi gì đâu!...

- Không ốm không mệt sao lại đến đây ngồi? Rõ nợ! Người ta đã bưng thức ăn đến tận miệng còn vẽ...

Cái giọng gằn nọ chưa dứt thì người đàn ông nhắm mắt lại thiêm thiếp như trước.

- Thôi không ăn thì mặc, cái Liên bưng về đi. Giở chứng ra đấy chứ gì!

Người con gái cũng gằn tiếng:

- Phải họ sắp chết nên giở chứng ra đấy!Con bưng về cho người ăn mày góc phố và bảo mấy thằng phu rác đêm nay thế nào cũng phải tống cái ngữ này đi chỗ khác như cái con mẹ đánh con và cái lão già dắt cháu khóc ấy!

Bà mẹ vội quát giật con gái lại:

- Con ranh này để hỏi tí nữa xem nào! (Bà lấy tay lay vai người đàn ông) - Này bác, bác bảo không ốm đau, không mệt mỏi, ừ thì bác không ốm đau, không mệt mỏi, nhưng dù thế hay không thế, bác cũng cứ húp mấy thìa cháo của chúng tôi xem nào...

Lần này, sau khi hai con mắt lờ ngờ kia mở ra nhìn trừng trừng mọi người, thì toàn thân người đàn ông run bắn lên. Không phải một cánh tay mà cả hai cánh tay của y giơ lên, lật bật đẩy cái bát cháo kề vào tận miệng mình:

- Không!... Bà ơi!.. Cám ơn bà... tôi không ăn đâu!...

- Khổ quá!... Bác này lạ quá!... Ăn đi!...

Tất cả cái khổ mặt xương xẩu và đen sạm nọ lại nhắm rít lại, và trên những nét nhăn nhó đó có hai con mắt sâu hoắm không tối nữa, long lanh sáng hẳn lên:

- Các bà... Xin cám ơn các bà...các bà cho tôi. Xin cám ơn bà... Nhưng tôi đã thề tôi không ăn tí gì nữa. Giờ các bà thương cho tôi... Nhưng mai...mai thì sao?... Hay cho dẫu tôi lại được ăn ngày mai thì lại còn... lại còn ngày kia... Ngày kia... Ngày kia các bà... và mọi người có thể thương... thương cho tôi mãi được đâu? Kém đói! Ăn mày... ăn mày... không!... Không!... Chúng tôi chỉ muốn đi làm... đi làm thôi! Nhưng giời làm đói kém quá... hự... giời lại không còn để... Không để cho những... người nghèo khổ có công ăn việc làm gì, mà thóc gạo lại bị thu cướp... càng ngày càng đói kém. Hự hự... giời muốn những người nghèo khổ chết đói... chết đói... chết đói hết... Tôi... hự... các bà thương cho tôi ăn... Xin cám ơn các bà... nhưng không... Tôi không ăn mày... không ăn mày... Tôi chỉ muốn đi làm... đi làm... đi làm... tôi... tôi... các bà... bà... bà....

Người đàn ông nhắm mắt lại trong khi tiếng nói vẫn lào phào nức nở. Sau cùng cái đầu bù lại ngả vào tường. Người đàn ông lịm hẳn...

Gần về sáng đêm ấy, một trận gió ào lên với những hột mưa lộp độp. Không được năm phút, khi gió tắt thì mưa theo. Cái nóng lại ngụt lên. Sáng ra người ta thấy người đàn ông không ngồi bên cái cống bị bom đổ vỡ mà lăn đến một gốc cây ngoài bãi cỏ, mặt sấp xuống, môi và răng bê bết cát, cắn vào một miếng đất bật lên bằng nửa miệng chén với những hằn răng lỗ chỗ. Hôm sau và mấy hôm ròng nữa, cái xác khô đét, đen sạm ấy lại cũng như những cái xác trần truồng và bê bết cứt đái khác, cứ nằm phơi nắng, phơi sương mãi...

1945-1946