V. CHUNG QUANH CUỐN TIỂU THUYẾT ĐẦU TAY ẤY
Nhưng rồi mẹ tôi cũng phải về, và tôi cũng đã xong thiên truyện ấy.
Mẹ tôi về đang lúc tôi thiu thiu ngủ, bố dượng tôi và tôi ra ngõ ngoài đón, khiêng vào một sọt trầu vỏ. Chuyến hàng này tuy nặng và đã trốn được thuế nhưng chỉ bán được tám chín đồng bạc. Trả tiền nhà rồi, không hiểu mẹ tôi còn trả những tiền gì, - chắc phải là món tiền gạo đong trữ cho chúng tôi ăn - mà quanh quẩn mấy hôm vốn liếng chỉ còn được hơn hai đồng bạc. Mẹ tôi không đi chợ nữa, ở nhà làm bánh khúc bán sáng sớm và tối khuya. Nguyên chỉ vét những hột xôi dính chõ ấy, cũng là một hạnh phúc tuyệt vời của tôi!
... Hôm ấy mưa bụi đôi lúc lại tạnh. Nhưng gió vẫn to và lạnh hút. Bữa cơm chiều tôi ăn lại ít hơn, mồm miệng nhai cứ bã ra. Chương cuối cùng đã được già nửa. Chỉ còn độ hai ba trang viết nữa là tôi sẽ đề ngày, tháng, năm, nơi hoàn thành và ký tên. Chiều còn chạng vạng, tôi cứ lên đèn, ngồi vào bàn viết. Muỗi càng kêu lọng óc. Gió đùng đùng bên ngoài. Thỉnh thoảng tôi lại ngừng bút và lật lật từng mười, hơn mười tờ bản thảo. Năm mươi, bảy mươi... chín mươi, một trăm... một trăm ba mươi... một trăm sáu mươi... Hình như tập bản thảo đầu tiên ấy vào khoảng trăm bảy mươi trang... Và đây, tất cả đã xong. Cả cái câu nói cuối cùng của nhân vật mà tôi nhẩm biết từ tháng trước, tuần trước và trong bữa ăn chiều nay. Cả ba ngôi sao để đánh dấu hết. Cả ngày tháng năm và nơi viết. Cả cái tên làm bút danh, cái tên mà tôi nhất định không thay đổi, cứ giữ y nguyên của bố mẹ đặt cho.
Tôi đã muốn reo, muốn thét, muốn cười, muốn khóc. Tôi đã muốn kêu gọi lên mấy tên người thân thiết yêu dấu và cả yêu đương của tôi. Tôi đã muốn đứng vùng dậy, dang hết cánh tay mà ôm, mà hôn, mà cắn. Tôi đã muốn làm thêm mấy câu thơ để ngâm như hát lên với một cung có thể đứt hơi. Tôi đã muốn cuộn lại, bọc, gói hết sức cẩn thận rồi đề bì gửi ngay đến cho những tờ báo, những nhà xuất bản nổi tiếng. Hay tôi nhất định sẽ không đưa cho ai, đưa đi đâu vội, mà phải cất đi, để lần sau sẽ viết lại lần thứ hai, lần thứ ba, kỳ đến lúc không còn sửa chữa được nữa, và cũng là lúc gặp một người bạn mới, một nhóm người, một tờ báo, một cơ quan nào thật chân chính mới đưa. Tôi đã muốn và đã làm theo tất cả những điều tưởng tượng bấy lâu, những khi nghĩ đến hoàn thành chương cuối cùng của truyện.
Phải! Tôi lại chỉ nằm xuống cái chõng ngắn hẹp của tôi, hai tay khoanh ấp lấy gáy, mắt nhắm lại mà nghe một cảm giác bâng khuâng, nghẹn nấc và tràn đầy trong người giữa những tiếng muỗi ran ran gần như át hết cả mọi tiếng động khác ở chung quanh tôi. Rồi tôi đứng lên, gấp mấy tập bản thảo lại vào cái bìa mỏng, lấy mấy quyển thơ văn của Huy-gô, của Vi-nhi đẹn lên.
Tôi mặc áo chùng, đội mũ, lại ra đi. Từng làn mưa bụi thổi hun hút qua mặt tôi. Tiếng gió như sóng. Đèn điện đường phố mờ mờ. Mấy hiệu thợ may và tạp hóa to vẫn còn khách ra vào. Cửa rạp hát Lạc Mộng Đài đằng đầu đường lại như sáng hơn, đông hơn. Những đèn của các hàng quà bánh, hàng nước, hàng phở giăng ra sáng cả bờ hè bên kia đường. Tiếng rao, tiếng mời chào, tiếng cười nói và tiếng bước chân đến đây dồn lại làm không khí rực hẳn lên với tiếng đàn nhị, trống mõ trong rạp vẳng ra.
Tôi men theo những hàng cây cơm nguội. Nhiều hột nước táp xuống vào cả mặt, gáy tôi. Tôi cứ để yên. Không phải vì không thấy lạnh mà vì bằng lòng, vì vui lòng, vì sung sướng được đằm được thắm cái lạnh của giờ đây. Cái lạnh sao mà ngọt, sao mà dịu của một đêm xuân làm tôi thấy rõ thêm sự ngùn ngụt của một người sung sướng và sự hạnh phúc tràn đầy. Rõ ràng bên tai tôi chỉ có tiếng gió. Nhưng tôi thấy không phải chỉ là tiếng gió mà là tiếng nói của người, tiếng cười của người. Tiếng nói tiếng cười của chính những người đang hoạt động kia tuy không quen thuộc gì tôi, không hiểu biết một chút gì về công việc của tôi, nhưng cũng cười nói lên để tỏ lòng vui mừng với tôi.
Tôi có ý tìm xem mẹ tôi có bán hàng ở đây không. Chính trên quãng đường này, cái đêm trở lạnh ngày trong năm kia, tôi mệt mỏi ở trên phố đi về, thì nghe tiếng mẹ tôi rao: "Ai xôi nóng ra mua, ai xôi nóng ra mua". Tôi đã gọi mẹ tôi, hỏi mẹ tôi còn nhiều không. Lúc ấy đã gần mười giờ, mà chõ xôi mới bán được mấy đĩa. Mẹ tôi ép tôi ăn một đĩa rồi bảo tôi cứ về. Sau buổi hàng ấy mấy hôm, mẹ tôi lại hết vốn, và đó là đĩa quà ngon nhất tôi được ăn từ ngày ra Hải Phòng vậy!
Đêm ấy tôi không thấy mẹ tôi nhưng trông nhiều người sao cũng hao hao giống mẹ tôi thế ở cái dãy hàng quà lúi xúi bên kia rạp hát chuyên bán cho những người kéo xe và những người đi tầm muộn về.
Tôi qua phố Cầu đất rồi lại ngược lên đường sông Lấp, ra cảng Sáu Kho. A! Chính con đường tôi đi đêm giao thừa hơn tháng trước đây. Và đây này cái cây cơm nguội tôi chọn bẻ một cành lộc. Lại còn những cây cơm nguội, những hàng cây cơm nguội cao hơn, tôi đã đi dưới bóng tối ẩm lạnh của nó mà ngâm các bài thơ. Lại còn cả bầu trời mây gió vần vụ, sương tỏa mịt mùng nữa!...
"Sự sống ơi! Cuộc đời ơi! Những ai là người cũng nghèo khổ cùng kiệt đang sống cái cuộc đời lầm than khó khăn và tủi nhục vô cùng nhưng vẫn đáng yêu đáng tin vì nhất định một ngày mai đây những nỗi áp bức bất công, những sự tàn bạo, độc ác sẽ được vạch ra và trừ bỏ đến tận ngọn tận nguồn... những ai là người cùng chung số kiếp với tôi ấy, vì Người, do Người mà tôi đã viết xong được một thiên truyện đấy!... Người cho tôi gửi tặng nhá. Người đọc cho tôi nhá! Người làm chứng cho sự sống của tôi nhá. Người đánh giá việc làm của tôi nhá. Người hãy nhận cho tôi! Người hãy nhận lấy những trang chữ, hãy nhận lấy trọn vẹn trái tim và linh hồn tôi, một đứa con xấu số chỉ có thể sống với cuộc đời của Người, ăn ở với Người cho đến trọn đời.
Tôi đã mở hai cánh tay, nước mắt tràn ra, vừa đi vừa nói thầm, nói thầm rất nhiều như thế...
