IV. CUỐN TIỂU THUYẾT ĐẦU TAY ẤY
Cái việc kiếm được miếng mà ăn ấy càng ngày càng thật là thấm thía đối với tôi. Trong nhà vẫn chỉ một mình mẹ tôi chạy gạo. Không bao giờ lưng vốn mẹ tôi có được lấy hai đồng. Tôi để ý thấy nhiều chuyến mẹ tôi chỉ còn độ bảy tám hào, rồi đến ba bốn hào. Khi mẹ tôi mua lại một hai cân mỡ, đi bán lẻ từng xu ở những xóm thợ. Khi mẹ tôi đón mua của những người buôn trầu vỏ nhặt nhạnh, rồi đem đến bán ở cái chợ đầu một ngã tư đường cũng đông đúc, phu phen thợ thuyền và các người nghèo khổ đi làm ăn về tụ họp: chợ Cột đèn. Mẹ tôi còn thổi xôi bán khuya ở vỉa rạp hát hay quấy bánh đúc ngô bán sáng ở đầu ngõ nhà.
Nếu mẹ tôi có được năm đồng bạc mà mua hẳn một lúc dăm cân đường, cân bột của những mẹ buôn lậu ở Sáu Kho hay phố Khách, và có vốn bán chịu, có tiền đong gạo ăn hai ba ngày, nhất là sắm được hay mượn được của bác tôi cái nồi nhôm, thì ông dượng của tôi lại làm các thứ bánh đặc biệt để mẹ tôi đem bán cho các nhà bà thông, bà phán đánh chắn, đánh tổ tôm và các gái nhảy, các đào kép hát ăn buổi trưa, như vậy sẽ kiếm được hơn! Còn như bán mỡ, bán xôi, bán bánh đúc... không những phải đi nhiều, phải thức khuya dậy sớm, mà lại phải lo phải sợ nữa: thuế vé! Mẹ tôi lẩn lút với cái thúng cái mẹt hàng còm cõi ấy còn khó khăn hơn cả một kẻ cắp.
Nhiều phen nếu không được những người tốt, nhà tốt mách bảo và che chở giấu giếm cho, thì mẹ tôi sẽ bị bắt, bị phạt, khốn cực không biết đến thế nào.
Chúng tôi cũng ăn ngày một bữa như gia đình ông cụ bà cụ Trung, như gia đình bác Lượng. Nhiều bữa phải vay gạo. Những bữa này hột cơm nhai nuốt cứ như lẫn sạn sỏi và là sạn sỏi ướp nước đá. Tuy vốn liếng vẫn chỉ có như thế nhưng mẹ tôi vẫn còn phải lo cả tiền nhà. Nhà thuê mỗi tháng một đồng sao lại cứ chóng hết tháng thế? Nếu như ăn những bữa cơm trên kia đã khổ não, thì trong những ngày mồng hai, mồng ba đến mồng năm mồng sáu cũng thế. Không tháng nào nhà tôi không chịu lân. Cũng không kỳ nào trả được gọn một đồng. Mỗi lần ông chủ nhà lạnh lùng không chịu cầm năm, sáu hào "hãy xin đưa tạm", và nghe mẹ tôi van vỉ, tôi lại thấy trời đất như sắp đến ngày tận thế.
Chính vì thấy cảnh nhà như thế, nên em gái tôi lại đành bỏ chúng tôi trở về Thanh Hóa làm con nuôi một người họ xa có nghề hàng hương, mặc dầu nó đã quyết tâm ra Hải Phòng để anh em được sống với nhau, bảo nhau làm ăn. Một ước mong và một cảnh hạnh phúc mà tôi đã dùng hết lời lẽ thương tâm viết liền mấy thư cho nó.
Thế rồi mùa đông đã đến.
Muốn sao mùa thu vẫn là đẹp, là hơn mùa đông. Đẹp vì nhiều cảnh, nhiều sắc, đặc biệt là cảnh sắc trời mây và nắng gió. Đẹp cũng vì không có rét, không làm khổ người nghèo vì rét. Vì một điều nữa là những lo toan về cái Tết và những nông nỗi năm tận tháng cùng chưa thúc bách quá quắt, chưa chồng chất ghê gớm. Hay nói một cách khác, thì các cảnh trái ngược và bất công giữa sự giàu sang sung sướng và nghèo hèn đói khổ đến mùa rét lại càng phân biệt hẳn ra, làm những kẻ thỏa mãn thì cũng đặc biệt là thỏa mãn, thỏa mãn tột cùng, còn những ai đau tủi thì cũng thật là đau tủi, đau tủi vô hạn.
Tôi đã không còn tâm trí nào ngồi mà đọc, mà viết được nữa. Để tránh một sự hành hạ vừa như là lửa đốt vừa như là kìm kẹp nhay dứt, vừa như là nhựa ngái, nhựa cà độc dược triền miên ở trong người, tôi lại ra đi lang thang.
Tới giờ, cái mũ trắng của tôi mép viền đã xơ hẳn. Còn cái áo lương và cái quần chúc bâu trắng không những đã vá cả khuỷu tay, cả đầu gối, cả đũng mà còn dọa... sẽ bục to thêm nhiều chỗ, nếu tôi chỉ một chút vô ý cử động mạnh. Bởi vậy, không cần nhìn mình trong gương, tôi cũng thừa đủ thấy tôi tàn tã lắm rồi, dù mất công chải chuốt giữ gìn chừng nào nữa cũng không thể không thấy như thế. Còn thêm một điểm này là tôi không còn vẻ gì là cậu bé, là cậu học trò nữa. Tôi đã giật mình, lạnh toát người, những lần có đội xếp tây, đội xếp ta hay mật thám chặn đường hỏi thẻ các bộ hành, mà tôi lại bỏ quên học bạ hay thẻ học sinh ở nhà! Nhất là vào những buổi đi về khuya.
