← Quay lại trang sách

VII. MỘT BẦU TRỜI CỦA TUỔI XUÂN

VII. MỘT BẦU TRỜI CỦA TUỔI XUÂN

Tôi lại lên Hà Nội.

Lần này, không có cái hòm to kệnh sách báo, bản thảo và quần áo phải thuê xe tay kéo nữa. Cũng không còn cả ý nghĩ, những tính toán học hành, ăn ở, sinh sống như kiểu của những thày dòng khổ tu năm trước. Tôi lên xe lửa rồi xuống ga chính đi giữa các phố Hà Nội thênh thênh với chiếc cặp da. Tôi đi để tìm các bạn làm thơ, viết truyện, viết báo. Tôi đi để dự cuộc biểu tình lớn đấu tranh ngày Một tháng Năm đang chuẩn bị ráo riết.

Hà Nội, lâu nay và nhất là trong thời kỳ này càng được cuốn vào một không khí vui vẻ trẻ trung mà chỉ ở kinh đô, ở Hà thành mới có. Các thứ chợ phiên với các cuộc thi sắc đẹp, xe hoa, dạ vũ và cả sòng bạc nữa, liên tiếp mở ra. Các phố, các xóm cô đầu Khâm Thiên, Vạn Thái, Vân Hồ, Gia Quất cùng với các "bar" "đăng xinh" không mấy phố không có, và đều suốt đêm đèn sáng, đàn hát, ăn hút, mở kèn... Tin hội chợ sẽ mở ở khu Đấu xảo đồn đi, nào cả vợ chồng Bảo Đại trong Huế và các thứ quan gỉ quan gì, ông gỉ ông gì ở bên Tây nữa sẽ dự khai mạc, đã làm nhiều người bàn tán. Nhưng cũng không bằng cái tin cho đấu thầu mở sòng bạc, tiệm nhảy và cao lâu ở ngay khu đây. Thấy nói những bà trùm, ông trùm cô đầu và gái nhảy lừng tiếng nọ đang kình nhau ở các cửa thống sứ, đốc lý và mật thám. Trong khi ấy các trùm cờ bạc và lái chợ phiên có cả quan lớn Tây lớn ta, toàn những tai to, mặt lớn, cũng đang trả miếng nhau ở các hậu trường về những áp phe đặc biệt này.

Các thứ báo, thứ sách với những bài mục, những cái tên khêu gợi một cách hết sức trâng tráo và quái quỷ cùng với những bài hát ta theo điệu Tây bợm bãi không kém, thi nhau quảng cáo, dúi vào tay thanh niên và những học sinh lớn học hành dở dang. Một số tên "kiều diễm" của Hà thành hoa lệ và của màn bạc Mỹ, đã thành những thần tượng của trai gái. Tiêu chuẩn về tri thức và thẩm mỹ của họ là thuộc lòng, là tán giỏi, là đoán biết được có bao nhiêu người chiêm ngưỡng và có những nét đặc sắc kỳ lạ gì trong sự thưởng thức những trò, những ngón, những điệu, những thích thú riêng của những ngôi sao nọ. Đã có những cuộc thi "đẹp", thi "lạ", thi "nhớ", thi "thích" với những tặng thưởng rất rầm rộ, về màu tóc, cách đánh quầng mắt, uốn lông mi, kiểu cười, về những cái hôn đã hôn những ai và hôn "Mỹ" nhất với ai, về tiền lương và hoa hồng của những ngôi sao đã đóng những bộ phim có tiếng, về những biệt thự và bãi biển nào đã có hân hạnh được họ ở và quay phim, v.v...

Còn quốc tế dân sinh, xã hội, chính trị thì được tập trung sức chú ý vào sự kiện này. Trong cuộc tranh cử nghị trưởng dân biểu Bắc Kỳ ai sẽ thắng. Chủ nuôi ngựa thi Phạm Huy Lục, hay chủ ruộng Bắc Ninh và cửa hàng tơ lụa Hà Nội Vũ Văn An? Cũng có những bàn bạc, những theo dõi, nghe ngóng về công việc này. Đó là một phiếu bầu sẽ bán và sẽ phải mua bao nhiêu tiền? Những chầu hát ở Khâm Thiên và tiệc ăn ở Mỹ Kinh, Đông Hưng Viên, Mê-trô-pôn sẽ chi bao nhiêu? Cụ thể là những món, những khoản gì, từ tiền trợ cấp quỹ đen đến những vụ bỏ thầu, những món hàng, những đồn điền mua bán kiếm chác được là bao nhiêu?

... Tôi phải đi tìm Như Phong.

Nhà Như Phong ở ngay trước chợ Đồng Xuân. Cách hai nhà là hiệu sách Đồng Xuân, cơ quan bán và phát hành các sách báo "của ta" ở trong nước và cả của bên Tây nữa lúc bấy giờ.

Tôi không quen Như Phong. Tôi đã chú ý đặc biệt đến anh không hẳn vì anh và tôi đã được Tiểu thuyết thứ Bảy giới thiệu và in nhiều bài của nhau. Chính là do những truyện của anh mà tôi thấy có một cái gì rung cảm, tươi thắm và có sự suy nghĩ cũng khác hẳn những truyện cùng đăng với chúng tôi hay những truyện ở những báo cũng nổi tiếng thời đó. Trước đó tôi gặp anh Cao Thọ Ân ở chi nhánh tòa báo Thời thế của Hải Phòng. Cao Thọ Ân cũng là một học sinh. Anh đỗ bằng cao đẳng tiểu học rồi nhưng không đi làm mà ở nhà viết. Anh thích và có ý định chuyên về kịch. Nghĩ đến lực lượng sau đây gồm có những ngòi bút mới, kẻ ở ngoài vùng mỏ sẽ chuyên về phóng sự như Văn Trọng, kẻ sẽ chuyên về truyện ngắn, kịch như Cao Thọ Ân, Như Phong và một số bạn cùng có hoài bão về một nền văn học chân chính, tôi càng khấp khởi vui mừng và càng nôn nóng muốn cùng nhau nhóm họp lại để làm việc.

Tôi càng không thể không hồi hộp trong khi chuyện với Như Phong thấy anh không những chỉ có cảm tình với phong trào cách mạng, mà cũng đang nghiên cứu và thấy rằng con đường lý tưởng một đời của mình, của tuổi thanh niên yêu dấu tha thiết của mình, của sự nghiệp văn học thiêng liêng cao quý vô cùng của mình, chỉ có thể đi với cách mạng, tiến bước dưới ánh sáng của một chủ nghĩa cách mạng khoa học: chủ nghĩa Mác.

Điều gần cận nhất và cũng là sâu xa nhất đối với chúng tôi là tập hợp nhau và hoạt động để thêm sức sống, thêm sự say mê và lòng tin tưởng ở cuộc sống, thêm ý nghĩa cho ngòi bút chúng tôi mà không thể có quyền lực nào mua chuộc, lung lạc nổi. Và nếu như chúng tôi đã tự hào vô cùng, sung sướng vô cùng đem ngòi bút đó viết cho con người, viết cho sự sống, thì chúng tôi phải là những ngòi bút biết tố cáo, biết phá bỏ và biết xây dựng: ngòi bút của cách mạng, của tư tưởng cộng sản.

Phải, chỉ có ý thức như thế và làm theo như thế chúng tôi mới thật sự được sống say mê, tin tưởng, và phát triển tất cả những khả năng dồi dào, tươi tốt, những sức mạnh của tâm hồn và trí tuệ của mình...

Tôi được biết Như Phong có một người chú, họ thúc bá với cha anh, bỏ nhà sang Pháp, vừa đi làm vừa học và hoạt động chính trị, hình như đã chết ở bên ấy. Tên ông chú này anh lấy làm bút danh của mình. Lòng quyết tâm đem đánh đổi cả một cuộc đời để lấy cái hạnh phúc được sống theo lý tưởng của người chú nọ, rất nên thơ, rất kích động anh, cùng với những chuyện, những sự việc và những con người cao quý, chân chính hy sinh anh dũng của các phong trào cách mạng trong nước đã dội mạnh vào sự suy nghĩ và đời sống niên thiếu của anh.

