← Quay lại trang sách

IX. ĐÓI BỐN NHĂM

IX. ĐÓI BỐN NHĂM

1. BỘ BÀN GHẾ GỞI NHÀ TÔ HOÀI

Cái bàn ấy bằng gỗ tạp có hai ngăn kéo là của một người họ đã dùng làm bàn ăn để lại cho. Chị ta phải để lại nó cho tôi vì chị không thể đi đâu cũng tha nó theo, nhất là chị lại làm cái nghề gọi là cái nghề lấy Tây. Cái bàn bằng gỗ tạp lại chỉ đánh véc ni nhếnh nhoáng nên trông càng rẻ giá, mua đâu có bảy đồng nhưng giấy biên lai lại kê những mười đồng. Thế là nguyên cái bàn chị ta đã được đôi ba đồng. Ấy là không kể trong món tiền sắm sửa đồ đạc, chị còn khai thặng lên hàng chục bạc nữa. Chị đã chìa thêm một nắm biên lai nữa, ném ra giữa bàn ăn có đủ cả rượu vang, cua phá xí cà chua, đậu vàng trộn dầu giấm và trứng. Không kể còn một đĩa tú ụ nem rán và một bát ô tô hành tây cà rốt ngâm giấm ớt đặc sệt nữa. Và chị quát với thằng cai Tây da đen chồng mới kia rằng:

- Toa ba bôồng, moa tút-xê săng piết, moa a-xơ-tê cẩm xà, toa điếc moa ga-nhê bố cu. Sí toa công-tăng bôồng mác xê... a lê...a lê xeéc-sê con gái vườn hoa... Moa xăng phú toa, phút toa la phót tút suýt. (12)

-----

(12)Mày không tốt, tao chỉ lấy mày có một trăm đồng, tao sắm sửa như thế, mày bảo tao hời nhiều. Như vậy nếu mày thích của rẻ thì đi mà tìm con gái ở vườn hoa. Tao không cần mày đâu! Đuổi mày ra cửa ngay bây giờ!

Kể ra bỏ có một trăm đồng rồi mặc cả đi đến ngã ngũ với nhau, mua được nào giường có nệm, màn mới, bàn ghế và hai tháng nhà trả tiền trước. Lại còn một tháng ăn ở nhà có đủ bốn bữa chiều thứ bảy và cả ngày chủ nhật, sang ngon hơn cả ô-ten thế kia. Lại còn được cả vợ nữa, một người hiểu và nói tiếng Tây vào loại thành thạo, biết làm các món ăn đúng với khẩu vị của người chủ chi tiền, thì cũng là một sự tính toán khá là sát sóng và đẹp đẽ rồi!

Tôi đã mua lại cái bàn ấy khi tôi ở trại giam về lấy nhà tôi. Lúc đầu nhà tôi có ý không bằng lòng việc mua bán và sử dụng này. Lý do thứ nhất, nó là của một người chết. Chị S. bán lại đồ đạc cho tôi xong, lên Cao Bằng thì mất, một người bạn cùng nghề phải đứng ra lo liệu chôn cất cho ở trên ấy. Lý do thứ hai, nó cũng chẳng tốt đẹp gì mà lại là thứ đồ của... Tây, Tàu. Chao ôi! Nhà tôi, một người con gái ở gia đình có một ông anh ruột mẹ đã ăn cơm muối ngủ đất, không súc miệng xỉa răng, mượn quần áo nâu rách vá mặc, để tang bà mẹ đúng bốn mươi chín ngày, cái người con gái học rất thông minh, từ lớp bét đến lớp nhất toàn được khen thưởng, nhưng nhà vẫn nhất định không cho đi học thêm vì đã mười sáu, mười bảy tuổi rồi,... cái người con gái thuộc lòng gần hết Truyện Kiều và các bài thơ, đặc biệt là thơ của Thế Lữ, mà khi lấy tôi, tôi muốn tra cứu về thơ thì phải hỏi và bảo đọc cho nghe những bài, những câu của nhiều bài thơ mình quên lẫn, - một người con gái như thế thì làm sao yên tâm được với cái bàn như vậy! Nhất là cái bàn nọ lại kê ngay ở gian buồng ngủ của mình và là bàn viết của chồng!