Chao ôi! Thế ra không phải chỉ vì cái cổng trường, cái cửa lớp không cho phép tôi đến học nữa, còn là học trò nữa bởi không có tiền, mà chính tại vì hình hài dáng vóc và sự ăn mặc của tôi đã làm tôi cách biệt hẳn ra, cách biệt vĩnh viễn một cuộc sống dù sao cũng là tươi sáng, nên thơ, đáng yêu dấu vô cùng đối với tôi.
Tôi không như ngày năm xưa bị tù, mỗi khi chợt nghĩ đến tuổi ấu thơ và quê hương, tôi đã bưng mặt khóc, ngay dưới gốc cây, ngay bên vệ cỏ, bên cạnh cái xe bò rác tôi cầm càng, và vội vội vàng vàng lấy cánh tay lấy vạt áo chùi nước mắt thấy người đi qua. Nhưng lại buồn đau hơn.
Ơi! Những mái ngói rộng, những cửa kính, những bàn lim, những bản đồ rực rỡ, những bảng đen, những thước gỗ, những bụi râm bụt, ô rô gai góc um tùm, những gốc bàng, gốc sấu quý như những cây trong vườn Địa đàng. Ơi! Những "trong đầm gì đẹp bằng sen", "Ai bảo chăn trâu là khổ"... "Đêm qua ra đứng bờ ao, trông cá cá lặn trông sao sao mờ", "Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau"... "Chiều giời bảng lảng bóng hoàng hôn"... Ơi! Những Alphonse Daudet, Victor Hugo với Buổi học cuối cùng, Đại dương đêm tối, những Jean Jacques Rousseau, Diderot, Voltaire, Saint Zust, Marat, Robespierre, Danton với những Tự do, Bình đẳng, Bác ái và Cách mạng 1789! Ơi! Những Ngô Quyền, Bạch Đằng giang, Đinh Tiên Hoàng, Hoa Lư, Lý Thường Kiệt, Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Trần Hưng Đạo, Hịch tướng sĩ, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Lai, Bình Ngô đại cáo, Quang Trung, Ngọc Hân, Ngọc Hồi, Bồ Đề, Đống Đa... Ơi! Những thầy giáo, đặc biệt là thầy dạy lớp năm, thầy dạy lớp nhì năm thứ nhất, và thầy dạy lớp nhất lớp cuối cùng của ta. Nhà trường hỡi! Ta không còn được đến ngồi dưới mái ngói rộng, bên cạnh cái bàn lim của ngươi mà trông lên bục của các thầy dạy, rồi nghỉ ngơi nô nghịch hay mơ mộng suy tưởng trong những bụi cây, dưới gốc bàng, gốc sấu của ngươi nữa. Vĩnh biệt ngươi, xin vĩnh biệt ngươi.
Tất cả những hình ảnh trên đây lại trở lại trong tâm trí tôi. Tôi đã đi, đầu cúi cúi, nhưng mắt vẫn ngước nhìn khoảng không ở đằng trước. Từng cơn gió lạnh vô cùng và vô tận táp vào mặt tôi. Tôi lại chợt bắt lấy cái ý nghĩ: "Hay ta cứ trở về Nam Định, cứ trở về cái tỉnh chôn rau cắt rốn, quê hương của ông cha kia!".
Phải, bất chấp mọi thành kiến, mọi tai tiếng, mọi con mắt nhìn, mọi thái độ đối xử, mọi khó khăn, mọi cực nhục... Tôi cứ trở về Nam Định. Biết đâu tôi lại không tìm được một việc nào đó trong thành phố, không thì ở một làng nào đó miền biển hay vùng đồng chiêm xa lạ, túng đói, kiệt cùng, buồn tẻ. Không được đi học nữa, không được kéo dài thêm cái tuổi thơ ngây yêu dấu dưới mái nhà trường, thì chí ít cũng được sống ở một mặt đất nếu tôi có quỳ xuống và áp mặt rỏ nước mắt lên, tôi cũng được thở được hít một chút gì là hơi hướng thân thuộc sâu xa của mình.
Chao ôi! Nếu tôi có đói mà đi thì cũng được đi trên những mặt đường, những bờ hè còn âm vang những tiếng trống, tiếng guốc, tiếng cười nô và tiếng lá bàng, lá sấu reo ấy. Tôi có rét mà đi thì cũng được đi qua những vườn hoa có hoa ấy: thược dược, phù dung, trúc đào, ăng-ti-gôn, cẩm chướng và đặc biệt là cúc, là hồng, cúc vàng, hồng vàng, cúc trắng, hồng bạch, cúc cũng đại đóa, hồng cũng đại đóa... Và bướm và chim nhỏ xíu chuyền nhảy gọi hót trong hoa, đan những đường ánh sáng qua những làn bướm...
Hay có kiệt sức lả đi, thì tôi cũng lả đi ở một gốc đa, hay gốc gạo không biết đã có từ mấy trăm năm, cao chót vót bên bờ con sông đào thênh thang mát rợi kia, mà nhìn những chuyến đò và nghe những tiếng phập phò, chi chát, choang choang của một lò rào:
Lặn lội thân cò trên quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông...