⚝ ❖ ⚝
Tôi nhất định không lấy những cái tên ấy. Những nàng thôn nữ lạc loài, Một kiếp trầm luân, Người con gái xấu số, hay cô Thắm, cô Hương, cô Sen, cô Lý, hay Một bản án thương tâm, Một linh hồn và đêm tối, Tội lỗi thuộc về ai, vân vân... Tôi gọi hẳn nó là Bỉ vỏ. Theo đúng tiếng lóng của cái xã hội ấy và cũng theo đúng với cuộc đời và câu chuyện của nó, bỉ là con, vỏ là ăn cắp: một con ăn cắp. Cũng như Hải Phòng đã gọi những ngõ Hàng gà, ngõ Tây cụt, ngõ Cô Ba chìa, ngõ Chè chai, ngõ Cố đạo, đường Máy nước hai vòi, đường Thiên lôi, đường Cầu đất, chợ Sắt, chợ Cột đèn, đường Quán bà Mau, hồ Quẹt, ao Than, vườn hoa Nhà kèn, vườn hoa Chéo, vườn hoa Đưa người, vân vân...
Phải, tiểu thuyết Bỉ vỏ là câu chuyện và cuộc đời của một con ăn cắp: Bính hay Tám Bính.
Nhà Bính ở một làng ven sông, bố đi làm nghề chở đò, mẹ và mình làm nghề xay xáo đi các chợ gần chợ xa. Bính đẹp và hiền lành. Chính vì đẹp và hiền lành nên Bính đã bị lừa dối và chịu nhiều nỗi oan ức, nhục nhã đau thương vô cùng.
Bính đã yêu và có mang với một thằng trai trẻ có chữ nghĩa, người thành thị, làm thư ký đạc điền mà Bính những tưởng trao xương gởi thịt. Không thể chịu được những tục lệ cay nghiệt và những tai tiếng quái ác, Bính đẻ xong, phải bỏ làng ra đi. Bính đi để tìm người tình nọ mà Bính vẫn còn nhiều tin yêu, trông cậy. Bính ra đến Hải Phòng. Bính lại liên tiếp sa vào những cảnh thê thảm tàn bạo khác. Bính bị hãm hiếp, bị lừa lọc và trở thành một tội phạm. Chuộc tội cho Bính là một chủ nhà chứa!
Ở đây, Bính đã phải làm nhà thổ, một hạng cùng mạt trong nghề mãi dâm, và cũng đã thấy rằng mình không thể sống được nữa. Vì bệnh tật, vì sự hành hạ và tuyệt vọng, Bính đã định tự tử.
Cứu Bính và khuyên can Bính, làm Bính hồi người lại là một người cũng làm nhà thổ như Bính, nhưng đã ở lâu trong nghề, tâm hồn cũng như thể xác tưởng như đã khô kiệt hoàn toàn. Thế rồi Bính đã được ra khỏi nhà chứa và được có chồng, được làm vợ hẳn hoi. Bính lấy Năm Sài Gòn. Năm Sài Gòn tứ cố vô thân, sống ở Hải Phòng làm nghề du côn, anh chị. Năm Sài Gòn đứng đầu các bọn này vì Năm Sài Gòn đã qua không biết bao nhiêu án tích. Đặc biệt vì Năm Sài Gòn không hề biết sợ. Sợ đổ máu! Không hề biết tiếc! Nhất là tiếc với bạn bè, với những người mà Năm Sài Gòn thích thú, yêu mến, quý trọng.
Nhưng càng được Năm Sài Gòn hết mực chăm sóc, chiều chuộng bao nhiêu, Bính càng lo nghĩ buồn phiền bấy nhiêu. Bính lo nghĩ buồn phiền vì Năm Sài Gòn. Bính không thể tưởng tượng sự sống của Năm Sài Gòn lại ghê sợ, khủng khiếp như thế. Và càng không thể tưởng tượng được một người như thế lại thương yêu mình, là chồng mình, thì Bính lại càng yêu và thương Năm Sài Gòn.
Trong tình yêu thương này, Bính nhất quyết lôi kéo Năm Sài Gòn đi sang con đường khác, con đường bình thường của những người làm ăn lương thiện, mặc dù sẽ khó khăn vất vả, túng thiếu chừng nào Bính cũng sẽ vượt lên, nuôi lại Năm Sài Gòn.
Một lần nữa Bính lại tính lầm. Tất cả những gì là chịu thương chịu khó, phải chăng, êm dịu, ngọt ngào, trìu mến và thương yêu của Bính gần như không thể một mảy may lay chuyển được người chồng ấy. Hai người đã bỏ nhau giữa những ngày sống trở nên khó khăn. Năm Sài Gòn ở lại Hải Phòng, Bính trở về Nam Định. Tình cờ Bính gặp lại người bạn cũ cùng nghề nhà thổ trước với mình. Bính được người ấy giới thiệu rồi lấy chồng mới, làm mật thám gác xà lim. Cuộc đời làm vợ lần thứ hai này cũng có thể là an nhàn sung sướng.
Nhưng rồi Bính cũng lại phải bỏ cuộc đời đó mà đi... Bính ra đi lại làm vợ Năm Sài Gòn. Sang đoạn này Bính theo hẳn Năm Sài Gòn làm nghề ăn cắp. Từ ăn cắp đường, đến ăn cắp trên xe lửa, trên tàu thủy, và từ vụng về đến lành nghề, sành sỏi và cũng tàn bạo như chồng, Bính mỗi lúc cố nhoi lên ánh sáng thì lại bị đẩy, bị kéo sập sâu hơn xuống vực thẳm.
Cuối cùng Bính đã bị bắt cùng Năm Sài Gòn trong một vụ vừa cướp của vừa giết người. Kẻ bị giết là một đứa bé con trai. Thằng bé này chính là đứa con mà Bính đã phải cho đi khi còn đỏ hỏn. Bính thỉnh thoảng còn có được chút hy vọng và thấy cái ý nghĩa sống thoi thóp trong cuộc đời tối tăm của mình, chính là chút hy vọng tìm gặp lại được giọt máu ấy!
Phút giây tra tay vào cặp khóa sắt cũng là phút giây đoàn tụ cuối cùng, rồi vĩnh biệt chồng, con và cuộc đời "tự do" của Bính...
Đã có những bạn đọc và cả những bạn viết trẻ thường hay hỏi tôi bằng thư hay trong những buổi gặp gỡ chuyện trò về công việc viết văn. Rằng Bỉ vỏ là truyện có thật hay không. Nếu là tưởng tượng, là "hư cấu", thì tưởng tượng "hư cấu" đến mức nào? Hay là tôi đã sưu tầm tài liệu, đã sống, đã đi thực tế như thế nào để viết? Nhiều bạn lại còn nghi ngờ tôi phải được ai kể hay "gà" cho thì mới có được một sáng tác như thế. Ấy là không kể nhiều câu hỏi tỉ mỉ và hóc hiểm khác về nào cốt truyện, nào nhân vật, nào ngôn ngữ, nào kỹ thuật, nào tư tưởng, và về cả sự học hành và nghiên cứu, luyện tập nghề nghiệp của tôi, vân vân...
Vậy thì, trong phạm vi chương này, tôi xin phép kể lại một số sự việc và có một số ý kiến sau đây để các bạn tham khảo. Và cũng xin phép được viết không thành mục A, B hay I, II, mà cứ nhớ đến đâu, nghĩ thế nào, tôi viết như thế.
⚝ ❖ ⚝
... Thuở bé, tôi thường phải đọc sách cho cha tôi và bà tôi nghe. Phần nhiều là truyện Tàu thuê mỗi ngày mỗi cuốn một xu, ở một hàng cho thuê truyện kiêm bán ô mai, chuối khô, v.v... Giá bán đề ở mỗi cuốn chỉ có ba hào, thường là của các nhà xuất bản trong Sài Gòn nhưng phải ký quỹ mất một đồng. Bao giờ thuê những pho truyện hay cũng phải chầu chực, hẹn hò và tranh giành nữa. Những cuốn này đều rách như sắp nát ra, phải vá, phải can, phải dán giấy bóng và bằng cả vải nữa. Có tập hình như nhà hàng san bớt ra để thêm cuốn. Vì thế, nhiều cuốn đáng lẽ là năm sáu mươi trang, lại chỉ có bốn mươi, hơn bốn mươi trang, và dày cộp lên, nặng trịch vì bìa bồi thêm, các tờ rách nát phải can phải vá.