Nhưng sau nhà tôi dần dần cũng theo ý tôi. Theo ý tôi, vì việc đã rồi, vả lại đồ đạc cứ mỗi ngày một đắt. Theo ý tôi, nó là kỷ niệm của tôi, một kỷ niệm sâu sắc thấm thía cũng như một số đồ đạc trong cái gian nhà lá ở tỉnh Nam Định quê hương chôn rau cắt rốn của tôi mà chúng tôi quen biết rồi yêu nhau và quyết tâm lấy nhau.

⚝ ❖ ⚝

Trước đấy ba năm, cũng khoảng hết xuân sang hè như dạo tôi đón nhà tôi về ấy, cũng dưới cái mái nhà lặng lẽ và trên cái bàn nọ, tôi đã viết và viết để rồi đi trại giam.

Tháng 5 và tháng 6 năm 1940. Danh sách những người đưa đi tập trung từng đợt, từng đợt đã đầy đủ ở Sở mật thám Hải Phòng.

Tôi không cần đợi ai mách bảo cũng biết chắc chắn có mình. Không những thế, tôi còn có thể tính được vào khoảng nào mình sẽ bị bắt đi. Vì nhà tôi, mỗi ngày có hẳn một thằng mật thám cứ ngồi chơi hết ở cửa hàng mẹ tôi bán kẹo bánh dưới gốc đa, lại vào tận trong nhà mà hút thuốc, đọc báo, đọc truyện.

Tôi càng thấy không thể không viết được. Sau nửa năm tù ở đề lao Hải Phòng ra, viết đối với tôi càng như là sự sống chết. Tập Tù trẻ con hơn 300 trang của tôi gởi lại Như Phong giữ thế là hoàn toàn tiêu hủy! Nó đã bị mật thám trên Hà Nội đốt. Tập phóng sự Bụi đen dành viết cho báo Mới của Đoàn Thanh niên dân chủ xuất bản trong Sài Gòn cũng bị giữ lại ở Sở mật thám Hải Phòng. Dù đã có tập Những ngày thơ ấu viết xong phần đầu và một số truyện ngắn đã xếp thành tập Bảy Hựu rồi, nhưng đó là những cái cũ, những cái đã viết đã đăng! Mười tám, hai mươi tuổi, đã tìm được đến Cách mạng và Đảng, đã thấy thế nào là sự sống, nhất là đã thấy thế nào là ý nghĩa của sự sống, và là một sự sống có ý thức, thì tôi phải bằng bất cứ cách nào, bất cứ giá nào viết thêm những dòng chữ, có thêm những tác phẩm! Những dòng chữ và những tác phẩm chứng nhận sự sống của tôi, lý do và nội dung của sự tồn tại của tôi. Những dòng chữ và những tác phẩm để góp một phần nhỏ bé chứng tỏ sự sống của một nền văn học nghệ thuật chân chính và cách mạng. Những dòng chữ và những tác phẩm để góp thêm một tiếng thét vào mặt bọn đế quốc thống trị cùng bè lũ tay sai của chúng: chính Cách mạng và chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chân lý và nhất định chiến thắng!

Vào khoảng từ ngày 22, 23 tháng năm đến ngày 3, 4 tháng sáu tôi viết được sáu hay bảy chương của tập Xóm cháy. Xóm cháy là cuộc đời của những quần chúng lao động nghèo khổ, giác ngộ đấu tranh ở chung quanh tôi, họ là đất sống và lẽ sống của bước đường viết văn của tôi. Với sáu, bảy chương viết khi còn ở nhà và hơn hai mươi chương chừng hơn hai trăm trang giấy

pơ-luya viết trên trại giam Bắc Mê đã bị lấy mất đi, tôi đã viết lại thành một phần chính của tập Sóng gầm trong bộ Cửa biển sau đây.