(Tú Xương)
⚝ ❖ ⚝
Nằm lả đi và vẫn trông về cái gian nhà gác kiểu chuồng chim ở cái phố Hàng Cau mà nhớ lại những chiều đông lạnh, người cha của tôi hết sức mệt mỏi chán nản và buồn thảm đã chết, hồi ấy vẫn còn dạy tôi:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ
Biết ai mà kể nỗi hàn ôn.
và
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta...
(Bà huyện Thanh Quan)
⚝ ❖ ⚝
Tôi lại ngồi vào bàn bên cái khung cửa sổ nọ. Tôi bỏ buổi đọc sách, tôi lại viết. Tôi viết tiểu thuyết! Phải! Tôi viết hẳn một truyện dài.
Giấy làm bản thảo lần này toàn là thứ giấy trắng xỉn, chưa kẻ, ba xu rưỡi một thếp mua ở một cửa hàng gần nhà, rất ế khách. Không có giờ giấc gì cả! Khi ngừng viết để nghỉ ăn cơm, hay nhức đầu quá phải đi lang thang ra bến Sáu Kho, xuống Cầu Rào hay vườn hoa sông Lấp, và những buổi lên phố chờ mẹ tôi chạy chợ hay đón người quen mẹ tôi gửi gạo về, tôi cũng vẫn viết. Tôi viết thầm: tôi vừa đi vừa lẩm nhẩm từng chữ, từng câu, rồi sắp xếp từng đoạn, "quay" tiếp theo những trang viết dở. Tôi thích nhất cách làm việc này. Bản thảo vừa được kỹ hơn, câu chuyện được nhào nặn và diễn biến rất kỳ thú mới lạ và sinh động. Nhưng cũng rất mệt, mệt vì nhiều đoạn lúc về nhà ngồi vào bàn viết, tôi quên bẵng đi. Tôi đã khổ sở như một kẻ khốn nạn bắt được của mà suýt để mất.
Mùa đông năm ấy hình như nắng nhiều và càng nắng lại càng rét ngọt. Và càng rét thì cảnh túng thiếu, chắt chiu, xoay giở chạy vạy ở chung quanh tôi thật là lấm mày lấm mặt, lầm than vô cùng. Bên bàn viết, tôi lại càng phải dằn người xuống, và tôi thấy tâm trí càng thắt lại. Lắm lúc tôi phải miết miết bỏng rát cả hai thái dương và trán để đầu bớt ê ẩm. Cũng như tôi phải kẹp chặt cứng một cánh tay vào hai bắp đùi căng thẳng để chống lại cái rét chỉ thừa cơ một tích tắc là bốc tôi ra khỏi ghế, sau đó tôi không còn thể nào giữ nổi tất cả gân sức cho khỏi run lên lạnh buốt và tim phổi trong ngực khỏi tê tím lại, rời rụng ra.
Tôi tình nguyện tự thít mình lại, gò người vào mép bàn, còn vì lý do này nữa. Tôi có ra phố, ra đường, đã không bớt mệt mỏi, nhẹ nhàng đầu óc, mà còn nung nấu, nhay dứt hơn. Vì những quảng cáo sách báo xuân. Đặc biệt là các báo tết trong đó có số đầu tiên của tờ Hà Nội báo ra quân rất rầm rộ, rất phải chú ý. Nào Thị Mịch của Vũ Trọng Phụng, nào Tiếng địch sông Ô của Phạm Huy Thông, nào Cầu sương điếm cỏ của Lưu Trọng Lư, tưởng chừng đến làm nghiêng ngả tờ Phong hóa của Tự lực văn đoàn, tờ Tiểu thuyết thứ Bảy của nhà xuất bản Tân Dân, và sẽ kéo nổi lên theo nhiều cây bút xuất sắc bấy lâu chưa được ai biết đến...
Những gánh cúc thơm ngát và hãy còn sương của làng Hạ Lũng đi lên phố và những cành đào, cành mận cành mai tươi thắm bồng bồng của các làng xung quanh thành phố đem đi bán sớm, như không phải sửa soạn cho ngày tết của các nhà sẽ mua nó, mà là đón mừng trang điểm cho những vần thơ và tài năng nọ.
Năm trang, mười trang... hai mươi trang... Chương một, chương hai, chương ba... rồi bốn mươi trang, năm mươi trang, sáu mươi trang... Chương năm, chương sáu, chương bảy... Rồi hết phần thứ nhất, sang phần thứ hai. Tôi vẫn ăn một bữa, một bữa cơm xới ở nồi ra chia nhau từng bát. Thức ăn chỉ có canh rau cải nấu suông đập thêm mấy nhát gừng. Cũng múc ở nồi ra và phải trông nhau mà ăn. Nhưng khác hẳn đợt viết trước, tôi thấy hồi hộp một cách lạ sau từng trang, từng chương. Phải chăng:
Cây im sông lặng đợi xuân về...
(Thế Lữ)
Máu tuổi xanh của tôi đã tươi thắm và được truyền tiếp thêm với không khí đất trời và với cả chính những dòng chữ của mình.