Qua những pho truyện này, tôi gần như thuộc được phần nào sử của Trung Quốc ngày xưa, từ đời Phục Hy, Thần Nông, Tam hoàng Ngũ đế với các Lão Tử, Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thái Thượng Lão Quân, Phật Tổ Như Lai, Kiệt, Trụ, Đát Kỷ, Bao Tự, đến Đông Chu, Tây Hán, Đông Hán, Đường, Tống, Thanh... với những Phong thần, Đông Chu liệt quốc, Thất quốc chí, Tây Hán chí, Tam quốc chí, Thuyết Đường, Chinh Đông, Chinh Tây, Phấn Trang lâu, Vạn Huê lâu, Ngũ hổ bình Tây, Bao Công kỳ án, Tống Nhạc Phi, Thủy hử, Càn Long du Giang Nam, Tây du, Liêu trai chí dị, Kim cổ kỳ quan, v.v...
Có những pho cha tôi cứ bắt tôi đọc đi đọc lại, khiến tôi gần như học thuộc. Cả bà tôi cũng thế. Nhưng có những pho tôi tự ý "nghiền" như thế. Thích thú vẫn là những pho tôi rủ mấy thằng bạn mê tiểu thuyết, nghiện tiểu thuyết, kết nghĩa làm anh em để làm một số việc như trong tiểu thuyết, và để góp tiền thuê tiểu thuyết đọc chung với nhau. Việc này chắc không có ở những anh hùng nghĩa hiệp, hào kiệt dị nhân kia!
Hầu hết những sự việc và nhân vật chính của những truyện này đã hằn rất nhanh rất sâu trong tâm hồn và trí nhớ của tôi, còn do tôi được xem diễn những vở tuồng mà tôi say mê hơn cả đọc. Không thể nào có tiền đi xem, nên đành phải tìm các phép, các mưu, các cách giải quyết. Trốn vé, lậu vé, trèo tường, chui cửa. Đóng các thứ kịch: tìm cha, tìm mẹ về nhà ngay có người ốm, người chết. Làm con, làm cháu các ông lính, ông bếp và các cụ nhà quê đi xem. Hầu hạ các ông kép hát, kép đàn, làm quen với các tay kéo phông, quét rạp hay bán bia nước chanh, thuốc lá trong rạp, để được kéo quạt hầu khách sang xem hát mà không lấy tiền công, v.v...
Đát Kỷ mê hoặc Trụ Vương bắt mổ Tỷ Can để xem tim và ăn tim "thất khiếu" của Tỷ Can; Bao Tự buồn bã ủ ê, vua nhà Chu bắt xé hàng kho lụa để chuốc lấy tiếng cười của Bao Tự khi nghe lụa xé. Vợ Ô Hắc Lợi đã chết vẫn còn hiện hồn làm đom đóm tiễn chân đưa dẫn đường cho chồng đi báo thù. Bá Ngọc Sương giữ lời đính ước, lìa bỏ cha mẹ đi tìm La Côn cả ba họ bị tru diệt. Tôn Nhị nương, Cố Đại tẩu quái kiệt trong đám anh hùng khuấy nước chọc trời ở Lương Sơn Bạc. Đỗ Thập nương, gái lầu xanh nhảy xuống sông chết với tất cả châu báu của các khách làng chơi đã say đắm dâng hiến cho mình. Anh hàng bán dầu rong đường si tình đã đem tất cả tiền lãi của một đời đi bán dầu để "hát" một đêm, và anh đã "cảm" được hoa khôi nọ. Nữ tướng hồ ly nhả cả tinh ngọc của mình tu luyện để cứu chữa bệnh người yêu và người yêu xinh trai đẹp mã đã nuốt chửng cả ngọc quay lại giết mình (Tiết Giao đoạt ngọc). Và những hồ ly khác mê say, hào hiệp, tình nghĩa, thủy chung.
Và còn Kiều, - cái con Kiều: Làn thu thủy nét xuân sơn, hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh và Phép nhà tay lựa nên xoang, nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Chao ôi! Cái truyện con Kiều này thì chính bà tôi lại "đọc" cho tôi nghe. Và bà tôi không đọc bằng sách, mà ngâm, và kể với một giọng bây giờ tôi khó lòng được nghe lại. Lúc đoạn này, lúc đoạn khác, cũng vào những buổi trưa nắng vắng vẻ, những chiều thu tàn lạnh, và cả những đêm xuân trong nhà rực hoa đào, hoa cúc, tranh tết, và quả mứt và cơi trầu đều có khăn lụa phủ lên...
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông mặt nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu...
Nổi danh tài sắc một thì
Xôn xao ngoài cửa thiếu gì yến anh
Phận hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương...
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chồng...
Nhà tôi trước bán hàng cơm và chứa trọ. Ngày đó có một người khách đàn bà làm tôi để ý. Tôi phải để ý đến người này vì thấy hình như y bị mọi người trong nhà ghê ghê, sợ sợ và khinh bỉ. Y nằm ở một tấm phản tồi tàn mé trong lối vào nhà bếp. Người xanh bủng, trông còn trẻ mà rã rượi, ốm yếu một cách lạ. Y ăn riêng, bát đũa phải rửa lấy và để ngay ở chỗ mình nằm. Thoạt đầu tôi cũng lây sự ghê ghê sợ sợ của mọi người. Nhưng sau được kín hở biết chuyện về y, rằng y làm nhà thổ, bị bệnh rất nặng, thì tôi lại càng tò mò, muốn có dịp đến gần và xem thế nào. Mặc dầu đã lấy hết sức can đảm, tôi cũng không thực hiện được sự rắp tâm nọ. Vì cứ đến gần y, tôi lại chùn cả người lại vì một thứ mùi hôi thối xộc ra ở chỗ y nằm, đặc biệt là ở ngay người y, khi y lần lần đi qua mặt tôi, hay khi tôi phải bước nhanh qua chỗ y. Cuối cùng, tôi còn thấy thêm một điều lạ này nữa. Không những y còn trẻ mà lại đẹp, và tuy ốm yếu, nhưng y vẫn lẳng lơ khêu gợi trong những lúc y trông hay nghe chuyện một người đàn ông khác có vẻ chú ý đến y.
Sao thế? Sao một người còn trẻ lại đẹp mà phải đi làm nhà thổ và bị bệnh nặng đến thế? Sao con nhà thổ ấy lại có họ với người làm bếp cho nhà tôi? Anh ta rất quê mùa cục mịch thế mà cũng lộ vẻ rẻ rúng khinh bỉ y, chỉ muốn mau mau chong chóng tống táng y đi đâu thì đi!
... Lớn lớn một chút, tôi được biết thêm một người nữa là chị L. Tuy bé nhưng tôi cũng ngượng ngượng vì chị. Chị làm nhà thổ. Chị có họ xa với nhà tôi. Không hiểu sao một hôm tôi lại dám vào cái nhà ghê khiếp của chị L. Chị đang đánh chắn, mặc quần đùi trắng, cởi trần đeo nịt vú, tóc vấn có lúc buột ra xã xượi. Chị vừa ăn phở, húp nước dùng đặc sệt ớt với hồ tiêu cứ xuýt xuýt, vừa lên bài, sắp bài, vừa "bốc" vừa "phát". Chị bắt tôi ăn một bát phở, cho tôi mấy xu, rồi mới cho tôi đi ra. Tôi cầm tiền, chẳng chào, chẳng cảm ơn, ù té chạy. Bẵng đi hàng mấy năm tôi lại gặp chị. Chị về nhà với mẹ và em. Em chị lấy chồng làm thư ký lục lộ. Ở cạnh nhà tôi. Chị cũng gọi tôi trước, kéo tôi vào chỗ chị ngồi. Chị không mặc quần đùi, không cởi trần, đeo nịt vú, mà mặc áo cánh quần dài, chít khăn hẳn hoi. Nhưng vẫn đánh bạc. Vừa "bốc" "phát", vừa hút thuốc. Hút cứ sòng sọc, tỏa khói làm mọi người ho sặc sụa. Người chị đen, gày khẳng, và cũng làm tôi ghê ghê, sợ sợ vì vẫn như là mùi thối của bệnh tật thoảng ra từ người chị. Được ván ù to, chị lại cho tôi mấy xu, bắt tôi luôn luôn sang chơi, đọc truyện cho chị nghe, muốn ăn quà gì cứ bảo chị.
Nhưng lần đó là lần cuối cùng tôi gặp chị. Không hiểu chị đi bán xới ở đâu hay chị chết bệnh cũng ở đâu? Tôi không biết hỏi ai và cũng không dám hỏi ai. Đúng tên chị là Lan.