Chúng tôi ở một gian gác có đủ tủ sách và bàn viết. Gian trong là nhà thờ lặng lẽ, nền nếp, bề thế. Trước phòng chúng tôi là sân thượng trông thẳng xuống chỗ tàu điện và cửa chính chợ Đồng Xuân. Trên sân thượng này, có những buổi chúng tôi đi chơi khuya về, không chuyện trò với nhau nữa về các thứ Liêu trai chí dị, Kim cổ kỳ quan, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, ca dao, tục ngữ, Maxime Gorky, Romain Rolland, v.v..., thì chúng tôi xoay trần mà hát toáng lên. Chúng tôi hát những bài Toàn thế giới sấm đã nổ vang rền, Bớ công nông phất cờ lên, mà tôi có cái hãnh diện đã học thuộc do các anh Ch. và Tr. ở Hải Phòng dạy, nay dạy lại ông bạn Như Phong rất mèng, về hát nọ, tuy tôi cũng vào loại hát kha khá là tồi vậy.

Đúng vào những ngày cuối xuân sang hè 1938.

Càng về các cửa ô, càng xa các phố chính của Hà Nội, không khí của cuộc biểu tình vừa diễn ra càng thấy lớn mạnh lạ lùng. Không phải chỉ ở những câu chuyện rất khác nhau, những điều bàn tán hết sức ngạc nhiên, những sự việc gần như không tưởng tượng, lường ước được. Mà còn chính ở những nét mặt, những giọng nói, những bước chân của mỗi người đều có một cái gì bừng bừng, cuồn cuộn, xô đẩy nhau như muốn băng tràn đi, vùng mạnh và mở rộng thêm nữa cái không khí đã nhóm lên ngùn ngụt trong người mình, chung quanh mình.

Vẫn còn những tốp, những nhóm, những đám, những đoàn... Vẫn thành hàng đi như trong đội ngũ... Thợ máy ở các nhà máy lớn, các xưởng to, thợ thủ công, các ngành dệt, ngành giấy, ngành thêu, đan, rua, giày, mũ. Thợ Hà Nội và cả Hải Phòng, Nam Định, Hà Đông, Bắc Ninh. Và những nông dân chung quanh Hà Nội, những đại biểu ở các tỉnh xa... Rất nhiều đám đi lẫn vào nhau mà chuyện trò không có chút gì xa lạ vướng vấp cả.

Mặc dầu mật thám và cảnh sát cố sức ngăn cản, chia xé ra, nhưng trên cầu sông Cái, vẫn từng đoàn, từng đám, từng tốp cứ nối tiếp nhau rầm rập kéo qua, làm không khí càng rung chuyển theo mãi, càng bừng bột thêm lên.

Vẫn những con đường, những ngã tư, những cửa ô bụi mù, chật chội, rác rưởi và ruồi nhặng đầy ngập lên, inh ỏi tiếng tàu điện chạy như rít, như xé, vẫn những con người vội vã, lam lũ ấy, nhưng hôm nay cảnh vật rõ ràng có một sự đổi khác. Cảnh xơ xác, lầm than, buồn thảm, cùng cực bỗng có một làn ánh sáng và một trận gió lốc vào, làm sự sống tươi tắn, rực rỡ hẳn lên.

Như Phong và tôi đã đi vào đoàn của các nhà báo, người viết báo, viết văn.

Buổi sáng hôm ấy, lúc tám, chín giờ, chúng tôi đã đi một lượt qua các đường phố chung quanh khu biểu tình. Chúng tôi đã phải chú ý ngay đến cái quang cảnh vắng lặng thưa thớt suốt dọc đường Găm-bét-ta trước Sở mật thám qua khu Đấu xảo ra đến cửa ga, và các ngã tư đổ về đây. Cảnh sát Tây, cảnh sát ta, tuy chỉ thêm mỗi quãng một tên nhưng dáng dấp, mặt mày hoàn toàn là của những con thú đương rình vồ. Còn mật thám, ngoài những tên nhẵn mặt thường canh gác và đi lại khám xét những cơ sở của ta, thì có rất nhiều tên từ các tỉnh về cùng với những tên chỉ điểm thay hình đổi dạng các kiểu chia nhau theo dõi từng chặng đường. Trong khi ấy không có một đồng chí cũng như những quần chúng quen biết nào ở những quãng đường này cả. Rồi nhìn vào khu Đấu xảo, chỉ thấy loáng thoáng mấy người của mình đang sửa soạn rất khẩn trương ở kỳ đài và đấu trường. Như Phong và tôi lại bàn tán và suy diễn thêm về chiến thuật và đấu pháp của ta đối phó và tấn công chúng nó trong trận giao tranh công khai này.

Chúng tôi đi các chợ Hôm, Cửa Nam, Hàng Da, rồi trở về chợ Đồng Xuân. Cả những chỗ này, - trọng yếu là chợ Đồng xuân - cũng thưa thớt vắng lặng một cách đặc biệt.

Chúng tôi bảo nhau sẽ có nhiều cái lạ lắm đấy! Ở các cửa chợ, đầu các ngã tư, mà sao xe kéo cũng không thấy mấy cái thế này?!

Buổi trưa ấy không nắng lắm, nhưng chúng tôi cứ lục sục không ngủ được. Một giờ, rồi một giờ rưỡi, hai giờ. Đến hai giờ rưỡi, chúng tôi ra đi. Từ đường chùa Quán Sứ, chúng tôi đi ra. Cả từ đây và suốt đường Găm-bét-ta đến trước cổng khu Đấu xảo đã nhộn nhịp khác hẳn. Tấp nập mải miết, tranh thủ nhưng không ồn ào. Người nọ tiếp người kia, bọn này tiếp theo bọn khác, cứ liền liền liền liền nhưng không lũ lượt hỗn độn.

Từ thợ các nhà máy, các xưởng lớn đến các người làm hiệu buôn, thợ thủ công, đến chị em các chợ, các đường phố và anh chị em nông dân và đoàn thất nghiệp, từng người cũng như từng bọn, dồn dồn vào các cửa chính cửa phụ không có vẻ gì bỡ ngỡ, rụt rè, bối rối. Tất cả đều khẩn trương và quyết liệt. Mặc dầu mật thám Tây, đội xếp Tây dàn hẳn ra thành hàng từ ngoài vào trong, cứ như chắn lấy từng bước của từng người đi biểu tình. Cả đội xếp ta cũng được đeo súng để vây đón chắn giữ buổi này.

Sau đây, trong những cuộc đi theo chiến dịch của kháng chiến, tham dự những phút ở địa điểm xuất phát đến nơi chiếm lĩnh trận địa, tuy giữa ban đêm, tinh thần rất căng, nhưng tôi vẫn không khỏi không chợt nhớ tới những phút giây cùng tiến quân và chiếm lĩnh trận địa ở giữa Hà Nội ngày 1 tháng 5 năm 1938 ấy.

Ngay sau lớp cổng sắt chỉ thiếu có quét hắc ín và mắc dây điện, nhưng lại canh gác, vây chặn nghiêm ngặt, quyết liệt một cách rất long trọng rất khác thường ấy, cảnh tượng và không khí lại càng khác lạ. Dưới bầu trời xanh chói chang bao la, cả khu đấu trường người đông nghịt chỉ có một thứ tiếng ì ầm như cửa biển động, đôi lúc gió tỏa vang vang âm âm hẳn lên. Tất cả các giới các đoàn rất nhanh gọn và linh động đã thành hàng ngũ và là những hàng ngũ làm thành từng ô, từng khối thật rõ ràng vững chắc.

Màu đỏ của cờ và băng biển càng rực lên trong ánh nắng, trong những hàng người, trên những hàng người. Và qua những lớp lớp người ngùn ngụt vì hơi thở, vì bụi nắng, có thêm một cái gì như của lửa của bão thổi ra từ toàn thân họ và từ những dòng chữ khẩu hiệu tay họ trương lên trong ánh đỏ.

Màu đỏ tươi thắm vô cùng. Màu đỏ của máu.

Màu đỏ của sự quyết liệt và tin tưởng vô cùng. Cũng vẫn là của máu.

Màu đỏ quý báu vô cùng, yêu thương vô cùng, thiêng liêng vô cùng, không thể có một sự pha trộn, vấy bẩn. Cũng vẫn là của máu. Máu sẽ đổ ra để phá tan, để xóa bỏ tất cả những sự bóc lột đàn áp, những cảnh bất công, thối nát, đen tối, và để xây dựng một chế độ, một đời sống thật sự tươi sáng tốt đẹp.

Từ những dải cờ bay phần phật và những tấm băng rùng rùng trên đài, đến những băng biển giơ cao trên các hàng người đứng kín cả khu Đấu xảo, màu đỏ ấy như thét và cũng như hát.