Nhưng rồi cái ngày năm cùng tháng tận và cái buổi chiều thiêng liêng của nó cũng được lo toan đúng như kiểu nói của ông dượng tôi: "Đâu vào đấy hết!" Đúng trưa hôm ấy, mẹ tôi đội về một thúng có cả gạo, rau và nước mắm. Chỗ gạo lùm lũm khác hẳn mọi buổi, dễ thường ăn được đến mồng 4 mồng 5. Rau đủ cả cải bẹ để muối dưa, và cải canh, bốn năm mớ to. Nước mắm lưng chai. Mẹ tôi luống cuống xếp các thứ ra rồi lại đi ngay. Chợ càng đông. Trầu cau của mẹ tôi vẫn chưa bán hết và bán được giá. Mẹ tôi bán nốt rồi sẽ mua thêm thức ăn. Tôi đã nói đi nói lại với mẹ tôi có gì thì chỉ đong gạo thôi, nhưng mẹ tôi đã mua cả thịt và cá. Tối mịt mẹ tôi đưa thịt cá về, ông dượng tranh lấy kho.
Nhà bác Lượng to bụng cũng về muộn. Giờ bác mới đong được gạo. Nhưng cá bác mua hẳn hai con chứ không phải mấy khúc như của mẹ tôi. Hai con cá dù chỉ là cá hồng đã ươn, nhưng to trông vẫn thích. Thịt thì có cả thịt sỏ, không kể miếng thịt bụng nhiều gấp đôi nhà tôi. Lũ con của bác mọi khi quấy khóc đánh nhau, cãi nhau làm bác lắm lúc như phát điên phát rồ lên. Giờ chúng nó ríu ra ríu rít, làm nũng làm nịu, anh anh em em cứ xúm xít chung quanh mẹ. Đứa lớn cũng tíu tít gắt gỏng kêu bố lần mần không biết làm gì cả.
Khi mọi nhà sắp cơm cúng, thắp nhang, nhà cụ Trung mới ăn cơm. Vẫn bữa cơm thường lệ: một nồi cơm gạo hẩm và một âu dưa muối xổi. Hình như bà cụ chỉ mua có ít mỡ vụn rán lấy tóp chưng mắm tôm, còn để xào rau. Không thấy kho thịt, kho cá gì cả. Bà cụ vẫn vừa nhai trầu vừa sin sít tiếng nói nhưng không cay ca đay nghiến ông cụ và anh Trung như mọi ngày mà tươi tỉnh bắt chuyện cả với bà cụ thím ông chủ nhà, vợ chồng bác Lượng và mẹ tôi.
- Thôi năm nay tôi lại ăn tết văn minh, chỉ kiếm mấy thẻ nhang để thắp cho ấm cửa ấm nhà đón các cụ về, rồi khấn với các cụ làm sao phù hộ độ trì cho con cháu được mạnh chân khỏe tay, sang năm mới tôi chạy sao được ngày hai bữa, thằng Trung, thằng Hiển anh em nó có công ăn việc làm... Còn ăn uống... thế chỉ có ngày tết mới ăn uống sao? Mà ăn gì thì ăn, cũng đến no bụng thôi!
Bà cụ vành hai ngón tay, chùi cốt trầu ở miệng rồi cười rất là thoải mái, rất là tự nhiên. Tất cả các ông các bà hàng xóm đều cười nói vui vẻ tán thêm vào tục lệ tết nhất. Trong khi ấy, ông cụ ngồi chống gậy trước bàn thờ có độc một bát gạo cắm mấy thẻ hương và một nải chuối xanh, một đĩa trầu cau và một chén nước lã bày trên cái mẹt bà cụ vẫn bán hàng. Ngẫm nghĩ sao, ông cụ lại lần ra cửa, và cũng vừa run vừa thở lào phào bàn chuyện tết với mọi người. Ông cụ cũng tươi tỉnh khác hẳn. Còn bà cụ thì mặc ông cụ nói, chứ không lườm, không ôi dào, không "thôi đi" như mọi ngày...
Tôi nhìn miếng gỗ to hơn cái bảng học trò treo trên cột ở giữa nhà đủ cả chuối, trầu cau nước lã, và nhẹ nhẹ thấp thoáng ba vệt khói hương đen ngan ngát của nhà cụ Trung, mà tiếc nhà tôi không có được một bàn thờ như thế. Thế là tôi lại ngắm nghía, lại lau chùi, lại sắp xếp cái bàn sách của tôi. Rồi vẫn đủ lệ bộ, chồng báo hàng tuần, tập sách chữ Pháp, cuốn tự vị cũ và thêm mấy thếp, mấy cuốn bản thảo, cái bàn thờ của tôi ấy lại bày biện để đón giao thừa và ngày đầu xuân khai bút.
Chao ôi, nếu tôi có thêm được một lọ thủy tinh trong sáng cắm mấy cành lá xanh và mấy bông hoa huệ để trên chồng báo góc bàn và ở trước những Vigny, Hugo, Rousseau kia, hay tôi lại có một bức phong cảnh in màu treo trên khung cửa, thì còn thêm biết bao hạnh phúc, bao nao nức, man mác bâng khuâng?!
Suốt buổi chiều, tới giao thừa, tôi không viết thêm được gì cả. Cuối cùng, tôi đi ra đường cùng các bà con xuất hành hái lộc về xông nhà. Bà cụ Trung, bác Lượng gái, anh Hiển, ông dượng tôi và tôi thành bọn. Còn hai người mà tôi muốn kể rõ hơn là bà cụ N. và cô N. Bà cụ N. người bé nhỏ gày yếu, tóc bạc gần hết, thường đeo kính trắng và đọc kinh Phật. N. là con gái thứ hai của bà cụ, năm đó hai mươi bốn hai mươi nhăm tuổi.