... Trường học của tôi ở gần trường con gái. Cách trường con gái một mặt đường là nhà thương. Sau nhà thương là nhà tù và Sở mật thám. Không hiểu sao có những buổi đi học, về học, tôi cứ lại qua khu nhà thương và khu nhà tù, cách xa nhà tôi hơn cây số. Và con đường tôi chọn để đi là con đường qua khu nhà gióng trong nhà thương. Ở khu này có mấy dãy nhà không có cửa kính cửa chớp gì cả. Cửa ra vào lắp toàn bằng gióng gỗ lim rất to, ngoàm sắt, chốt sắt, khóa to bằng cái búa tạ. Tít trên cao có một khung cửa gióng nhỏ hơn bằng sắt, xây liền với tường. Hai dãy nhà trông thẳng vào nhau, một dãy nhốt những người điên, một dãy nhốt những nhà thổ. Bên dãy nhà thổ, bao giờ cũng đông hơn. Có lúc tôi trông thấy hàng chục người ở trong ấy. Chao ôi! Thế này thì họ ăn, họ ngủ, họ sống thế nào được? Họ làm nhà thổ nhưng cũng là người mà!
Họ nằm ngồi ở trên giường sắt và cả ở nền xi măng. Chỉ mấy người có quần áo lành lặn hẳn hoi. Còn đều là quần đùi, cởi trần, đeo coóc-xê. Gần như không có ai còn máu mặt, không ai không loét lở sần sùi. Cũng có người trông hơi beo béo và sạch sẽ thì vàng ủng, trắng bợt như phù thũng, và gương mặt hùm hụp lại còn sợ hơn. Những ai tô hô nằm yên mà hát còn khá, nhiều người lại trèo đu lên gióng gỗ cửa mà cười nói, vẫy gọi, khi có các kẻ bên ngoài là đàn ông. Sao họ bị bệnh nặng mà vẫn cứ hát, cứ đùa, cứ trêu cợt? Và họ đã ở nhớp nhúa chật chội lại còn ăn như thế kia thì sống sao được? Cơm mỗi suất đóng thành oản lật đít lên hum hủm đựng mấy con cá khô hay cá ươn kho muối và những cuộng rau muống, rau củ cải đã nẫu, quấn từng búi. Cũng như cơm của tù vậy. Đến giờ ăn, người đưa cơm tháo gióng gỗ ra, lấy chân đá đá cái mâm gỗ đựng những oản cơm vào cho họ, chứ không bước vào nhà họ...
Có những buổi trưa, tôi một mình đứng rất lâu dưới gốc cây đằng xa nhìn xem họ ngủ và nghe họ hát. Tôi nhìn xem và nghe cả những người nét mặt rất dữ rất ác lặng thinh ở mé cửa, ở góc nhà, lầm thầm như đang nguyền rủa. Mấy người này chính là người quần áo lành lặn hẳn hoi, nhưng lại bủng bớt vàng vọt có vẻ bệnh nặng hơn...
Một cảnh sống và một con người tôi muốn kể thêm nữa trong những ngày thơ ấu của tôi là: Cô Tắc Xê.
Cô Tắc Xê ở cùng phố tôi. Nhà tây hai tầng, tường đắp hoa từ chân lên tận nóc như kiểu Nhà hát Tây vậy. Cửa chính, cổng ra vào và cửa sổ đều bằng sắt. Ngoài cửa sắt còn có những khung gióng sắt và bịt lưới sắt. Trông vào nhà - tôi chỉ trông vào được gian nhà dưới và một khoảng trong cổng - không thấy chỗ nào không có đồ đồng, đồ sứ, pha lê, mặt gương, hoành phi, câu đối tranh ảnh. Các thứ kiểu tủ, bàn, ghế, sập, đôn... với một giá gụ cắm xà mâu, đao, chùy, kích, mười tám thứ binh khí ở cửa ra vào. Từ sập gụ khảm xà cừ, đến bàn ghế kiểu đời Càn Long, Khang Hy đến tủ bích phê, bàn rửa mặt chỉ những công sứ, chánh tòa mới có, đều kê bày chật kín cả nhà.
Cô Tắc Xê ở một mình, người hầu hạ có một con sen và một anh xe. Đi phố, đi chơi, cô Tắc Xê ngồi chiếc xe cũng khảm xà cừ, người kéo cũng cuốn xà cạp đỏ, quần áo trắng là, đội nón dứa chum chũm. Hình như tất cả vàng ngọc và nhung lụa, xa tanh, gấm của cả tỉnh đều đắp lên người cô. Từ những hột, dây chuyền, xuyến, vòng, nhẫn, hoa tai, trâm, cúc áo, ví, tráp, hộp phấn sáp, ống vôi, "bót" thuốc lá... đều bằng vàng hay nạm ngọc, cứ quấn quýt, chề chễ, lỉnh kỉnh khắp trên người, trên tay và chung quanh cô. Tôi không thể đoán được phải bao nhiêu sáp và phấn đã trạt lên mặt cô, mà tôi thấy cả đến mặt của những hình nhân của các hàng mã kỳ công nhất, cũng không thể bóng, trắng và mỡ mượt như thế. Mặc dầu vẫn không thể lấp được những nếp nhăn của một khổ mặt to xương và một lớp da đã nhăn đã vỡ.
Năm ấy cô Tắc Xê nghe đâu gần năm mươi hay ngoài năm mươi rồi. Tôi tuy ở cùng phố với cô và là đứa trẻ rất tò mò, nhưng tôi cũng không thể biết được chuyện chồng con của cô, cũng như quê quán, họ hàng, lai lịch của cô. Khi thì thấy đồn chồng cô là một quan tư giám binh, một công sứ, một chánh án. Khi thấy nói chồng cô là những chủ gì chủ gì ở trên Hà Nội, ở trong Sài Gòn. Cũng có người thì thào rằng chồng cô, và là người chồng có con với cô hẳn hoi, hay thật là người đầu tiên ăn nằm với cô, là một cố đạo! Cha này đã phải về Tây, sau khi nhà thờ làm lễ lột da cái bàn tay chuyên cầm mình thánh Chúa cho con chiên chịu lễ!
Đây là những chuyện nghe đồn, nghe nói. Và đây là những điều thật tôi được biết: cô rất hà tiện. Ít thấy cô đi chợ mua sắm gì cả. Nếu có hàng rong nào qua nhà như bán rau, bán thịt, bán cá ế cô mới gọi mua. Bao giờ cô cũng gọi trước mọi người, nhưng bao giờ cô cũng là kẻ trả tiền sau cùng, và thường là rau muống cá vụn hay vài lạng thịt bụng để rim mặn. Không ai ở được lâu với nhà cô. Từ con sen đến người kéo xe. Cả những con sen và người kéo xe nghe nói là người nhà, người họ của cô. Chính những người này ăn mặc trông ra vẻ đấy, nhưng toàn ăn đói, khi đi ngủ thì cửa buồng khóa, cô giữ chìa từ tám giờ tối hôm trước đến sáu giờ sáng hôm sau.
Cửa cổng lại càng nghiêm ngặt. Sau cổng, xích một con chó lài và trong nhà lại còn mấy con nữa. Ở nhà, khi ăn cơm, cô Tắc Xê cũng đánh phấn, mặc quần áo, đeo vàng ngọc đủ lệ bộ. Không hiểu giàu có mà lại ăn uống như thế, sao cô vẫn béo vẫn khỏe. Nghĩa là không thấy cô cân thuốc, hay có cụ lang, quan đốctờ nào đến nhà cô cả!
- Cha con mẹ đẻ mày! Bà làm đĩ, ừ thì bà làm đĩ, nhưng làm đĩ như bà có tàn có tán, có nhang án thờ vua, có trống chùa cầm canh!... Còn hạng đầu đường xó chợ như chúng mày có vào nhà bà giặt váy cho bà cũng không đáng!
Nhiều lần cô đã mua rẻ thịt, rau và còn quàm quắp của người ta. Người bán hàng nhiếc cô, và cũng là những tay bán hàng có sừng có mỏ, cô không thể túm đánh hay gọi đội xếp đến, thì đã vung tay mà chửi như vậy!
Tôi biết rõ không phải vì cô Tắc Xê không muốn chơi bời với ai, nên không thấy ai là bạn bè đến nhà, mà hàng phố như hết thảy bảo nhau không bắt nhời hay nhòm ngó gì đến "Con mẹ Tắc Xê" hết.
- Con mẹ Tắc Xê nó mà chết thì chết thối ra thôi. Chỉ có mõ tòa và cẩm sen đầm ở Nam Định đến nhà nó đi đưa nó!