Hòa bình, tự do, cơm áo. Ngày làm 8 giờ. Tự do dân chủ, tự do lập nghiệp đoàn. Tự do ngôn luận... Những khẩu hiệu này dựng lên ở các băng biển trên đài và trong các hàng ngũ. Trên nền vải đỏ cũng như trên nền vải trắng, băng chữ đỏ cũng như băng chữ xanh, chữ trắng, tất cả những dòng chữ khẩu hiệu cũng như chỉ chực hát và thét lên.

Vào khỏi cổng, qua mặt các thứ mật thám và cảnh sát, chúng tôi không cần người hướng dẫn cũng nhận ra ngay và đi luôn vào hàng vào giới của nhà báo, nhà văn. Cả Nguyễn Công Hoan, Phùng Bảo Thạch, Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Vũ Ngọc Phan, Thạch Lam... quen biết cũng đến rồi. Nguyễn Công Hoan đeo băng đỏ ở cánh tay trái giữ trật tự. Tô Hoài thì ở trong đoàn thất nghiệp và là đoàn đông nhất. Và có cả mấy bộ mặt khác nữa. Bộ mặt của mấy thằng làm báo ăn tiền quỹ đen, dở mật thám, dở lưu manh, và bọn tờ-rốt-kít chuyên khiêu khích phá hoại. Với mấy thằng "của quý" trâng tráo hết chỗ nói này, chúng tôi đã nghĩ đến một số trò chúng sẽ giở ra như chúng vẫn thường diễn ở những cuộc họp đứng đắn hay ở những đám đông đang tiến hành đấu tranh mà chúng đánh hơi sục đến. Nhưng có đồng chí trong Ban tổ chức bảo chúng tôi: "Đã có quần chúng. Đã có quần chúng giám sát!". Phải, quần chúng sẽ vít cổ ngay chúng xuống và dìm đi trong những cánh tay sẽ giơ lên và dưới những bước chân sẽ tràn bước như sóng như biển...

Hơn hai vạn người.

Cuộc biểu tình đã diễn ra với hơn hai vạn người, tuyệt đại đa số là quần chúng lao động và nhân dân Hà Nội có cảm tình với cách mạng, với Đảng Cộng sản Đông Dương, đã được cách mạng và Đảng tuyên truyền, giáo dục, tổ chức và huy động.

Trong số những quần chúng và nhân dân này, sau đây có bao nhiêu người thành đảng viên, cốt cán và cơ sở, có bao nhiêu con cháu, anh chị, bạn bè, và cả cha, mẹ, ông, bà nữa, đã xuống đường tuần hành, thị uy và khởi nghĩa những ngày 17 và 19 tháng Tám năm 1945.

Đoàn quân Việt Nam đi, sao vàng phấp phới.

Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than...

Phải, cuộc biểu tình với hơn hai vạn người để kỷ niệm ngày Một tháng Năm ấy đã diễn ra giữa Hà Nội 1938. Cách đấy một mặt đường bước qua chỉ mười bước chân thôi là Sở mật thám, trong đó ở một lối đi mờ tối và hôi hám vẫn dựng đứng các hòm máy lớn đựng các bộ phận của máy chém thỉnh thoảng mấy tên cai máy gác ngục vẫn phải tháo ra xem xét và lau dầu. Đi qua cái khu tập trung của những tên đao phủ nổi tiếng khát máu và đã được luyện tập trong máu của cách mạng, của các phong trào suốt bao nhiêu năm này, thì đến trước một cổng sắt. Cái cửa sắt ấy ngày đêm đều mở và trông thẳng sang một cổng sắt cũng lớn rộng như thế cách một quãng đường chừng 50 thước: Tòa án.

Hàng ngàn hàng ngàn bản án, từ án ba năm, năm năm, từ giam tù đến cấm cố, đến khổ sai chung thân và án chém, đang được gìn giữ trong các tầng nhà đồ sộ và thăm thẳm kia. Những bản án của các chiến sĩ cộng sản và của quần chúng công nông cách mạng, đã bị các giống chánh án và chưởng lý kết tội và tuyên án cứ liên liến cái mồm trong những phiên tòa chỉ mấy tiếng đồng hồ mà các con người đã chịu không còn biết bao nhiêu trăm năm cấm cố, khổ sai, tù đày và án xử tử.

Rồi cũng cách một mặt đường chừng mười bước chân thôi, bước qua cái cổng sau của một khu nhà tượng trưng cho luật pháp và công lý của công cuộc văn minh khai hóa mà "mẫu quốc" Đại Pháp đã từ phương Tây đến thiết lập hơn sáu mươi năm trên đất nước Việt Nam này, cũng là cổng sắt. Cái cổng sắt kín mít, quét hắc ín, của nhà ngục Hỏa Lò Hà Nội.

Hỏa Lò Hà Nội! Nơi này cũng là một thứ vườn hoa và cây quả đấy! Cái vườn hoa và cây quả, thành tích đàn áp, khủng bố làm bằng máu và thịt của con người, của dân tộc Việt Nam, của cách mạng Việt Nam, để bọn thống trị Pháp và các thứ tay sai tôi tớ ngắm nhìn ở một đầu này trên bán đảo chữ S, cân đối với cái vườn hoa cây quả ở đầu kia là khám lớn Sài Gòn.

Đồng chí Trần Huy Liệu của chúng ta, đại diện cho nhóm Cộng sản công khai và tòa báo Tin tức, cơ quan của Mặt trận dân chủ Đông Dương, đã đọc diễn văn chủ yếu của cuộc biểu tình.

Trước hơn hai vạn quần chúng, trước toàn thể nhân dân Hà Nội, trước toàn thể nhân dân Đông Dương, trước toàn thể các dân tộc thuộc địa, trước toàn thể giai cấp vô sản thế giới và trước toàn thể nhân loại, ngay giữa ban ngày, trên một diễn đàn dựng ngay trước mặt bọn thống trị, tiếng nói ấy đã cất lên. Tiếng nói thật sự vì quyền lợi và sự sống của quần chúng, của dân tộc, của con người. Tiếng nói của một đảng đang giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kiên quyết và triệt để nhất lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Tiếng nói được hoàn toàn tín nhiệm, được vô cùng hoan nghênh, được ghi nhớ, suy nghĩ và truyền bá. Tiếng nói của lịch sử.

Chiều hôm ấy dịu nắng thì có gió. Trời mây và các mặt nước hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, các đường cây, các tầng khối kiến trúc, các ống khói, các nhịp cầu, các bờ bãi sông Hồng cùng với phù sa chảy lừ lừ đang đợi các lũ nguồn, chưa bao giờ lại đẹp, rực rỡ trong nắng chiều và gió thổi lộng như bây giờ. Các đường phố Hà Nội như đang có một thứ máu mới dạt dào vậy.

Như Phong và tôi hai thằng lại hát. Chúng tôi vừa đi vừa hát. Chúng tôi còn hát cả lúc về nhà ăn cơm chiều. Chúng tôi còn đi hát lúc đêm khuya ở đường bờ sông Hồng lúc về nhà ngủ. Chúng tôi hát Quốc tế ca. Cả bằng tiếng ta và bằng tiếng Pháp.

⚝ ❖ ⚝

Chúng tôi đã được có một đoàn thể để sinh hoạt: Đoàn Thanh niên dân chủ Đông Dương. Và Đoàn đã có một cơ quan ngôn luận: báo Thế giới.

Thoạt tiên báo thuê ở phố Nhà thương Khách. Từ dưới Hải Phòng lên, tôi đã tìm đến ngay Thế giới. Tôi hỏi đường và tới nơi rồi, đi đi lại lại mà vẫn không thấy "tòa báo" đâu cả. Quái thật, hay mình nhầm?! Không thể thế được! Tờ báo trong tay mình cầm đây in rành rành chỗ ở với quản lý và trị sự kia mà! Và cũng tờ báo đó ra mắt với bài của tôi (9). Tôi liền giở cả thư hẹn của Như Phong ra. Vẫn đúng là tòa báo ở phố Nhà thương Khách.

-----

(9) Truyện ngắn Đến cây số 13.

Chao ôi, cái phố đã khuất nẻo, đã thưa vắng, nhà báo lại thưa vắng hơn. Nhà đúng một gian rộng. Qua lại trước cửa và thoạt trông, tôi đã tưởng là cái kho trống của phía sau một cửa hiệu nào vậy. Biển số nhà chỉ bằng bàn tay, chữ sơn lại nhòe, lại vỡ. Không có biển và cũng chẳng áp phích áp phung quảng cáo gì cả. Trong nhà chỉ thấy mấy cái bàn và bốn năm cái ghế.