Cô gần như không giống bà cụ, từ vẻ mặt cách đi đứng đến ăn nói. Cô ngăm đen, mặt mỏng và tròn, cằm lẹm, miệng như móm. Tiếng nói như khóc. Dáng đi cập rập thật vất vả. Cô thêu, đan, may khâu rất giỏi. Chuyên nhận làm hàng đăng ten cho trên phố. Hình như gia đình muốn cô về làm hai cho người chồng của chị, nhưng không hiểu vì người chị ghen, hay cô không thuận nên việc chưa thành. Người anh rể này có cửa hiệu khắc con dấu và chữa xe đạp trên phố rất phát đạt, chỉ được mỗi mụn con gái.
Chính vì có bà cụ N. và cô N. nên tôi càng thêm phần hào hứng đi đón xuân đêm ấy. Nhưng chỉ qua được mấy phố, tới lúc cả bọn vào đền Nghè để xem, thì tôi không còn bụng dạ nào.
Tôi vẫn đội cái mũ trắng mép sờn. Vẫn cái áo lương, cái quần chúc bâu trắng gần bạc và vẫn đi guốc. Guốc mới! Trong túi tôi vẫn không có đồng xu nào cả. Đến những hàng hoa, hàng hương, hàng nào hàng ấy đon đả như hát như múa mời khách du xuân, tôi làm ra vẻ rất tự nhiên như mặc cho bọn các ông các bà giao thiệp, còn mình đi chơi là đi chơi. Thật tình trông những bó hải đường, những cành đào, cành mận, những gói hoa, những bao hương... tôi như nghẹn cả người. Nhất là trông những cành đào, cành mận!
Rồi khi cả một làn hương khói và những tiếng chuông, trống, đàn, phách, tấu hát ở trong đền sực lên, thì tôi thấy trong người như rỗng, như hẫng hẳn đi. Tôi khẩn khoản nói với mọi người xin phép đến phố Bờ sông vì có các bạn học cũ hẹn. Vừa bứt khỏi bọn, tôi liền rảo bước vào khu vườn hoa gần đấy! Tôi ngồi xuống một cái ghế đẫm sương, bỏ mũ ra cho đầu bớt nóng, rồi ngả cổ, dang hai cánh tay, mắt nhắm lại.
Một lúc sau, tôi trỗi dậy, nhìn trước nhìn sau ra ngoài đường, rồi đứng lên dựa ghế, bẻ bẻ giật giật một cành cây đang nhú lộc. Tôi cầm cái cành lộc khẳng khiu, lờm xờm và hăng hắc ấy ra đường. Đường không có một bóng người khác. Hai hàng cây cơm nguội luôn luôn rào lên, gió lạnh hun hút. Sương và gió mỗi lúc một tỏa rộng và thổi vang trong tâm hồn tôi.
Tôi lại đọc thơ. Tôi đọc lại tất cả những bài thơ thuộc được của Thế Lữ. Có bài tôi đọc đến lần thứ ba, thứ bốn. Có câu tôi đọc đi đọc lại đến bảy tám lần. Có câu tôi cất hẳn thành tiếng, rung rung ngân nga trào lên cùng những làn gió lạnh buốt.
Cành cây cơm nguội đem về kẹp vào giữa tập sách chữ Pháp. A! Cái màu xanh trên bàn viết của tôi. Tuy chỉ là những điểm xanh xanh nhu nhú nứt nanh. Nhiều khi phải trông rất kỹ mới khỏi lẫn với lần vỏ cây xám mốc, cành gày khô khẳng...
⚝ ❖ ⚝
Tôi đã viết sang phần thứ hai, rồi sang phần thứ ba. Tám mươi trang, chín mươi trang, một trăm... một trăm năm mươi trang. Những trang chữ càng đặc sệt, càng lởm chởm và càng dày lên, thì người tôi càng như bị vắt ra, óc não như bị nạo sâu thêm. Và tôi càng mong càng bặt tin mẹ tôi. Mẹ tôi vào Nghệ An. Chỗ gạo đong ăn tết đến đúng ngày mồng 4 thì hết. Ngày mồng 5 mẹ tôi lại cắp thúng mẹt ra đi. Chiều hôm ấy mẹ tôi về cũng lại làm tôi ngạc nhiên. Gạo trong thúng lại lum lủm, chứ không phải là mấy bơ, mấy bát. Rau, dưa cũng nhiều. Chỉ thiếu có chai nước mắm, thịt và cá, là đầy đủ như hôm ba mươi cháng chạp. Rồi mẹ tôi dúi một hào rưỡi cho riêng tôi để tiêu, đặc biệt là để phòng khi nào hết gạo sẽ ăn quà, và dặn dò nếu "ông ấy" vẫn không chạy vạy tiền đâu được nữa, thì tôi cứ lên nhà bác tôi mà ăn, hay không ăn thì bảo "chúng nó" cho tiền. Cái L. nó không tiếc gì em đâu! Nó bảo sao bà cứ không chịu bảo cậu ấy lên chơi. Tới đây thì tôi thấy như nghe tuyên án vậy.