Những ngày vào hè năm 1940 ấy tôi gần như không còn biết gì là nóng nực. Cái nung nấu của không khí khủng bố đang hết sức dồn dập để kịp với tình thế diễn biến của chiến tranh, còn hầm hập và ngột ngạt gấp bội cái thời tiết nắng chói chang và nhoi nhói dông bão. Càng khuya, nhìn vào bức vách quét vôi trắng, một mình trước cái mặt bàn véc ni đã bạc trông như mặt ván thôi, đưa ngòi bút tràn qua những trang giấy quyết định sự sống còn của mình, tôi gần như không còn biết mệt mỏi, gần như không còn dám để cho mình một phút trống trải chậm chạp.

... Sắp sắp gọn ghẽ những trang bản thảo cuối cùng, tôi để lại cho mẹ tôi, rồi ra xe ngồi cùng thằng mật thám thường trực canh gác tôi đến Sở mật thám. Đúng hai hôm sau, tin Pa-ri tuyên bố bỏ ngỏ, quân Pháp đầu hàng không điều kiện, quân phát xít Hít-le tràn vào khắp đất Pháp như một bãi tha ma. Chúng đưa tôi lên Sở mật thám Hà Nội vào khoảng giữa tháng sáu, sang tháng bảy thì giải đi trong chuyến thứ hai lên trại giam Bắc Mê Hà Giang.

Cũng vào hồi cuối tháng năm, đầu tháng sáu tôi lấy nhà tôi, đón nhà tôi từ Nam Định về Hải Phòng. Năm ấy là năm 1942. Và tôi lại viết trên cái bàn ấy. Cái bàn nay kê sát cạnh giường chúng tôi.

⚝ ❖ ⚝

Nhưng rồi chúng tôi cũng phải bỏ cái gian nhà tổ ấm kia, nghĩa là chúng tôi cũng phải bỏ cả Hải Phòng đầy kỷ niệm mà đi tỉnh khác.

Sau trận ngày 9 tháng tám 1942, Mỹ bỏ bom Hải Phòng càng dữ dội. Không hiểu có những chỗ nào của quân đội Nhật đóng hay là những kho gỉ kho gì quan trọng đã bị tình báo hay gián điệp Mỹ tìm ra và báo cho Mỹ bắn phá, chứ những nơi, những khu trúng bom của Hải Phòng toàn là phố xá, nhà cửa của dân cư, và người chết toàn là Việt Nam và Hoa kiều. Ngay trước xóm nhà tôi ở, cái xóm chỉ có những người đi làm ở bến tàu to Sáu Kho và những người làm ruộng, đã bị trận mở màn tấn công ấy của Mỹ bằng máy bay trên đất Hải Phòng mà Nhật chiếm đóng quân. Rồi thì đến phố Khách, đến chợ Sắt, phố Tám Gian, Hạ Lý, bến tàu. Toàn những chỗ buôn bán làm ăn, đông đúc thợ thuyền và toàn là thường dân! Chẳng nhẽ lại bỏ nhầm! Chẳng nhẽ lại lạc bom! Sao không thấy nhầm, thấy lạc vào các khu mà ai cũng biết rằng sờ sờ có trại lính Nhật? Sao không thấy nhầm thấy lạc vào các khu phố Tây ở, những khu dinh thự cố định đã chụp in thành bưu ảnh và họa sẵn thành bản đồ: tòa Đốc lý, trại lính Cát-dem, nhà băng, v.v...

Trong những người chết bom Mỹ có một ông cụ vừa ra quán mẹ tôi mua diêm thuốc và mấy chiếc kẹo bột về cho cháu và anh em thằng bé vừa cõng nhau nhong nhong chơi dưới gốc đa cạnh quán, đón mẹ đi tầm ngoài Sáu Kho về để ăn quà.

Nhà tôi bị hen kinh niên và hen nặng. Những cơn lên bệnh, đang thở tưởng đến bứt cả ruột cả gan và tím đen cả mày cả mặt lại, mà còn chạy bom, thì tôi yên tâm làm sao? Chỉ nói là nhìn nhà tôi thôi chứ không nói là ngồi lấy tứ lấy hứng hay tập trung tập triếc cảm xúc mà viết được?! Trên đây là một lý do.