Ra số 2, số 3, Thế giới dọn đến ngõ Phạm Phú Thứ, cạnh chợ Hàng Da. Cũng một gian rộng và vẫn ở gian dưới. Gác trên là gia đình đồng chí Đặng Thái Mai đang dạy học ở trường Thăng Long. Đến đây nhóm rau nhóm bếp, cơ quan thấy mỗi ngày một sầm uất nhộn nhịp lên. Báo ra tháng hai kỳ. Phần chính là nghị luận về các vấn đề của thanh niên và thời sự chính trị. Văn học nghệ thuật cũng là phần quan trọng. Nguyễn Thường Khanh (10), Như Phong và tôi lo chạy phần văn nghệ này, đặc biệt là truyện ngắn, phóng sự và thơ.

-----

(10) Nguyễn Thường Khanh tức Trần Mai Ninh.

Báo ra hai kỳ một tháng nhưng vốn liếng hầu như không có lấy 10 đồng bạc. Đã thế cái gì cũng phải thuê. Nặng nhất là tiền thuê nhà in rồi đến tiền thuê nhà ở. Nguyên tiền nhà cũng gần bằng tiền ra một số báo, vậy mà ngoảnh đi ngoảnh lại đã hết tháng nhà. Nói như vậy không phải là không lo tiền báo. Cứ đến kỳ báo in xong là cả tòa báo ai nấy đều như có lửa đốt đầu. Mà báo càng chạy, càng in nhiều, in đẹp, thì lại càng lo. Đã có chuyến, tất cả tiền bán báo thu nhặt kỳ trước cộng với cả tiền riêng của anh em, đặc biệt là tiền cầm những quần áo quý giá nhất cho hiệu Vạn Bảo mà cũng chưa đủ chuộc báo về để phát hành. Không ai lấy lương của nhà báo, kể cả đồng chí chuyên việc quản trị nghĩa là lo toan chạy vạy, cầm cân nẩy mực các khoản chi tiêu cho nhà báo. Từ tiền thuê nhà đến tiền thuê xe tay đi đón báo, tiền mua giấy mực in để kẻ vẽ áp phích, cũng đều "cơm nhà vác ngà... Thế giới" cả. Có một buổi, phải duyệt bài cho xong số báo chẳng ai đi ăn cơm trưa. Cậu thì ngại về nhà trọ vì đã chịu quá tháng; cậu thì chả còn chỗ nào ăn ngoài hàng cơm đầu ghế, mà trong túi lại chỉ còn những cuống vé tàu điện và vỏ bao thuốc lá. Vào quãng một giờ trưa, đang xoay trần ra với nhau thảo luận và sửa chữa bài, thì một cô gái con anh Đặng Thái Mai bưng một mâm chè đỗ đen xuống:

- Thày mẹ cháu mời các chú ăn chè trưa cho mát!

Tất cả đều reo như thét lên!

Tòa báo vừa là trụ sở, vừa là câu lạc bộ của Đoàn. Vì thế, nếu như vừa dứt các tiếng tranh cãi về những vấn đề xã hội thiết thân của thanh niên hay những vấn đề thời sự đang nóng hổi, và cả những vấn đề văn học và nghệ thuật nữa, là có ngay các tiếng hát tiếp liền. Say sưa, sôi nổi, cuốn hút, nhất là những bài hát về cuộc chiến đấu anh dũng của quần chúng cách mạng và các chiến sĩ Đảng Cộng sản Tây Ban Nha mà anh chị em đang theo dõi từng ngày, từng trận, từng sự việc, từng tin tức...

Trụ sở và tòa báo không có cờ. Ở chính giữa trên mặt tường rộng của cơ quan là một tranh áp phích in bên Pháp, vẽ hình một con sư tử chồm lên trên quả đất, với những chữ kêu gọi toàn thế giới ủng hộ cách mạng Tây Ban Nha chống phát xít Phờ-răng-cô.

Báo Thế giới còn liên lạc hoạt động với những anh em văn nghệ sĩ, trong đó có ban kịch Thế Lữ. Thời kỳ ấy tất cả các ngành các giới đều tích cực thành lập các ái hữu. Ái hữu kim khí, Ái hữu thợ nhà in, Ái hữu thợ may, Ái hữu thợ dệt, Ái hữu của các chị em buôn bán chợ Đồng Xuân. Những người làm bồi bếp, đi ở vú em, làm con sen thằng nhỏ cũng có ái hữu: Ái hữu công nhân tư gia. Để đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng, các ái hữu được xây dựng chặt chẽ, rộng rãi, mạnh mẽ, Đoàn Thanh niên dân chủ đã phối hợp với các ái hữu tổ chức những buổi chiếu phim diễn kịch.

Những buổi chiếu phim Công chúa Bạch Tuyết và bảy chú lùn, Tôi có quyền sống bán vé không kịp. Còn những tối diễn kịch của ban kịch Thế Lữ thì tổ chức hẳn ở Nhà hát Tây lấy tiền giúp Ái hữu cơ khí. Ngày đó diễn kịch phải có mùa, đặc biệt là diễn kịch ở Nhà hát Tây! Thường chỉ vài người Pháp làm kịch có thần thế và những tổ chức các dạ hội của bọn quan lại cao cấp hay những buổi từ thiện và lạc quyên đặc biệt thì mới diễn ở đây. Đến xem hầu hết phải những ai là thượng lưu xã hội, những trí thức và những công chức sang trọng đã quen thuộc với các lễ nghi, tập tục, từ cách đi đứng, quần áo ăn mặc, dáng vẻ cười nói, chào hỏi chuyện trò đến điệu bộ ngồi xem, lúc nào vỗ tay, lúc nào đứng dậy, lúc ra về phải như thế nào thế nào, v.v... Nhưng mà Nhà hát Tây buổi đó lại là của các thợ thuyền và các thanh niên họ đi rất đông, kín hết các hàng ghế, lúc vào cửa đến lúc ra về rất tự nhiên, thoải mái, hồ hởi. Những đoàn viên của Đoàn, chủ yếu là các anh chị em của báo Thế giới, đã làm các công việc tổ chức tối kịch.

Một tối đầu mùa đông nhưng rất rét. Gió bấc cứ như bão. Cửa nhà hát càng lộng gió. Đến cả những cô, nào áo len mặc lót, nào áo nhung mặc ngoài, cũng không giấu được sự co ro. Còn những người có tuổi xù xù những bộ đồ tây, quấn khăn len, đeo găng mà vẫn xuýt xoa và run cầm cập hẳn lên.

Đứng đón ở bực lên xuống chính giữa, vừa soát vé, vừa chỉ lối, vừa chào hỏi những bạn bè đồng chí và quần chúng thân thuộc của mình, có một chàng tóc húi ngắn, mặt đỏ gay như gà chọi, nhưng rất niềm nở một cách rất trang trọng nhưng hơi vụng về, tiếp đón mọi người.

Giữa làn ánh điện rực rỡ và những người đi lại lên xuống nhộn nhịp, chàng thanh niên càng nổi hẳn lên. Nổi hẳn lên vì chỗ đứng của anh, vì sự cởi mở, thân thiết của anh, và cũng vì bộ quần áo của anh. Một bộ quần áo đúng là trắng như bột và cứng như bìa, lại ngắn hũn. Trắng như bột, cứng như bìa vì nó được giặt giũ hồ lơ và là kỹ quá. Hình như chỉ trước lúc đến nhà hát một vài phút thôi anh mới dám đóng bộ. Cả sơ mi anh mặc trong cũng trắng như thế. Cổ sơ mi còn cứng nhắc hơn với cái cà vạt đen lánh như bằng tôn sơn véc ni.

Chàng thanh niên ấy là Nguyễn Thường Khanh của chúng tôi. Bộ đồ rét của anh đã phải đem "gửi" ở hiệu Vạn Bảo để lấy tiền chuộc báo. Vì tự trọng, đúng hơn vì tự ái, Nguyễn Thường Khanh kiên quyết không mượn quần áo của ai mà cứ mặc bộ đồ nực may từ năm anh mới vào trường Thành chung và là bộ đồ chỉ khi nào có việc mới được giở ra!

Trong đám anh em ở nhà báo Thế giới, Nguyễn Thường Khanh vào loại chăm tập thể dục. Anh thường cùng với Nguyễn Hải Kế (11)tập cả quyền Anh và võ Tàu để làm nhiệm vụ xung kích, bảo vệ hàng ngũ trong những cuộc mít tinh hay diễn thuyết bị phá, bị khủng bố. Chăm tắm nước lạnh sáng chiều và ăn uống rất bỗ bã, vậy mà nghe nói "Thằng Khanh tối hôm ấy về chỉ ăn có hai bát phở, và phải uống những hai kalmine thuốc cảm đấy!".