⚝ ❖ ⚝
... Những ngày mới ra Hải Phòng đi tìm việc và những ngày tôi viết tập truyện ngắn đầu tiên, tiếp đó xây dựng thiên tiểu thuyết Bỉ vỏ, tôi thường qua phố Hạ Lý. Nếu như tôi thường ngồi ở vườn hoa Đưa người mà nghỉ ngơi suy nghĩ, và càng thấm thía vì những cảnh tối tăm không thể tưởng tượng được ở nơi đây, thì khi đi qua phố Hạ Lý, rồi ngồi ở cái vườn hoa bến tàu Tây điếc mà trông ra con sông Tam Bạc và trông sang phố đó, tôi cũng ngạc nhiên đau khổ như thế. Khu này có mấy xưởng nhỏ sửa chữa sà lan, mấy nhà máy nhỏ, mấy kho hàng của Tây và Hoa kiều và cũng nhiều thợ máy, cũng nhiều phu phen, nhưng sao cảnh làm ăn ở đây lại có một vẻ gì khang khác, đặc biệt. Có lẽ vì những nhà máy, những xưởng thợ ấy xập xệ chật chội, và tối tăm quá. Hay cũng vì những kho hàng ấy tồi tàn quá (Nhiều kho đề xây từ hai mươi, ba mươi năm nay, cổng kiểu cuốn thư, lưỡng long chầu nguyệt, nhưng nóc thì trống toác, cửa, cổng không còn gì cả, ăn mày tụ tập nấu khói um, rác rưởi ngập ngụa). Và đằng sau những dãy nhà này, trên bãi sông nơi thợ làm việc lại còn lầm lội, bẩn thỉu hơn.
Phần chính khu phố đây là khu nhà thổ cặn bã của Hải Phòng. Mấy chục gian nhà hai tầng ở ngay đầu phố và giữa phố hầu hết là nhà chứa, tiệm hút. Với mấy chục gian nhà ấy, tính ra có đến mấy trăm buồng. Mỗi buồng là một giường, mỗi buồng đều bưng ván, chịt giấy bịt liếp,... và sùm sụp buông màn che cửa. Quanh năm, chiếu ở trên cao giữa nhà, chỉ có một ngọn đèn vàng khè. Quanh năm nhớp nháp, mờ mờ hôi hám. Cả những ngày tết, ngày lễ. Những ngày tết Tây cũng như tết ta, những ngày lễ lớn mà các công sở đều được nghỉ, kéo cờ, mắc đèn. Không một lúc nào là không có cảnh cười đùa, kêu thét, hát xướng, chửi rủa, giằng xé, ăn uống, cờ bạc, hút xách.
Và quanh năm, bảo rằng ở đây người ta chỉ có đêm không có ngày cũng được, hay không có đêm chỉ có ngày cũng được. Quanh năm người ta chỉ thức không ngủ cũng được, hoặc chỉ ngủ mà không thức cũng được.
Trên đây là một phần lớn những người, những cảnh tôi đã được nghe được biết, được sống trước khi viết tiểu thuyết Bỉ vỏ. Tôi cũng xin phép kể thêm một số truyện của ta như: Anh hàng phở lấy vợ cô đầu, Mồ cô Phượng, Châu về hợp phố, v.v... tôi đã đọc khi còn bé.
Nhưng tất cả những truyện trên cũng như tất cả những tuồng, những phim tôi đã xem đi xem lại, đều chỉ đóng góp một phần nào đấy cho công việc viết của tôi. Là vì trong khi tôi xây dựng Bỉ vỏ, hoàn toàn tôi không tưởng nhớ, nghĩ ngợi gì đến những truyện kia cả. Cũng như khi tôi xây dựng nhân vật chính là Tám Bính, thì tất cả những nhân vật trong các tiểu thuyết hay trong cuộc đời, tôi cũng đều không tưởng nhớ nghĩ ngợi gì đến "họ" cả!
Hình ảnh Tám Bính, con người Tám Bính, cuộc đời Tám Bính, hoàn toàn do tôi tạo nên với tất cả sự tưởng tượng, suy nghĩ của tôi về sự đau khổ mà tôi đang sống và phải sống ở cái xã hội bấy giờ.
Phải! Chính vì sự đau khổ tôi phải sống và đang sống ở cái xã hội bấy giờ nên tôi đã tạo ra Tám Bính bị lừa phản, chịu những oan ức; bệnh tật phá hoại thể xác, tội ác phá hoại tinh thần; con người cứ vùng lên dập xuống, dập xuống lại vùng lên. Trải qua bao nhiêu cảnh đau đớn, tủi nhục, tối tăm, tất cả trái tim và linh hồn bị xẻo, bị nướng, bị tan nát... tất cả những ước mơ trong sáng, tươi thắm đẹp đẽ nhất của cả một đời bị tàn phá... tất cả những gì lành mạnh, cao quý thiêng liêng nhất, thể chất cũng như tinh thần đều bị thay đổi ngoài ý muốn của mình, cuốn đi, xô đi bởi một sức mạnh tàn nhẫn, độc ác vô cùng... Tám Bính lẻ loi, bơ vơ, trơ trọi ấy, cũng có cả một phần tôi và một phần của bao nhiêu người cùng cảnh. Tôi mượn Tám Bính để đưa ra giữa ánh sáng ban ngày của trái đất một sự thật trong những sự thật của một hạng người, một số người. Tôi mượn Tám Bính để làm cho nhiều người thấy có một sự thật trong những sự thật như thế của xã hội.
Tám Bính là một sự sống để làm chứng một đời sống, để làm sống một đời sống. Tám Bính thay tôi để làm chứng, Tám Bính thay tôi để làm chứng cho khách quan hơn, thuyết phục hơn. Tám Bính là một con người để tôi gửi gắm tin cậy, và cũng một con người để tôi đau xót vô cùng. Phải! Chính vì có Tám Bính mà tôi càng thêm thương yêu, càng thêm tin tưởng và có trách nhiệm với sự sống vậy! Hạnh phúc và tình nghĩa biết bao cho tôi! Và cũng lo âu, vất vả, hồi hộp bao nhiêu cho tôi!
Thế là chủ đề và nhân vật tôi đã suy nghĩ tưởng tượng được rồi, trên cơ sở của sự sống mình đã sống, và cuộc đời của những con người tôi dựng hẳn lên. Còn những nhân vật phụ, những sự việc, những tình tiết, những diễn biến, những lớp lang, những cảnh, những đoạn, những hồi, v.v... tôi cũng lại vừa rút ra ở những điều đã mắt thấy tai nghe, vừa sáng tạo hẳn hoàn toàn mới mẻ.
Những cảnh bến tàu hành khách bị lôi kéo và được chào mời quá như bị bắt nợ. Vé mua rêu rao tàu này lấy rẻ hơn tàu kia chênh lệch từng hai xu, ba xu, và mỗi suất vé mua còn được biếu nào một bao thuốc lá, mấy gói chè củ ấu hiệu Chính Thái chính cống, hay một bánh tây hai xu, một phong bánh khảo... Không kể lại có chiếu mới để ngồi, có võng nằm, v.v... Những ngày hội Đại cách mạng Pháp 1789 phá ngục Bátxtin với những người đi xem toàn những trò liếm chảo, chọc nước, nhảy bị, đập nồi, đập niêu, xóc đĩa, chẵn lẻ, ba que, bài tây và trẻ con bị ngã, bị đè, bị lạc kêu khóc như ri. Những vườn hoa còn hoang lạnh tăm tối hơn địa ngục. Những ngõ ngách quái gở. Những mụ chủ và những khách ăn chơi yêng hùng, tên tuổi không là Bạch Liên, Mộng Điệp, Phi Hùng Nga, Lục Kiếm Đồng, v.v... mà là Tài xế Cấu, mụ Béo và những Tư lập lơ, Ba trâu lăn, v.v... Và những nhà tù, ở đây, có những tên mật thám đã bị bọn tù thường phạm bắt ăn cả phân trộn tóc, chứ không phải là những nhà trinh thám kỳ tài gì cả. Và ở đây thành một giang sơn khủng khiếp, đất sống cuối cùng của đám du côn anh chị lừa lọc, xâu xé lẫn nhau, tuy trước kia vẫn cưu mang nhau, thuốc thang khi đau ốm, thăm hỏi quà cáp khi bị vận hạn.
... Tất cả những cảnh, những việc, những hoạt động và những không khí ấy lúc tưởng tượng sắp xếp, cũng như viết ra, tôi đều cố gắng sao cho thật là của tôi! Dù tôi non nớt, dù tôi vụng về, dù tôi không tài không giỏi không lọc lõi, không cao tay nghề, nhưng tôi nhất định không chịu kém trong tinh thần cố gắng, trong công sức sáng tạo, trong cá tính và nét riêng biệt của sự sáng tạo.