Thế là tất cả những nơi những chốn ở Hải Phòng để mẹ tôi nhờ cậy đã cùng kiệt rồi. Cũng như có thể chuyến này chúng tôi đành bỏ Hải Phòng để vào trong Vinh mà tìm cách sinh sống thôi. Được! Tôi hẵng chờ, trong khi mẹ tôi đi cầu phong, tôi vẫn cứ phải viết đã. Viết để hoàn thành hẳn hoi một tác phẩm. Viết cũng để không phải nghĩ tới bao nhiêu cái không hay, những điều rất có thể là thê thảm sẽ đến.
Ra giêng năm ấy trời càng rét.
Càng rét vì mưa dầm. Những ngày gió bấc mưa phùn mờ ảm, hun hút như không bao giờ hết. Cửa sổ tôi đã phải đóng chặt lại còn chít thêm giẻ, thêm giấy. Những ngọn gió lùa vừa sắc, vừa nhọn vừa buốt đã bịt được, nhưng khí lạnh vẫn rỉ vào. Lắm lúc tôi chợt thấy mặt, thấy trán như dại, như chết, và ngực đau nhói, nặng nặng tức tối lạ lùng...
Ngày ngày cứ gần về chiều tôi càng thấy như ngồi trong một thứ quan tài vô hình làm bằng hơi ẩm, gió lạnh và bóng mờ. Còn tiếng muỗi đói ran ran ri ri là nền của một dàn bát âm cũng vô hình, trùm lên người mình. Tôi phải đội cả mũ, mặc áo dài, đi giày "giôn" mà ngồi viết. Không thể khoác chăn - muốn thế nào tôi cũng đang là trai tráng - tôi gập đôi chăn kẹp vào bụng và phủ lên cả đầu gối bắp chân để thêm hơi ấm và bớt muỗi đốt.
Với hào rưỡi mẹ tôi giấu cho, không nhớ tôi đã ăn kẹo lạc bánh ngô hay bánh chưng, hay phở, hình như chỉ có kẹo lạc và bánh ngô thì phải. Bánh ngô tôi ăn buổi sáng để chờ bữa cơm chiều. Còn kẹo lạc ăn khuya để nhấm nháp tận hưởng sự ngon ngọt, chống lại cái đói ê ẩm thấm thía vô cùng trong đêm mưa lạnh hoang vắng... Kẹo một xu một chiếc. Bánh cũng thế. Nhiều hôm tôi ăn cả bánh sáng, cả kẹo khuya. Hơn nữa, có buổi mua hẳn hai chiếc ăn. Cũng may tôi đã phải đấu tranh tư tưởng rất quyết liệt mới ăn dè được.
Vẫn thứ giấy ba xu rưỡi ở cái cửa hàng ế vắng gần ngõ nhà.
Chỗ gạo mẹ tôi để lại hết sao mà chóng thế. Một ngày rồi hai ngày rồi ba ngày rồi bốn ngày rồi năm ngày. Tôi không nhớ rõ, sang đến ngày thứ năm nhà không thổi nấu gì ấy, chúng tôi đã ăn uống những gì, và đã ăn uống ở đâu mà sống được. Ông dượng tôi đi đâu, tôi chẳng hỏi mà cũng chẳng cần biết. Tôi đi đâu, có lẽ ông cũng đối xử như thế. Một hôm đi phố, tôi thấy hình như ông ở ngõ nhà bác T. tôi ra, tôi đã tự nhủ: "Chả nhẽ ông lại mò lên đây để kiếm ăn à? Ai chứ bác gái tôi thì đừng hòng mời mọc!" Cũng chả nhẽ ông hỏi xin tiền chị tôi? Đến tôi, tôi cũng không chịu xin, nữa là. Chị L. cũng đã có lần dúi vào tay tôi hai, ba hào nhưng tôi không nhận. Chắc thấy tôi đói phờ cả người mà vẫn không chịu hỏi han gì cả, nên chị đã gói một gói ngô bằng giấy báo tây, buộc sợi len rất đẹp, chờ lúc tôi gần ra khỏi cửa, mới chạy theo, cười cười làm ra vẻ hốt hoảng:
- Ngô này rang nở lắm, con bé học trò nó cho chị để đấy. Cậu lấy một đấu về ăn đọc sách cho vui...
Có lẽ gói ngô này đã là những bữa ăn chính của chúng tôi với nước lã. Nhưng rồi ngô cũng hết. Tôi nhất định không đi đâu nữa, toàn uống nước lã và... viết. Tôi đã sang được chương ba của phần ba. Còn sáu bảy chương nữa là trọn truyện...
Một chiều mưa đã tạnh. Trời vẫn mờ mờ, vẩn vẩn, lạnh ngăn ngắt nhưng đã có khoảng hửng sáng. Tôi viết thêm hai trang thì gục mặt xuống mép bàn, khi ngẩng mặt lên thấy không khí có vẻ khang khác, bèn quay ra nhìn, thì nhận ra cảnh tượng trên đây. Vừa để đỡ mệt và cũng để suy nghĩ thêm, tôi ra chõng nằm, đầu gối lên hai cánh tay khoanh ấp vào nhau, mắt lim dim nhìn ngoài trời.
Ơ! Làm sao đầu tôi lại nặng, mắt tôi lại hoa thế này?