-----

(11) Nguyễn Hải Kế bị đế quốc Pháp bắt giam, bị bắn chết trong đề lao trước Cách mạng Tháng Tám ở Trung Bộ.

Thời kỳ này tôi đã làm quen với Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Phạm Hầu, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng. Xuân Diệu và tôi đã tặng tiểu thuyết, tặng thơ cho nhau, Lưu Trọng Lư và Phạm Hầu thuê một căn gác ở cùng ngõ Phạm Phú Thứ. Phạm Hầu cho tôi biết anh đọc khá kỹ báo Thế giới, cũng định làm thơ và viết bài cho báo. Người thanh niên này đã kêu lên:

Hỡi ơi, tôi chỉ là du khách

Một phút dừng chận Vọng hải đài.

Tôi gặp Ngô Tất Tố ở nhà Vũ Trọng Phụng. Vũ Trọng Phụng mới lấy vợ, mở một hiệu sách nhỏ ở đầu phố Hàng Nón. Tắt đèn và Bỉ vỏ của chúng tôi bày bán trong cái tủ kính nhà Vũ Trọng Phụng, có cả những sách tập đọc A, B, C, lên sáu, luân lý giáo khoa thư, sử ký giáo khoa thư và dầu bạc hà Đại quang dược phòng, phấn xoa rôm cùng với bít tất, mũ len trẻ em và hoa giấy của chị Phụng cắt lấy.

Hôm ấy nếu như không gặp phải mấy người khách lạ xem và mặc cả hàng lâu quá, và nếu như chúng tôi nói chuyện với nhau ở một chỗ khác, thì cuộc trao đổi ý kiến về "mấy nhân vật nhà quê" chắc cũng nhiều lý thú. Thí dụ như được gặp nhau ở hàng phở Trưởng Ca phố Hàng Bạc, hay hàng chả cá Lã Vọng chẳng hạn. Cả Như Phong cũng thấy thế. Vũ Trọng Phụng bề ngoài lạnh lẽo và hay phá đám này đã nói chuyện thì rất vui, rất thẳng. Trong cả những vấn đề mà anh em bảo Vũ Trọng Phụng rất hoài nghi như vấn đề chính trị, kinh tế, triết học đương thời, Vũ Trọng Phụng không những không giội nước đá hay kê tủ đứng vào giữa bàn chuyện, mà trong khi tham dự bao giờ cũng tỏ ra một tinh thần nghiêm chỉnh, có trách nhiệm. Những lần gặp nhau sau đây, lần nào Vũ Trọng Phụng cũng nói dứt khoát trước mặt anh em rằng anh rất kính trọng những chiến sĩ cách mạng, những người làm chính trị chân chính, đặc biệt là những người cộng sản chúng ta, như những anh em tiêu biểu ở nhóm báo Tin tức hay những anh em khác đi tù về. Vũ Trọng Phụng rất muốn nói chuyện và thảo luận với anh em và gần gũi với anh em. Một trong những người mà Như Phong và tôi được biết Vũ Trọng Phụng rất phục, rất trọng và muốn được liên lạc là đồng chí Trần Huy Liệu.

Vũ Trọng Phụng ít nói, lúc nói thường hay văng tục. Ít lâu, trước ngày anh mất, anh có đọc những tác phẩm của Tố Hữu, bài Những người không chết và Tâm tư trong tù. Anh đã nói với các bạn:

- Sư chúng nó (chỉ một số đông trong nhóm Tự lực văn đoàn), thế này mà chúng nó dám bảo thơ cách mạng không là thơ. Thơ thế này mà không là thơ thì là mả bố chúng nó đây à?!

... Cũng mùa rét 1938, chúng tôi được huy động vào một công việc đặc biệt: tổ chức một chợ phiên. Chợ phiên này không có thi sắc đẹp, nhảy đầm, ăn uống và đánh bạc. Chợ phiên chỉ bán sách báo, các sách báo chính trị, tranh ảnh các chiến sĩ công nhân, cách mạng thế giới, và các bài hát, các bản nhạc chiến đấu cách mạng. Biểu diễn có điền kinh, ảo thuật, xiếc. Các gian bày cả bàn bóng, xà đơn xà kép. Đàn hát đặc biệt với các tốp ca nhi đồng, tốp ca thanh niên. Tất cả tiền hỏa hồng sách báo bán được cùng với tiền thu vé các cuộc biểu diễn đều đem giúp "dân Tàu bị nạn". Tôi nhớ hình như không bán vé vào cửa.

Chợ phiên giúp dân Tàu bị nạn, tên gọi như thế, nhưng thực chất là ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc chống xâm lược Nhật Bản đang được Đảng Cộng sản Trung Quốc phát động và cũng đang thu hút tất cả sự theo dõi chú ý của chúng tôi lúc đó. Bãi mở ở khu cạnh bãi đá bóng Cột Cờ, mọi công việc cổ động và các cuộc vui chính báo Thế giới đảm nhiệm.

Một tối cũng rét khô, gió như bão. Không có sương. Sao lấp lánh đầy trời tím đặc. Những ánh lửa đặc biệt tỏa lên. Lửa của đuốc cháy rừng rực. Trong đám lửa khói và hơi người, hầu hết là thanh niên Trung Quốc và Việt Nam và là thanh niên Hà Nội, một mô hình địa cầu khiêng bổng trên vai cũng của thanh niên Việt Nam và Trung Quốc. Địa cầu kết bằng khung tre phết giấy, vẽ hình năm châu. Dang tay nắm chặt lấy nhau, chung quanh địa cầu là hình ba thanh niên của ba màu da: vàng, đen, trắng. Đi hai bên mô hình và nổi lên trên đầu dòng người, không có băng biển và khẩu hiệu gì cả, chỉ có những cánh tay, những nắm đấm, những quả đấm cứ rào rào nhịp theo những tiếng hô. Câu bằng tiếng Trung Quốc, câu bằng tiếng Việt Nam, có câu cả bằng tiếng hai nước ghép liền, vừa hô vừa thét lên tinh thần ý chí đoàn kết và kiên quyết đánh bại cuộc xâm lược dã man của quân phiệt Nhật Bản, đoàn kết và kiên quyết đẩy mạnh cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Trung Quốc đến thắng lợi hoàn toàn.

Những tiếng hát, những nhịp hát và một bài hát rất mới lạ bỗng cất lên, rung chuyển cả dòng người, cả bầu trời. Một cái gì vô cùng thương yêu, thắm thiết, thúc đẩy, xô băng, tràn dâng lên, vút cao và thành như một cơn xoáy lốc và thác lũ cuốn bước tất cả dòng người đi. Chúng tôi đều hát. Một bài hát được nghe lần đầu mà hát được ngay, không đợi ai giảng giải, không đợi ai tập dượt! Khởi lai... Khởi lai... Bài hát của cách mạng, của cuộc kháng chiến của Trung Quốc đau thương, anh dũng và vĩ đại, lần đầu tiên chúng tôi được nghe, được hát dưới bầu trời Hà Nội. Và có lẽ cũng là lần đầu tiên bầu trời Hà Nội được nghe, được hát, rung chuyển nhịp theo cùng trái tim của hàng triệu, hàng triệu anh em sinh tử ở bên kia biên giới đang cùng mình chiến đấu và quyết thắng trong cuộc cách mạng giải phóng mình bằng máu của chính mình.

Trong chợ phiên, ở gian chúng tôi, có một đội nhi đồng Trung Quốc cả trai và gái. Các em vừa đàn hát, vừa nhảy múa và làm cả kịch nữa. Kịch loại lửa trại. Hầu hết những em này đều mồ côi. Nhiều em chết cả cha lẫn mẹ. Cha mẹ các em đã bị giặc Nhật giết. Các em quần tụ lại thành một đội, đi các nơi làm trò lấy tiền gửi về nước.

Đầu năm 1939, thế giới đang căng hết tinh thần trước một cuộc chiến tranh mới sẽ bùng nổ trước sự chuẩn bị hung hãn và ráo riết của phát xít Hít-le. Bọn thống trị ở Đông Dương càng lộ thêm bộ mặt phản động, bắt đầu những đợt khủng bố mới: khám xét, bắt bớ, trục xuất, giải tán các tổ chức công khai ở ngay Hà Nội. Bẵng đi một dạo tôi không có tin tức gì về đội Nhi đồng cứu vong này.