Về điểm cá tính và nét riêng biệt này, tôi thấy phải biết tởm lợm, phải biết sạm mặt, nếu vì để có được những "cái đó" mà phải cầu cứu đến sự bịp bợm, làm quỷ thuật, gian dối và trâng tráo, lì lợm. Để có cá tính và nét riêng biệt, ngay từ khi viết những truyện ngắn đầu tiên, nghĩa là ngay từ khi tôi rắp định bước vào nghề văn, làm nghề văn, tôi đã tự nhủ phải làm sao "cái đó" toát lên ở tâm hồn biết yêu thương của mình, ở màu sắc sự sống mà mình diễn tả, ở thái độ trước cuộc đời mà mình suy nghĩ, ở sự gửi gắm của mình với người đọc, ở cái mình đem lại cho người đọc thật có một sự kết đọng cao quý và trân trọng vì nhân sinh không.
⚝ ❖ ⚝
... Tôi đã thành cậu giáo với lớp học hơn mười học trò hẳn hoi chứ không phải chỉ được người ta gọi tên thôi như trước.
Khoảng đầu tháng tư năm 1936 ấy, bà Huề, con trai lớn làm dưới tàu to, còn bà chuyên bán trầu nước thuốc lào ngoài Sáu Kho, cũng thuê nhà của vợ chồng bác Tiểu với tôi, đã nhờ tôi dạy hai thằng con bé của bà. Sau đó nửa tháng, liền thêm ba đứa nữa. Tới khi có cái bé Xuân, cháu bà cụ ở xóm trong, trải mấy thầy dạy mà mặt chữ a b c cũng không thuộc, xin học tôi và cũng học tấn tới, thì tôi dọn vào ở nhà bà cụ ấy. Bà cụ Xuân còn có một cháu gái nữa học lớp ba. Tiền học hai cháu này vừa khoẳm tiền thuê nhà bà cụ. Rồi tháng sau lại thêm hai đứa nữa; tháng sau nữa cũng thế. Chưa đầy bốn tháng mà số học trò lên đến mức làm tôi phải suy nghĩ có lúc cuống cả người lên.
Hơn mười đứa bé ấy, đứa học vỡ lòng, đứa mới biết viết, đứa đã làm tính cộng dễ và viết ám tả bài ngắn, đứa đã bập bẹ le café là cà phê, père là cha, mère là mẹ, v.v... đều ngoan ngoãn tiến bộ trông thấy. Các bài học của chúng, tôi đều nghĩ ra, hay chúng có phải học sách, thì tôi chỉ chọn những bài thích hợp. Càng những đứa trẻ được bố mẹ giới thiệu là tối dạ và nghịch ngợm, lại càng vào nề nếp, chịu khó và trở nên học giỏi. Tất cả những ông bố bà mẹ làm thợ Máy tơ, Xi măng, khuân vác ở Sáu Kho, dệt thảm, đi đan, đi khâu, thầy lang, bồi bếp ở trại lính Tây và dưới tàu to, kéo xe, đội than, xe gạch, đi bán tào phở, xế cấu, xôi, bánh đúc, rau đậu, trứng quả này,... đều hoàn toàn trông cậy ở cậu giáo và nhờ cậu giáo chăm cho con họ sao có thể rồi đây cũng được đi thi như ở các trường ngoài phố, rồi cũng học đến lớp nhì, lớp nhất!
Từ ngày tôi không phải lo tiền nhà và mẹ tôi đong được hẳn từng thúng gạo, - dù phải đong gạo lứa mỗi đồng chỉ được ăn có hơn bảy hào hay tám hào, ấy là chỗ nể nang lắm, - thì tôi yên tâm hơn, trong dạ vui hẳn lên. Tôi không những chỉ đi tập thể dục buổi sáng mà cả buổi chiều. Còn viết, tôi viết cả buổi trưa, cả buổi tối, cả chiều thứ năm, cả ngày chủ nhật. Cái khoảng từ bảy giờ tối đến mười một giờ khuya trong những ngày mùa hè cũng như những ngày mùa rét, thật là quý báu vô cùng đối với tôi. Dù gian nhà thuê mái lá, vách đất, rất chật hẹp, mờ tối và ẩm thấp, vừa để ở, vừa làm lớp học,... dù cả ngày đã khản cả cổ, bù cả đầu, và nhiều lúc chóng cả mặt vì những học trò, nhưng tôi vẫn cho thế là tôi sung sướng lắm, hạnh phúc lắm. Vì tôi còn trẻ, tôi thấy mình sung sức. Tôi có một việc làm được quý trọng, được tin yêu. Tôi được sống một cách căn cơ, và lại còn được viết, viết đều hơn, viết nhiều hơn!
Tôi sửa chữa lại mấy truyện trong tập Những linh hồn đau khổ. Tôi viết những truyện mới. Tôi viết bản thảo lần thứ hai, thứ ba Bỉ vỏ. Và tôi đã gửi bài lên nhà báo trên Hà Nội: Tiểu thuyết thứ Bảy.
Báo Tiểu thuyết thứ Bảy đã bày bán ở cả hiệu sách nhỏ của cái phố đông đúc thợ thuyền phu phen đi về ngoài xóm tôi ở. Từ ngày tôi gửi bài cho báo, tôi càng phải vào hiệu sách này hơn. Tôi mua các thứ ở đây, từ thếp giấy, giấy hạng ba xu rưỡi, đến cái bìa, ngòi bút, và chiếc phong bì. Hôm này thứ này, hôm khác thứ khác, thứ gì đắt tiền thì dành đến hôm báo xuống để xem báo. Ngày ấy, giá báo những năm xu một số, mà chỉ với ba xu người ta có thể ăn được bữa cơm đầu ghế, hay với năm xu thì vào hẳn cao lâu, đàng hoàng gọi lấy bát phở áp chảo giòn với thịt bò, ăn hành tây, rau sống, giấm ớt tha hồ! Vì vậy dù là gửi bài cho báo, nhưng tôi vẫn không dám mua báo. Vì vậy mà tôi phải xem nhờ báo.
Chủ hiệu sách là hai cô. Chị em cô cũng vào tuổi tôi. Cô chị bé nhỏ hơn cô em và có vẻ là người quán xuyến chính. Cha hai cô là một ông phán gì đó về hưu và nhiều của lắm. Tuy chỉ được nhìn thoáng vào trong nhà và cái lối cửa ngõ bên cạnh, tôi cũng đủ thấy những gì là sang trọng, căn cơ và cách biệt. Cũng tủ chè, sập gụ, cũng vườn hoa cây cảnh, cũng nhà gác hai tầng cao rộng kiểu không mới lắm, nhưng gia đình hai cô gần như không giao du với ai, và chợ búa nay thịt mai cá gì cả. Đặc biệt là bà mẹ, tôi gần như không thấy bà ra cửa, ngay cả ra gian hàng sách.
Tôi rất ngượng vì phải xem nhờ báo, dù chỉ mở vội vàng mấy trang, liếc một số bài trong đó. Tôi càng ngượng hơn, từ khi gửi bài, tôi phải tìm tòi hộp thư, và chờ đợi từng số để xem có trả lời mình không. Những số hộp thư in vào trang trong không xén một nửa còn khá, vì tôi còn he hé ra mà đọc. Nhưng hộp thư lại nằm giữa trang ruột, và lại chỉ xén có phía dưới, thì thật là khổ tâm vô cùng. Chả nhẽ đã trót bỏ ra những ba xu rưỡi mua một thếp giấy còn lâu mới dùng hay quyển vở năm xu rồi sẽ phải bán lại cho học trò, mà biết số báo có tin cho các bạn gửi bài lại không được đọc! Tôi đã đỏ chín cả tai, chóng cả mặt, khi phải kệnh kệnh hẳn ruột trang sách lên, nghiêng nghiêng xoay chiều này giở chiều khác để xem xét. Tôi tưởng như mình là một kẻ có ý gian, nhà người ta đã khép cửa, còn cố ý nhìn vào, dù chỉ hé cửa nhìn...
Cuối cùng tôi phải đi một hiệu sách khác. Vì tôi có cảm giác rằng hai cô này, nhất là cô chị người bé nhỏ, ăn nói rất chặt chẽ, cặp mắt nhìn xét nét một cách rất nghiệt rất tinh, đã biết tôi có bài gửi đăng báo, tôi viết văn. Chao ôi! Anh chàng nhà giáo cà khổ, dạy ở một lớp không bằng cái gian nhà bếp, bằng cái nhà xe của hai cô kia, mà cũng định làm nhà báo, làm nhà văn đấy! Làm nhà báo và nhà văn như cái ngữ tôi thì để cho ai đọc?! Và biết đâu, dù hết sức giữ gìn đúng mực, từ cách ăn mặc, đi, đứng, hỏi, nói, tôi vẫn cứ làm người ta thấy, làm người ta nghĩ rằng tôi cũng chỉ là cái hạng văn sĩ, nhà báo viết văn, viết báo để... "chim gái" thì sao?!