Tôi rút một cánh tay, tôi nặn nặn hai thái dương và cả trán, đoạn nhắm lại, cố lặng thiếp đi một lúc lâu như thường lệ thấy mình mỏi mệt quá! Nhưng lần mở mắt và động đậy đầu tóc này, thì tôi sợ quá. Không phải chỉ có mặt và đầu tôi sa sầm, mà cả người tôi nôn nao một cách lạ như bị bỏ vào một cái thùng tối lăn đi lăn lại. Trán tôi mồ hôi toát ra, lạnh nhớt nhưng lại hầm hập nóng ở bên trong. Tôi thấy gai gai rởn rởn da gà. Thế rồi ngực tôi như có ai đứng dận lên, cả tim lẫn phổi đều ngột ngạt. Tôi bật dậy, ho rũ. Cơn ho đầu tiên vừa dứt, tôi chưa kịp nằm im, lại phải ho. Cứ thế. Cứ thế... Sau cùng tôi phải vào ngồi trong giường, lưng tựa vách, để cố giữ cho khỏi ho và đỡ choáng váng...
Có lẽ lâu lắm tôi mới lại nhớ đến cha tôi, đặc biệt là những ngày ông gần chết. Ông ho ra máu hàng nửa năm. Tôi là đứa bé tớn tạo liều lĩnh nhưng khi đem ống nhổ của ông đi đổ hay quét tro những bãi đờm của ông thì vẫn cứ phải ghê ghê chờn chợn. Đờm của ông như mủ, thứ mủ xanh có lẫn những hột, những vẩn máu tím bầm. Nhà không còn tiền thuốc thang cho ông nhưng ông vẫn phải hút thuốc phiện. Từ một nửa lạng thuốc trong tuần lễ, nay ngày chỉ có nửa đồng cân, rồi hai hào. Có lẽ ông càng ho và chóng chết vì thế. Thường thường những khi ông không hút thuốc mà đọc sách, thì ông ngồi cằm tì lên một đầu gối. Ngừng đọc, ông lại ngả người vào sách, cổ ngật về một bên, mặt thiêm thiếp, hơi thở khò khè.
Từ khi ông ho nặng, ông không đọc sách nữa. Và ông cũng không bảo tôi đọc. Phần vì tôi cũng không muốn gần ông. Tôi còn đi đánh đáo, bẫy chim, trèo cây, kiếm quả. Hỡi ôi, cha tôi đã nghĩ sao mà trong nhà còn một hòm sách cũng khá to, có mấy pho quý như Đông Chu liệt quốc, Tam quốc, Liêu trai chí dị, v.v... và nhiều sách Pháp khác trong đó có cuốn tự vị hiện nay tôi vẫn dùng và nhiều pho truyện như Tê-lê-mạc phiêu lưu ký, Lỗ Bình Sơn phiêu lưu lý, Miếng da lừa, v.v... sao ông không bán đi để lấy thêm tiền mà ăn hút những ngày biết rằng mình sắp hấp hối? Pho Tam quốc đóng làm hai tập. Tập hai bị mất. Tập một sau khi ông mất, tôi đem bán cho một hàng phở xe ở ngã tư phố nhà được một đồng. Bán được tuần lễ có mấy người hàng phố biết việc, xui tôi chuộc lại. Người hàng phở phải cho thêm tôi bốn bát phở thịt nhiều gấp đôi, hành củ thái từng nạm. Pho Đông Chu liệt quốc còn tập một, cô tôi đi đánh chắn, không hiểu cô cho bạn mượn mất hay cũng bán.
Nhớ lại những sự việc trên đây và hình ảnh cha tôi, tôi không còn đủ nước mắt mà khóc nữa! Không phải vì tôi đã khóc ông nhiều suốt luôn mấy tháng, những giờ tôi đi học một mình, những phút ra chơi ngồi dưới các gốc cây các bụi rậm, giơ ảnh ông ra tưởng ngắm, hay những đêm tôi đi chơi khuya trên những quãng đường ông sai đi mua thuốc phiện, dầu lạc và bánh bao kẹo lạc... Cũng không phải vì tôi không còn thương ông, hay ít thương ông. Trái lại, lúc này đây tôi lại càng đau xót. Tôi là con trai độc nhất của ông. Ông cũng là con trai độc nhất của cả một dòng họ. Ông cũng được nuôi ăn học. Tôi tuy không được học nhiều, được học trong một cảnh đầy đủ lâu như ông, nhưng cũng là được đi học. Ông chết năm tôi gần mười hai tuổi. Vậy chỉ vì sống đói rét khổ cực như thế này, nếu tôi cũng mang bệnh như ông, cuối cùng bị thần chết cướp đi, thì thật là ai oán! Năm nay tôi mười bảy. Không đầy sáu năm trời sa sút, mà cả một dòng họ bị lụn tắt. Ông, ông chết, ông còn có tôi và con em tôi. Còn tôi, tôi không vì bắt chợp mà nghĩ đến sự nối tiếp huyết thống đâu! Nhưng tôi vẫn không thể sao không thấy rằng tôi phải có một sự nối tiếp. A! Một sự nối tiếp không bằng máu thịt mà là của tinh thần. Sự nối tiếp của tâm hồn tôi với những cái gì tinh túy nhất, thiêng liêng nhất để lại cho cuộc đời mà tôi yêu dấu.
Đêm ấy về khuya trời càng gió to, càng lạnh. Nhưng không khí khô tạnh, trong nhẹ hẳn đi. Trên cao, qua những vừng mây lớp này cuốn theo lớp khác, đã thấy thấp thoáng mấy vì sao xanh xa thẳm. Và có những làn hương, hương hoa hoàng lan, hương hoa lý nữa. Hương của cả những đồng cỏ xa, những vườn quả khuất. Tiếng các nhà máy cũng rõ hơn. Lắm lúc như có một lớp sóng toàn tiếng vĩ cầm dào lên, rồi tản ra, để lại một thứ tiếng rùng rùng âm vang bát ngát.