Bỗng một hôm Như Phong cho tôi biết đã gặp các em trong một cuộc họp của bà con Hoa kiều ở đình Hậu Quản. Cả đội chỉ còn có hai em trai, đồng chí phụ trách chính không thấy mà chỉ có đồng chí vẫn thường liên lạc với chúng tôi. Hai em vẫn quần cộc vải vàng, áo sơ mi cộc tay màu nước dưa. Đầu vẫn cạo trọc. Nhận ra Như Phong và thấy Như Phong đến ngay với mình, khi vừa thoáng trông thấy, hai em mừng lắm. Nhưng ít phút sau, chuyện được đôi câu với các em, Như Phong nhận thấy các em có vẻ gầy sút và buồn buồn. Hỏi ra thì đội các em đã phải chia xé đi vì có "lệnh" bắt như thế. Rất có thể hai em còn lại này chỉ mai mốt thôi cũng phải đi khỏi Hà Nội.

Như Phong nắm lấy vai, cánh tay, bàn tay các em hồi lâu:

- Lớn lên các em sẽ làm gì?

- Giết Nhật, giết Nhật!

Đó là câu hỏi cuối cùng của Như Phong và câu trả lời để từ giã. Cả hai bàn tay bé nhỏ ấy đã nắm lại và giơ cao lên khỏi cái đầu trọc mà cùng như thề vậy. Phải, được nghe hai tiếng ngây thơ ngắn gọn ấy, người nghe, không phải chỉ để làm chứng mà còn phải hành động với kẻ mình đã nhận thấy lời thề đó vậy.

VIII. TRONG MỘT NHÀ TÙ: ĐỒNG CHÍ TÔ HIỆU ĐÃ SỐNG VỚI CHÚNG TÔI

Mùa rét năm 1939 ở nhà ngục Hải Phòng. Giờ đó hình như chúng tôi vừa ăn cơm chiều xong, lại bị lùa ngay từ cái sân chơi rộng độ trăm thước vuông vào nhà giam. Chợt có những tiếng bước chân ở cổng ngoài. Tiếng chùm chìa khóa xóc xách xủng xoẻng. Tiếng cửa sắt mở ra đóng vào ken két ình ình. Lại có việc gì bất thường đây? Lại khám trại? Hay trên Sở mật thám lại lấy người đi? Có những ông già và người ốm đang trùm chăn nằm, cũng nhỏm dậy. Đúng lớp cửa sắt dãy xà lim ở ngoài trại chúng tôi đã mở. Nhưng không phải chỉ có xu-ba-dăng và gác-điêng mà còn mấy người lếch thếch, bỡ ngỡ, nhấp nhô đằng sau.

- Lại có người bị bắt rồi!

- Ở đâu lại bị vỡ đây?

Những anh em trẻ làm ở Xi măng, Máy tơ, Máy chỉ, nhảy hẳn xuốn sàn, nhấp nhổm rình rình ùa ra đón bọn anh em mới kia xem có người cùng sở, cùng phố của mình không để hỏi chuyện trước. Bọn cai ngục vừa ra khỏi trại là chúng tôi xúm lại với ba anh em nọ: B.Đ.Đ., N.M.L. và Tô Hiệu.

Chúng tôi ôm nhau, nắm cánh tay nhau, ríu rít cười nói như những ai kia thân thiết bỗng được gặp nhau trong một trường hợp hay ở một nơi thích thú kỳ lạ vậy. Các anh đã bị bắt ở bên Xi măng, bị giam tra hỏi ở Sở mật thám rồi giải sang đây. Anh nào cũng hốc hác, quần áo rách bươm ra. Tôi đã để ý đến anh Tô Hiệu. Anh mặc cái áo sợi cổ lọ, màu tím than rộng thùng, cứ dán lấy ngực. Ngực anh như bẹp rúm hết cả xương sườn. Anh cũng mặc quần xanh thợ. Quần bạc phếch vá đũng. Cái mũ nồi anh đang đội cũng bợt bạt, cũ kỹ. Trong cách ăn mặc ấy, Tô Hiệu càng xanh xao, rộc rạc. Nhất là mặt anh. Xương gồ hẳn lên. Một bên thái dương sưng và tím bầm. Cả hai quầng mắt vừa thâm, vừa trũng. Da xám như chì.

Tôi chợt nghĩ đến những chuyện được nghe mấy anh trên Hà Nội láng máng nói về Tô Hiệu. Trong số những chính trị phạm và là những người trẻ tuổi nhất đi đày ở Côn Đảo về, Tô Hiệu bị lao nặng nhất. Có hôm anh đã ho ra từng bát máu. Phổi anh đi chiếu thấy hoắm hố rồi. Thì ra "cái thằng Hiệu khổ sai Côn Lôn, cái thằng Hiệu Xuân Cầu, cái thằng Hiệu ho lao phổi bị ca-véc rồi kia" không chịu ở nhà quê cho mẹ thuốc thang mà đã trốn xuống Hải Phòng, lại hoạt động! Cái thằng người gầy xương xương, đen, bí danh là thằng "Ba" ấy, tưởng ai hóa ra chính nó, chính thằng Tô Hiệu. Tô Hiệu, chính Tô Hiệu, qua bao nhiêu cuộc lãnh đạo đấu tranh đã đẩy lên cả một cao trào, làm bọn thống trị ở Hải Phòng như điên như cuồng. Chúng lùng bắt mãi mà không được. Rồi khi bắt được đúng "thằng Tô Hiệu", thì tất cả bọn mật thám Hải Phòng đã reo lên, ngạc nhiên, sung sướng vô cùng, coi như đã thắng một trận lớn, một trận căn bản đánh đúng vào tim óc của phong trào cách mạng Hải Phòng!

Nhìn Tô Hiệu quây quần giữa anh em, tay bắt mặt mừng, gương mặt tuy tươi tỉnh hẳn lên, nhưng người gầy rạc, giọng nói khàn khàn, đôi lúc phải ngừng lại ho khan một tiếng, tôi lại phải nghĩ đến sức khỏe của Tô Hiệu. Tô Hiệu đã bị tra tấn ở Sài Gòn. Tô Hiệu đi làm khổ sai, rồi bị phát vãng ở hết hầm nọ sang hầm kia của Côn Đảo, Tô Hiệu đã phải làm việc cả ở hầm xay lúa, thì Tô Hiệu sẽ sống ra sao đây?

⚝ ❖ ⚝

Nhưng Tô Hiệu như không có bệnh, không đau yếu gì cả.

Tôi không nhớ rõ bọn anh còn bị gọi lên Sở mật thám mấy lần nữa. Tôi cũng không nhớ rõ từ cái hôm sang đề lao với chúng tôi ấy, anh Tô Hiệu đã nghỉ ngơi như thế nào. Tất cả những gì là thời giờ của anh, tất cả hình ảnh gì của anh trong những ngày anh sống với chúng tôi ở đề lao Hải Phòng, đều chỉ làm tôi thấy tập trung ở một điểm này: Tô Hiệu làm việc và chỉ có làm việc. Tô Hiệu làm việc lặng lẽ, vui tin, quyết liệt khiến mọi người đều phải suy nghĩ. Tất cả sức cảm hóa thúc đẩy đặc biệt của Tô Hiệu là ở đấy.

Tô Hiệu luôn luôn ngồi quần tụ với anh em, chơi bời và nói chuyện với anh em. Chuyện về tình hình thế giới, tình hình trong nước, về chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xã hội, chuyện về giai cấp vô sản, về đời sống và sự hoạt động của Mác của Lê-nin, về lịch sử Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích Liên Xô, về Cách mạng Tháng Mười và Liên bang Xô viết, thành trì của cách mạng thế giới. Cả chuyện về bọn cải lương, bọn hoạt đầu, bọn cơ hội, bọn vô chính phủ, chuyện 1789, Công xã Ba Lê. Chuyện về Hít-le lên nắm chính quyền đã thúc đẩy thêm việc phát xít hóa nhiều bộ máy nhà nước; chuyện Đô-ri-ô phản bội, chuyện vụ án Lép-dích với đồng chí

Đi-mi-tơ-rốp đưa ra trước tòa án phát xít, là người bị cáo nhưng đã đứng lên tố cáo và kết tội lại. Chuyện Ma-đơ-rít thất thủ đau xót, Vạn lý trường chinh thần kỳ, Quảng Châu công xã và Xô viết Nghệ An chấn động cả dư luận thế giới. Và chuyện các đồng chí Trần Phú, Nguyễn Phong Sắc, Ngô Gia Tự, Trọng Con, chuyện xà lim án chém, bóp Ca-ti-na, chuyện Côn Lôn với hầm xay lúa và các chúa đảo mặt người nhưng tính ác thú. Chuyện các công nhân cao su đất đỏ, hãng Ba Son, nhà máy Trường Thi, chuyện các cuộc đình công, bãi công, lãn công ở các sở mỏ nổi tiếng quyết liệt. Chuyện làng Xuân Cầu và huyện Văn Giang quê Tô Hiệu liền mười tám năm vỡ đê, đói lụt. Chuyện bà mẹ đồng chí có hai đứa con yêu nhất thương nhất trong đàn con, thì thằng lớn là Tô Chấn cũng đi đày Côn Lôn, đóng mảng vượt ngục từ bấy đến nay vẫn bặt tăm, và thằng út còi cọc là Tô Hiệu thì cũng đi đày, làm bà đợi mòn con mắt, từ ngày tha về chỉ ở với mẹ được đâu mấy tháng.