Rồi chính là để tôi được sống trọn vẹn một cách thi vị và thiêng liêng với những công việc âm thầm của mình, nên tôi nhất định không đến hiệu sách của hai cô ngoài phố.
Bẵng đi một tuần, rồi hai tuần. Rồi một tối, ở một cửa hiệu vừa làm chi nhánh nhà thuốc lậu Hồng Khê dược phòng, vừa bán báo, tôi mở tờ Tiểu thuyết thứ Bảy ra xem, thì thấy rao số báo sau, trong những nhà văn "tên tuổi", đương thời sẽ có bài của tôi. Cố nhiên là kèm theo tên tôi. Tôi còn nghẹn ngào hơn, vì thấy số báo trước trong hộp thư cũng có tên tôi, mà tôi đã bỏ không chịu tìm đọc!
Tôi đã tưởng ngay tối hôm đó tôi về nhà sẽ có thể sửa chữa thêm mấy truyện đặc sắc nữa để gửi tiếp. Nhưng trong người cứ như bị rỗng hẳn đi, náo nức, rạo rực, bâng khuâng, không thể nào ngồi yên bên bàn, không thể nào cầm lâu được bút mà viết ra thành chữ! Phải chăng tôi như đã trúng số độc đắc với một món tiền hàng vạn? Không! Hơn thế! Phải chăng tôi như một ông tướng cố thắng một trận lớn nào đấy để lưu danh với đời? Cũng hơn thế!... Tôi thấy hơn thế, vì tôi không đánh số để lấy tiền, cũng như không phải xuất trận để lưu danh. Tôi đã lấy cả cuộc đời và trái tim và tâm hồn tư tưởng của mình, tôi đã đem tất cả hơi sức, hy vọng và lòng tin của mình để đánh cái số này, để đánh cái trận này...
Ngày ấy, riêng chỗ nhà tôi ở cũng có thể coi là một xóm. Hơn một chục gia đình sống chung ngõ, chung sân, gian nọ liền gian kia. Phần đông là đàn bà con gái làm ở cảng Sáu Kho. Nếu như sáng sáng tôi cùng họ ra đi, thì cũng đến khuya tôi mới cùng họ nghỉ. Chiếc đèn làm việc của tôi đã là một cây đèn bầu thủy tinh xanh biếc, thông phong cao như một cây nến, và có chao màu xanh dịu bằng bìa giấy gấp chếp nếp tôi làm lấy. Nhiều lúc tôi như nghe cả thấy tiếng còi tàu gọi ùm ùm trên sông, và tiếng ầm ầm không dứt của những máy cần trục mà gió biển thổi vang tỏa làm đêm khuya càng thêm sâu lặng. Vùng ánh sáng ngoài phía đó cũng nhiều lúc như mở ngay ra trên xóm tôi, dưới bầu trời sao.
Thường tôi viết và sửa chữa các truyện ngắn những ngày thứ năm, chủ nhật. Còn các tối ngày thường, tôi sửa chữa viết lại tiểu thuyết. Sang bản thảo thứ ba, tôi càng thấy ham. Tôi không viết bằng thứ giấy ba xu rưỡi một thếp nữa. Tôi mua thứ giấy trắng kẻ sẵn năm xu một thếp. Đang sửa viết lại chương bốn, chương năm phần một, tôi thấy còn cần phải sửa và viết luôn lần thứ bốn hay lần thứ năm. Nhìn từng thếp, từng thếp bản thảo mới cồm cộm thành tập ở trước mặt, và ở một bên mép bàn lại còn thêm một chồng bản thảo cũ, sao mà thấy mình giàu có, đáng tin và nhất là có thể tự hào! Những cảnh, những việc, những nhân vật cứ lần lần càng như bụ bẫm lớn chắc. Đôi lúc tưởng chừng như là những đứa con từ mười ba, mười bốn tuổi chuyển lên mười sáu, mười bảy tuổi vậy. Hay như những bức tranh những đoạn phim đang mờ tối, lộn xộn, ngây ngô bỗng thay đổi rực rỡ, nhịp nhàng, ý nhị.
Nhiều đêm, không những tôi chỉ ngồi nghe những bước đi về muộn nhất từ ngoài ngõ vào, mà rồi còn nghe cả những tiếng ngáy giòn của những người này, nghe cả những tiếng vỗ về nói mê nậng con và những tiếng ụt ịt làu bàu của những đứa bé còn bú sữa thấy hơi mẹ, mà mẹ thì mệt thiếp không còn thấy còn biết gì cả. Những nhân vật của tôi nhiều đêm cũng quấn rúc tôi như thế, và tôi cũng mệt thiếp như thế.
Vào khoảng tháng mười một thì tôi xong bản thảo lần cuối cùng. Tháng mười hai tôi ở Hải Phòng về Nam Định.
Cho tới bấy giờ tôi vẫn chưa có ý gì hoặc đưa xuất bản, gửi đăng báo. Hay dự thi giải thưởng này giải thưởng khác. Tôi chỉ yên tâm là đã viết xong một tác phẩm dài một cách thận trọng và sung sướng với một niềm bâng khuâng rất thi vị. Thôi thì không cho đăng báo, xuất bản và dự thi giải thưởng cũng được, nhưng tôi không thể không có một thời giờ nghỉ ngơi để lấy thêm sức, như một người mẹ sau khi sinh nở. Vậy thì tôi nhất định về Nam Định. Tôi về quê hương, như một cô gái lưu lạc đã có một tấm chồng đứng đắn giỏi giang. Tôi về quê hương cũng như một người đàn bà chăm chỉ đảm đang nghèo khó xiêu bạt, nay đã có cơ bản sinh sống và con cái đàng hoàng tử tế...
Tôi đưa "người chồng và đứa con" ấy về trước hết để thăm hỏi các người xưa chốn cũ quen thuộc thân tình, sau xem sau phong cảnh làm ăn của mọi người thay đổi ra sao. Đầu tiên tôi lại đến khu trường cũ, rồi đi tìm mấy người bạn học cũ. Xen vào công việc này, tôi đi viếng mộ cha tôi, mộ bà nội tôi và nhìn lại mấy chỗ ở ngày xưa, đặc biệt là cái nhà nơi sinh anh em tôi mà cha tôi đã bán đi...
Người thứ nhất tôi gặp là anh Th. đã học cùng trường với tôi, sau tôi hai lớp. Chúng tôi thường đi về với nhau. Chúng tôi thân nhau, mê nhau không phải chỉ vì tiểu thuyết mà còn vì đá bóng. Anh cũng mồ côi cha nhưng nhà giàu có. Bà mẹ anh rất nghiêm, nên anh chỉ đến trường mới đá, chứ không như tôi chơi nghịch cả trưa, cả chiều, khi thì ở bờ hè, khi ở giữa đường, nắng cháy vàng cả tóc, đen nhẻm cả người. Chỉ với quả bóng bằng nắm tay - quả bóng quần vợt rất được trẻ con ham thích lúc bấy giờ. Sau anh cùng vào đội bóng của nhà trường với tôi.
Tôi đón anh đi học về. Anh bị học "đúp" lớp nhất. Tôi không ngờ anh vẫn còn đi học, nhất là vẫn học ở cái trường Gốc Ngái ấy. Đầu tiên, tôi chầm vập hỏi anh và chuyện với anh về đá bóng, các bạn đá bóng cũ nay còn những ai, và những chân đá cừ của các trường khác, của các đội khác thuộc hạng ngổ ngáo đá ác đá dữ mà chúng tôi kình địch, đã được lên loại rồi.
Anh vồn vã chuyện trò nhưng chỉ sau ít phút anh cười hóm hỉnh nhìn vào mặt tôi mà hỏi:
- Cậu viết nhiều cho Tiểu thuyết thứ Bảy thế có được tiền không?
Tôi như bị hẫng, luống cuống vô cùng. Sao? Viết văn viết truyện để lấy tiền à? Mà sao viết nhiều thì lại được tiền?! Giờ tôi mới nhận ra thêm nhiều cái khang khác ở người bạn cũ ấy. Anh đội mũ dạ bẻ vành cúp xuống trán, mặc áo xa tanh hoa, quần trắng là, xăng đan có mũi như mũi giày. Anh cao hơn tôi gần nửa cái đầu, mặt đã sần sần điểm trứng cá, mép nhìn kỹ thấy lún phún ria hẳn hoi chứ không phải lông măng. Tiếng anh nói đã vỡ hẳn, giọng nói cũng từ tốn như trước nhưng chững chạc gần như của một người đã ra đời có từng trải. Sách vở của anh có lẽ thằng em anh mang trong cặp của nó. Anh đi cúi cúi đầu, tiếp chuyện tôi như có vẻ giữ gìn với người hai bên phố. Một người lạ nào đó sẽ tưởng anh là một thầy giáo hẳn hoi giữa những đám học trò rào rào như ong như chim.