Sáng hôm sau, tôi lại dậy lúc tầm nhất Nhà máy tơ. Tôi lại đội mũ mặc áo chùng, ra đi cùng với những thợ thuyền phu phen trong xóm. Chao ôi! Kia rồi, cái bãi gần cảng Sáu Kho, sau Nhà máy tơ trông ra cửa Cấm, sông Bạch Đằng, ra mũi Cát Hải, vịnh Hạ Long và trông ra cả núi Yên Tử và rừng thông Quảng Yên.
Bãi trông càng vắng, càng rộng, cỏ ướt sương đêm và mặt hồ loang mờ khói làm tôi càng thấy mình xa lạ. Chỗ gốc gạo có tảng xi măng cốt sắt bệ cột đèn cũ tôi vẫn để quần áo mũ cho khỏi ướt khỏi lấm, nay lau mọc gần thành bụi. Còn khoảng đất phẳng phiu tôi chạy nhảy, thì không những đầy cỏ mà còn xâm xấp nước. Mặt trời vẫn chìm sau lớp mây xám nhờ. Những ngọn cây và những ống khói thường nhật vẫn nổi lên phấp phới rực rỡ, giờ vẫn im lặng chờ đợi.
Tôi ngần ngại đến bên bệ xi măng. Tôi toan bỏ mũ ra để làm mấy nhịp thở hít, nhưng lại ngồi xuống. Tôi đang mệt, trời lại còn lạnh, tôi chỉ nên ngồi nghỉ, xem cảnh mặt trời lên, chờ có nắng rồi vận động. Như thế cũng có thể đỡ nhức đầu, đỡ choáng váng, để tiếp thêm một phần sinh lực và lấy lại sức mạnh và sự sáng suốt cho tinh thần.
- Lại tính toán ma mị rồi. Muốn sống thì phải đứng ngay lên, cởi áo dài, đi hẳn ra mô đất giữa bãi kia. Chỉ có thế... chỉ có thế... Sáng nay có thể nghỉ viết, chứ không có thể nghỉ tập được. Hay nói một cách khác, nếu không tập thì đừng viết! Đừng hòng mà viết được!
Tất cả những ý nghĩa công dụng của nào chất "cực tím" trong ánh sáng bình minh và "dưỡng khí trong lành" bồi bổ cho cơ thể suy nhược, nào ảnh hưởng của ngoại cảnh với óc não với tinh thần, vân vân... đều nhẹ thếch đi trước những câu gắt, mắng trên đây. Tôi cởi áo, trụt guốc, co co hai khuỷu tay, nhún nhún chân để khởi động. Nhưng chỉ vừa mới nhảy nhảy chân không trên bãi cỏ ướt, nhất là cởi cái áo chùng ra khỏi người, thì tôi bàng hoàng cả người.
Tôi bàng hoàng cả người vì thấy mặt mày tôi sẽ quay cuồng. Tôi phải mau mau ngồi dúi xuống bệ xi măng nếu không sẽ nằm vật ra đất mất. Nghĩa là tôi vừa không chịu nổi cái lạnh, cái rét, vừa không còn đủ sức mà làm những cử động mạnh dù chỉ là nhịp nhàng của bài thể dục đơn giản nhất. Cùng với cái lạnh, cái mệt này, tôi lại thấy cả cái đói nữa. A! Cái đói làm ruột tôi quặn lại hơn là bị thắt bị vò bị xé. Cái đói làm trong người tôi như không thể thi hành những mệnh lệnh của thần kinh chủ đạo được nữa. Tôi thở rít lên một tiếng. Tôi không chạy. Tôi xỏ lại guốc, từ từ nhấp nhô đôi vai vừa thở vừa đi ra ngoài bãi. Mặt trời đang rạng. Qua những ngọn cây gạo và những tầng mây nền mây như có một cửa lò lửa khổng lồ phả lừ lừ ánh sáng ra. Giữa những đám mây đục mờ dần dần rực lên ấy, một lòng đỏ trứng gà bồng bồng nổi ra, tươi mịn ấm ngọt vô cùng. Thoáng chốc, cả đám mây lót chiếc lòng trứng ấy cũng bồng bồng lên theo, mỡ màng đúng như lượt lòng trứng chín sôi trên đĩa mỡ vậy.
Tôi thở thật dài, thật nhẹ và giữ thật lâu không khí; tôi tưởng tượng thêm như có hương mật ong mà miệng tôi đang ngậm sau từng cùi dìa con pha uống với nước cam tươi. Còn mắt tôi thì "ăn" từng miếng bánh mì vàng xốp quệt thứ lòng trứng mặt trời kia. Mồ hôi trán tôi lại xâm xấp, trong người sừng sực. Tôi thở đủ hai mươi bốn nhịp thường lệ rồi thong thả quay vào cái bệ xi măng.
Tôi ngồi xuống vừa lúc mặt tôi lại sa sầm, óc não quay tròn. Tôi gục mặt lên đầu gối một lúc lâu cho thật khỏi choáng váng rồi đội mũ đứng dậy... Trên đường trở về nhà, đến một vòi máy nước, tôi nhìn trước nhìn sau rồi dừng lại cúi xuống, một tay kéo cái núm đồng, ghé miệng vào mà hớp từng hớp thật đầy...