Trong bất kỳ chuyện nào, anh em cũng thấy cuộc sống của Tô Hiệu thật giàu có, thật từng trải vững chắc, sáng suốt. Và bao giờ Tô Hiệu cũng rất khiêm tốn, bình thường, giản dị. Tô Hiệu không chỉ là một đồng chí lâu năm, một người anh lớn mà còn là một người bạn hồn nhiên, vui trẻ của anh em nữa. Cả khi đang nghe anh trình bày dẫn giải vấn đề, hay khi anh đã đi chỗ khác, có vấn đề anh kết luận, có vấn đề anh không kết luận, người nào cũng thấy rừng rực hẳn lên trong tâm hồn cũng như trong ý thức của mình, vì có một sức mạnh tràn vào, một lòng tin bốc cháy lên, một ý chí quyết chiến đấu, chiến thắng. Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, của cách mạng vô sản, lòng tin ở lịch sử, ở sứ mạng của giai cấp vô sản và vai trò lãnh đạo của Đảng. Và ý chí phấn đấu cho phong trào, trong hàng ngũ cách mạng dưới ngọn cờ của Đảng hi sinh anh dũng, càng giương cao trước quân thù, trước một giai đoạn mới sẽ gay go quyết liệt vô cùng.

Mặc dầu vẫn còn bị Sở mật thám tra hỏi và đang chờ ngày ra tòa kết án, mặc dầu trong trạm giam có cả những tên đã đầu hàng rồi quay làm chó cho đế quốc, và những kẻ đã mất tinh thần, chỉ rình cơ hội lập công chuộc tội với mật thám, Tô Hiệu cũng tổ chức ngay một lớp nghiên cứu cho chúng tôi.

Tất cả anh em, người đã bị kết án, người đang bị lấy cung, người sắp ra tù, người chuẩn bị lên Hỏa Lò Hà Nội rồi đi phát vãng, công nhân Xi măng, Máy tơ, Máy chỉ, thanh niên nông dân, thanh niên dân chủ... đều dự hết. Trong trại còn có hai ông cụ. Một cụ chuyên nghề đi lưới dưới làng Đông Khê, một cụ người Hoa kiều, làm thợ máy ở Hòn Gai, bị bắt cùng với người con trai và người cháu. Nhiều buổi, phì phèo cái điếu tẩu, nõ khoét bằng gạch cạy ở ngoài sân, xe bằng cành bàng, cả hai cụ cũng ngồi quây quần với chúng tôi nghe Tô Hiệu giảng và nghe chúng tôi thảo luận. Có ai nhắc các cụ phát biểu ý kiến, hay hỏi các cụ nghe anh em thảo luận thấy thế nào, thì hai cụ chỉ cười, bảo: "Tốt lắm! Phải lắm, đúng lắm!". Cụ "lão đồng chí" và cụ "đồng chí bố này" đã bíu lấy vai chúng tôi, dậm chân, vỗ tay, cùng đi bài "Cùng nhau đi Hồng binh" trong những buổi chúng tôi tập hát và biểu diễn tuần hành thị uy ở trong trại.

Cụ người Đông Khê lúc được tha về làng, khi các cụ có con cháu bị bắt đến thăm, hay những thanh niên anh em họ hàng quen thuộc người bị giam đến hỏi tin tức, thì cụ đều hoa tay lên, cười hô hố, cười ngất, nói:

- Ở trong ấy chúng nó cứ nghịch như sấm, cứ vui như Tết ấy! Chúng nó học cả ngày cả đêm! Ăn xong buông đũa buông bát là đói... Càng đói, chúng nó càng "hồng binh" mạnh!...

Tô Hiệu trình bày hướng dẫn chúng tôi nghiên cứu thảo luận theo bản đề cương Cách mạng Đông Dương của đồng chí Trần Phú và một số vấn đề về công tác cách mạng. Chúng tôi làm việc: buổi sáng, lúc làm cỏ vê trại xong, buổi chiều, suốt những giờ trong trại, buổi tối từ lúc ăn cơm chiều xong vào trại đến giờ "cấm lửa". Và những lúc được ra sân chơi. Mỗi buổi chúng tôi được ra sân chừng một giờ kể cả ăn cơm. Chúng tôi không họp chung thì chia nhóm. Nhiều buổi còn thảo luận ở cả ngoài sân, từng đám, từng đám đấu khẩu rất hăng, luôn luôn "trật tự" phải đến can thiệp. Trưa ngủ và những ngày nghỉ, nhiều người vẫn cứ lầm thầm ôn bài và bàn cãi.

Tô Hiệu gần như không ngủ buổi trưa nào. Và tối nào cũng vậy, anh em ngủ say cả rồi, tầm khuya Xi măng, Sáu Kho văng vẳng, Tô Hiệu vẫn thức. Bản đề cương cách mạng và những công tác đấu tranh từ tuyên truyền, vận động tổ chức công khai, nửa công khai bí mật, đến những việc in thạch, dán truyền đơn, treo cờ, đọc sách báo tài liệu, cất giấu, cùng những kinh nghiệm hoạt động, kinh nghiệm khi bị bắt, tất cả những vấn đề và những công việc mà chúng tôi nghe anh trình bày và chúng tôi đã trao đổi ý kiến ròng rã hơn một tháng trời, anh đều chép lại. Song song với lớp chúng tôi còn có lớp của chị em bên trại phụ nữ. Lớp này vẻn vẹn có năm chị, và một học viên lên ba: thằng con chị Đ. cùng bị bắt với mẹ. Chế độ nhà tù cũng như chế độ Sở mật thám nghiêm ngặt nhất với chúng tôi về sách báo giấy bút. Ngay cả bọn xu-ba-dăng vẫn thậm thụt với người nhà của chúng tôi, đưa tin tức, quà bánh, thuốc thang để kiếm lợi, vậy mà chúng cũng chịu không dám nhận đưa những thứ "súng đạn" kia. Thuốc lào, thuốc lá, quà bánh của người nhà chúng tôi gởi cho, chúng mở hết ra. Mứt kẹo hay thứ gì gói bằng giấy báo cũ cũng không được. Chúng tôi phải nhờ mối tù án thường. Tất cả những giấy thuốc lào, thuốc lá, vàng hương, chè tàu, bánh khảo... anh em bòn nhặt được, đều tuồn sang trại chúng tôi. Còn bút viết chỉ có bút chì, mỗi mẩu bút chì.

Càng đọc những bản Tô Hiệu viết tôi càng thấy lạ. Chữ như không phải viết mà là in. Một thứ chữ in rất đều, rất nhỏ, tăm tắp như chân kiến. Tuy giấy viết, tờ thì xanh đặc, tờ thì vàng nhờ, tờ thì lốm đốm xanh xỉn, mấu mí và gút rác nổi đầy, tờ thì hoen ố... nhưng mặt chữ vẫn sáng, vẫn rõ, xinh xắn, đẹp lạ lùng. Đặc biệt là những bản viết trên giấy bao thuốc lá Bát-tô, nền xanh nước biển, có những đường viền, những hình nét kim nhũ, hay trên những mẩu giấy chè Chính Thái hồng hồng cánh sen. Cầm những bản viết đó trong tay, thấy đầy đủ cả phần chương trình mình học tập ngày hôm qua, nếu đem in ít nhất cũng phải năm sáu trang chữ cỡ nhỏ.

Tôi đã nghĩ đến những kỳ công mộc bản hay bằng ngọc ngà chạm trổ trong truyền thuyết, và những tác phẩm nghệ thuật ở những bảo tàng nổi tiếng. Và cho đến bây giờ, tôi vẫn không thấy một mùi thuốc lá, một hương trà nào thơm tho như mùi thuốc, như hương trà mà tôi nâng lên ngửi ở những trang giấy lấp lánh những dòng chữ của Tô Hiệu viết trong tù kia.