Mặc dầu thấy cách ăn mặc đi đứng và nói năng khác hẳn trước, và mặc dầu anh đã hỏi tôi một câu quá sức tưởng tượng của tôi ấy, tôi vẫn như muốn cởi thêm ruột thêm gan cho anh:
- Mình viết truyện đăng báo ấy à, nếu nhà báo nó có bảo trả tiền mình thì mình sẽ... (tôi đỏ tía mặt lên, cổ họng như bị bóp) Th. ạ, viết văn chứ không bán văn, bán trái tim, bán linh hồn! Viết lấy tiền sẽ bị lệ thuộc thành thằng bồi! Văn chương mà đem đổi lấy tiền thì khốn nạn quá... khốn nạn vô cùng!...
Anh Th. vẫn cười bằng đôi mắt hóm hỉnh, và giọng nói anh vẫn rất bình tĩnh tự nhiên:
- Mình hỏi cậu thế để biết rõ thêm cậu. Những truyện của cậu mình đọc rất kỹ, khuynh hướng của cậu thế nào mình thấy cả.
Th. gật gù:
- Bao giờ cũng như bao giờ, viết văn, viết báo chân chính phải như thế... phải như thế. Thôi được!... Mình với cậu sẽ nói chuyện nhiều thêm với nhau về con đường lý tưởng.
Tôi rưng rưng cả người, muốn ôm lấy Th. Tôi không lầm, người bạn nhỏ cũng mê tiểu thuyết, thích văn chương của tôi sẽ lại cùng tiến với tôi trong cuộc đời, nhằm chung một mục đích.
- Th. có viết được nhiều không? Ông V. anh Th. có hay lên Hà Nội không, có giúp Th. viết lách gì không?
Giờ đến lượt Th. đỏ mặt lên:
- Mình viết xoàng lắm, có mấy cốt truyện mình nhường cả cho ông V. ông ấy viết. Vả lại ông V. ông ấy cũng bận lắm! Ông ấy đang soạn một trường giang tiểu thuyết tâm lý và xã hội... Cậu có chủ trương chuyên về tiểu thuyết xã hội nhỉ... Cậu vừa xong một cuốn khá dài phải không?
Tôi cuống quýt mở ngay tập bản thảo Bỉ vỏ thuê đóng rất cẩn thận đưa cho Th. Và không đợi Th. hỏi, tôi liền kể ngay với Th. tất cả những gì tôi đã nghĩ, đã định, đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tay đó. Đặc biệt tôi nói hết với Th. những cái mà tôi cho là đặc sắc, là độc đáo, là mới lạ, là có một giá trị sẽ được công nhận của tác phẩm. Trong khi tôi sôi nổi và nói nhiều quá đến gần thành choáng váng, thì Th. giở giở lật lật chăm chú xem xét nhiều đoạn, nhiều trang của tôi vừa giới thiệu.
- Khá lắm! Khá lắm! Mình chỉ mới đọc qua mà cũng đã thấy có một cái gì rất lạ rồi! Thôi này, thế cậu để Bỉ vỏ cho mình đọc và có thể cậu cứ giao toàn quyền cho mình. Mình sẽ giới thiệu cậu thêm với ông V. Nhất định ông V. sẽ còn đánh giá cậu hơn mình đánh giá cậu. Nghĩa là ông ấy thế nào cũng giới thiệu lại cậu với các... (Th. kể một lô một xốc những tên tuổi đàn anh, đàn chị, bực thầy, bực ông, tiếng tăm như cồn như sóng lúc bấy giờ). Các tay ấy sẽ đọc, sẽ lăng xê cậu. Chả tội gì Hồng ạ! Ra đời muốn thế nào thì thế cũng phải có cánh. Và muốn tài năng thế nào thì thế, mà không được lăng xê thì cũng bị nghỉm đi. Mình tuy chưa có bài đăng nhiều như cậu, nhưng mình quen biết khá nhiều cái xã hội ấy. Mình sẽ ân hận vô cùng nếu để cậu cứ lụi hụi mãi, rồi mai một đi! Thà mình chịu thua chịu thiệt, chứ cậu mà chịu thua chịu thiệt, thì mình...!
Tôi nắm lấy Th. và run run nói bằng tiếng Pháp:
- Cám ơn Th., cảm ơn thằng Th. vô cùng tin yêu của mình! Thế Th. giữ lấy cuốn tiểu thuyết của mình và điều cốt yếu cần nhớ, là mình không cần tiền đâu đấy!
⚝ ❖ ⚝
Tôi như được chắp cánh thêm sau cuộc gặp gỡ Th. Với những cánh mới này, tôi càng man mát, bâng khuâng đi trên đường phố của tỉnh quê hương. Tôi lại tìm đến một người bạn cũ rất thân khác. Anh Nguyễn Ngọc M.
Anh M. đã học với tôi từ lớp nhì năm thứ nhất, lớp nhì năm thứ hai và lớp nhất rồi "đúp" lớp nhất với nhau. Có thể nói là anh M. gày yếu nhất lớp, hiền lành nhất lớp. Chân tay như cẳng gà, áo nào mặc cũng thấy rộng, cũng không thể bớt được vẻ gày yếu của cái thân hình bấy bớt và nhẹ thỏm của anh. Gương mặt anh thật là trái xoan, da anh còn trắng hơn ngó cần. Cả bàn tay cũng trắng muốt. Anh cũng có má hồng. Cái má chỉ hồng ở chỗ xương gồ những lúc e thẹn quá đỗi hay phải làm gì, chịu gì quá sức. Mắt anh cũng sáng. Thứ sáng long lanh của con trai thông minh, ý nhị, nhưng ít hoạt động. Tóc anh đúng là tóc mây, không cần chải chuốt cũng óng mượt một cách lạ.
Những lớp trước anh thường ngồi cùng hàng ghế với tôi. Đến năm "đúp" lớp nhất thì ngồi cạnh tôi.
Có lẽ vì học "đúp" nên chúng tôi trở nên loại khá năm ấy. Cũng vì thuộc vào loại khá nên chúng tôi càng thân nhau. Anh càng thân với tôi, vì tôi còn khá cả nghịch nữa. Mỗi lần lên bảng, thế nào anh cũng bị tôi thích cùi tay vào mạng mỡ hay cấu ngầm vào lòng bàn tay để dọa anh. Anh vốn đã dút dát nên khi đọc bài trước bàn thầy giáo lại càng luống cuống. Mặt anh đỏ ửng ngay từ lúc thầy gọi tên, rồi từ lúc anh lập cà lập cập bước ra khỏi hàng lên ghế, cạnh bục ngồi của thầy giáo, thì mặt anh cứ tái đi xanh xám lại. Vai anh đã hóp, cánh tay anh đã khẳng khiu, anh còn rúm lại để khoanh tay và run run vì phải cố sức dằn lên sự lo sợ và quên lẫn. Trông người anh lại càng thương.
Chính vì càng thương anh M., nên tôi càng lôi kéo anh vào các cuộc chơi. Nhất là đá bóng quần hay đá cầu lông. Đá bóng quần không bao giờ anh dám giữ các chân chạy. Vả lại lớp cũng không bao giờ dám cắt anh vào những chân này, để các địch thủ ăn tái anh. Vừa bị thua bàn, vừa thấy anh bị cướp ngon bóng, bị "cựa", thì có là đất thó cũng không chịu được! Ác nỗi, đá bóng anh còn giữ gôn được, dựa vào hàng tiền vệ và tiền đạo ngổ ngáo, liều mạng và có nhiều chân giỏi. Nghĩa là các bạn tôi hay tôi còn đỡ được cho anh nhiều thứ đòn, để anh chỉ có việc chộp nhẹ lấy quả bóng đối phương sút vào thành, sau đó chúng tôi cũng phải dàn ra che chở cho anh đá phát bóng đi. Nghĩa là chúng tôi có thể chèn, ẩy với đủ các xiếc thuật cho anh lập công. Nhưng đến những trận bàn tôi phải đá đấu giải cầu lông với các bàn khác thì không còn cách nào mà thay anh được. Bởi vậy cứ đến lượt chúng tôi được từ ngoài đá vào, thì tôi thật là vất vả. Bàn có bốn người, anh với tôi là lớn là biết đá, cố nhiên phải đi giữa hay