... Trời mỗi ngày lại rét. Trại giam khi chật chội thì rất độc ác nhưng khi quá rộng thì cũng rất ác độc. Chúng tôi hơn hai mươi người ở một cái trại xây để giam hơn trăm người. Tường sơn hắc ín, sàn gỗ lim trần trụi, cùm sắt, cửa sắt, lưới sắt. Cái lạnh cái buốt càng ghê thịt ghê xương. Khuya tiếng người ho, người rên cứ âm âm lanh lảnh. Ngồi sát mặt tường hắc ín, gần ngay tấm cửa sắt chính của trại giam, chỗ độc nhất có ngọn điện vàng mờ chiếu sáng cho cả trại giam và dãy xà lim ngoài kia, Tô Hiệu một mình còm cõm viết. Chính vẫn ở trại chúng tôi đây, những năm 1929, 1930, 1931 vừa qua, hàng trăm, hàng trăm anh em công nhân, nông dân, và đảng viên cộng sản đã bị giam, bị xử án, và hết chuyến này đi Côn Lôn lại đến chuyến khác.

Trên đỉnh chòi cao đầu nóc trại và cũng là chính giữa khu đề lao, anh em năm trước đã treo cờ để kỷ niệm cách mạng. Hôm đó từ gác-điêng, xếp đến xu-ba-dăng đang hò hét thì có điện gọi liên hồi ở trên Đốc lý và Tòa án xuống, và mật thám rầm rập đến cửa đề lao. Cả thành phố Hải Phòng bên ngoài ồn ào bảo nhau: "Làm sao cờ cộng sản lại kéo lên nóc đề lao thế kia?". Không những bà con hàng phố và anh chị em thợ thuyền các nơi đều trông thấy cờ, mà cả các ngài Đốc lý, Chánh tòa và Biện lý cũng mục kích cái cảnh tượng xuất hiện giữa ban ngày nọ...

Tháng 11-1931, cũng năm ấy, ở đây lại diễn ra một trận khác. Những anh em sắp bị đưa xuống tàu đi Côn Lôn đấu tranh hò la phản đối. Đốc lý đã hạ lệnh đưa lính khố xanh đến đàn áp. Súng đạn lưỡi lê lắp đầy đủ và lính đã dàn thành hàng ở ngoài cửa rồi, nhưng nghe lời kêu gọi của anh em, lính chỉ đứng im, chúng liền chuyển ngay lính lê dương đến. Tình thế lại diễn ra như trước. Nghĩa là những người lính tứ chiếng mà chúng cho là vong bản và mất gần hết lương tri này, cũng nghe lời kêu gọi của anh em, không chịu nhúc nhích mặc dù bọn chỉ huy đã ra lệnh.

Cuối cùng chúng bắt lính Pháp đến. Bọn này đã được uống rượu say. Súng đã nổ. Cửa trại đã bị phá. Lửa và thép đã tha hồ giội xuống những con người bị lột hết quần áo, bị phun nước xanh xám, những con người hầu hết là đau ốm, gày yếu mà khí giới để tự vệ chỉ có tiếng kêu, tiếng hò, tiếng thét.

Anh B.V.Tr. đã dự cuộc đấu tranh lưu huyết đó kể chuyện này cho chúng tôi thời kỳ anh còn ở thường trực chi nhánh báo Thời thế ở Hải Phòng. Tới năm 1964, gặp nhau ở Hà Nội, bên bờ hồ Hoàn Kiếm, kể lại sự kiện đó, anh Tr. vẫn còn nhớ từng tên bạn, tên đồng chí đã hy sinh: anh Xương, anh Tâm, anh Thuận nông dân ở Tiền Hải Thái Bình; anh Đang, anh Hồ thợ máy nhà Máy sợi Nam Định; anh Trinh, anh Dương học sinh. Anh Trinh đâu mới mười tám, mười chín tuổi quê ở Hà Nam. Nhớ lại chuyện cũ và những đồng chí đã hy sinh, tôi càng thấy dư âm những tiếng hò la như mới cất lên hôm qua, hôm kia và vẫn như còn vang chuyển dưới mái trại và bầu trời. Và tôi không thể không lại nhìn ra chỗ anh Tô Hiệu ngồi viết ngay sát cửa trại.

Mắt anh Tô Hiệu cứ dán xuống giấy bút... Mẩu chì cũng gần hết. Tất cả chỉ còn bằng ngón tay. Mỗi lần vót phải nhờ đến lưỡi dao đặc biệt đánh với mẩu dây thép phơi quần áo, đem đập mỏng và mài sắc đến độ chúng tôi đã cạo được mặt, sửa được tóc cho nhau. Chính những hôm phiên tòa, chúng tôi đã đi ra đây, đầu tóc người nào cũng như vừa ở hiệu cắt tóc sang ngoài phố vậy. Tô Hiệu kẹp mẩu chì đó vào một đoạn đũa tre. Mỗi lần viết xong anh lại giấu đi ở một chỗ dành cho các tài liệu đặc biệt.

Khuya rét, lúc anh em ngủ im ắng cả rồi, tiếng ho nhỏ của Tô Hiệu chỉ thúng thắng. Cái bóng Tô Hiệu dưới ngọn đèn vàng đục, bên cạnh bức tường hắc ín rắn đanh như gang như thép, và tấm cửa sắt kỷ niệm sừng sững im lìm kia, cứ cắm cúi hàng giờ, nhiều khi không nhúc nhích gì cả. Các bản viết càng về sau dòng lại càng nhỏ hơn, chữ càng sít hơn. Trước kia, chỉ có buổi sáng tài liệu mới truyền sang xà lim phụ nữ, giờ cả buổi chiều. Trong chúng tôi nhiều anh em đã khẩn khoản nói với Tô Hiệu để anh em viết thay cho, nhưng Tô Hiệu nhất định không nghe. Anh bảo: "Không nên! Những tài liệu này nhỡ ra có bị khám, lọt vào tay đế quốc thì chỉ anh bị tra bị đánh, rồi chúng có kết thêm tội anh thì cũng chỉ đến hai mươi năm hay chung thân là cùng. Còn anh em kẻ án nhẹ, kẻ sắp ra, kẻ cần phải giữ bí mật, "tổ chức" phải giữ gìn cho anh em. Vả lại giấy bút giờ đây còn quý hơn cả vàng ngọc, anh em không viết quen, không đảm bảo được chương trình".

Tô Hiệu càng ngồi viết khuya hơn. Anh em đưa thêm chăn cho Tô Hiệu khoác, Tô Hiệu không lấy. Lúc sắp bị bắt anh có được thêm cái áo vét tông cũ màu nâu sẫm rộng thùng. Đó là hai cái áo ấm nhất để mặc suốt vụ rét của anh. Anh em muốn Tô Hiệu ăn thêm, Tô Hiệu không nhận. Thức ăn thêm đây là của mấy anh em có người nhà vào phép tập trung lại, như cá kho, thịt rim, tôm rang, mắm tôm chưng. Có mấy đồng chí khét tiếng về nguyên tắc và tính toán được cử đến chuyên giữ kho thức ăn này. Anh em ai muốn kêu, muốn nịnh, muốn kích, muốn chế, muốn nói gì thì nói, mấy đồng chí kia vẫn lạnh như nước đá. Các đồng chí cương quyết thuyết phục, cần mức sao cho anh em ăn được từ kỳ phép này đến kỳ phép khác. Nhiều bữa suất thức ăn thêm chỉ có mấy miếng bì lợn dính mỡ hay một ít sườn băm viên chỉ bằng đầu ngón tay út, vậy mà nhiều anh em đi vận động rất nhiều người đề nghị với kho cho ăn dồn lại, nhưng chủ kho cứ phớt đi.

Nhưng rồi sau cả cái bì lợn dính tí mỡ và cái mẩu ngón tay sườn rang băm kia cũng thiếu nốt. Vì số anh em bị kết án tù mỗi ngày một nhiều. Nghĩa là những anh em tạm giam hàng tuần có phép mỗi ngày một hụt đi. Trừ mấy gia đình khá cố chạy vạy cho đến khi anh em chuyển lên Hà Nội để đi phát vãng, còn thì kiệt lực lắm rồi, nay chỉ còn phép góp và người đi thăm chung. Mấy gia đình dồn quà bánh thức ăn làm một thúng, cử một hay hai người nộp đơn vào thăm để nhắn tin tức. Có kỳ phép chỉ được vài gói xôi, nải chuối, gáo mắm tôm, sườn rang và cả bánh khúc, bánh khoai sọ nhà làm lấy. Những bữa ?