Còn lý do nữa là tôi không thể đi đâu một bước mà không có mật thám theo dõi dù đã được bỏ sổ quản thúc phải trình diện hàng tháng rồi! Vậy nhân cái dịp chạy loạn lung tung này, tôi cứ đi các nơi đã. Văn hóa cứu quốc đã thành lập. Vũ Quốc Uy, Như Phong, Tô Hoài và tôi đã chính thức họp nhóm và chia nhau công việc. Tôi có thể để nhà tôi ở một nơi tạm tạm ổn định rồi phải tích cực hoạt động. Tôi sẽ trở lại Nam Định hay lên Hà Nội nơi quen biết và có nhiều anh em, nhiều cơ sở.

Chúng tôi đã đóng đồ, liều đi tàu thủy mà chạy bom Hải Phòng. Chúng tôi về Hưng Yên. Giang sơn của hai vợ chồng son chúng tôi vẻn vẹn có một cái giường, một cái hòm và một cái bàn. Cố nhiên vẫn là cái bàn gỗ tạp, véc ni bợt bạt đã mọt nhiều chỗ ấy. Và một cái ghế cũng bằng gỗ tạp, mặt mây đan, mua sau ngày cưới của chúng tôi.

Chuyến tàu ấy đi trót lọt.

Chúng tôi thuê một gian nhà lá ở cuối một phố chợ chung nhà với mấy gia đình làm ăn buôn bán nhỏ nhặt. Vì gian này là một cái chái trước kia làm buồng chứa đồ, nên chật hẹp, ẩm thấp, mờ tối. Tôi lại phải kê bàn sát cạnh giường nằm. Nhiều khi cũng không ngồi ghế mà ngồi ngay mép giường viết. Vì cái khoảng đất trống chỉ hơn hai thước chừa ra để lấy chỗ ra vào lại còn xếp nào hòm, nào rổ rá gạo củi mắm muối.

Về đây tôi chỉ có vợ chồng một anh bạn cũng làm báo viết văn. Còn nhà tôi thì có một chị bạn nhiều tuổi hơn khá thân nhau. Chồng chị là nhà giáo nhưng không dạy mà làm thư ký ở bàn giấy Đốc học. Con đường phố tôi ở đã vắng lại gần đường trong làng trồng nhãn nên càng yên tĩnh. Cả ngày tôi như không có ai gọi đến mình. Những lúc nhà tôi ra chợ mua thức ăn hay đi chơi nhà bạn, tôi lại càng lụi hụi với cái bàn viết.

Ánh sáng vào buồng qua mấy khe cửa và khoảng trống đằng sau lưng tôi. Một thứ ánh sáng lúc trời nắng to nhất cũng vẫn dịu mát. Phần vì cũng nhờ các bóng cây ngoài vườn và những làn gió thổi từ ruộng lúa và hồ sen khu đằng sau. Chao ôi! Cái dịu mát của ngày thu nắng thoảng những hương lý, hương cúc, và chuối tiêu, na, bưởi. Trong khi tôi sống với nó thì nhân vật của tôi lại đang ở trong một vực thẳm.

Vực thẳm là một truyện vừa, truyện một người con gái, truyện dựa theo một phần đời sống của người con gái ở chung nhà với tôi ngoài Hải Phòng. Câu chuyện ấy phải để đến khi tôi bỏ Hải Phòng ra đi thì mới dám viết!

Người con gái của tôi ấy đã bị sự nghèo đói cùng kiệt và những tục lệ ác nghiệt của xã hội tàn phá cả một tuổi thơ ấu và thanh xuân gần như không được thoảng qua một làn gió, một ánh dương. Và từ cái vực thẳm của xã hội tàn bạo đó, những tiếng kêu thống thiết cất lên với những dòng chữ của tôi. Những dòng chữ viết trên cái bàn chật hẹp kia mà tôi phải tìm các cách nói sao cho lọt được kiểm duyệt, cho được in thành sách lúc bấy giờ! Và những dòng chữ, những trang sách ấy đang nuôi sống tôi đây, nuôi sống vợ chồng tôi đây!

Càng trưa nắng nhà tôi càng im ắng. Tiếng mọt đều đặn rền rĩ thành nhịp của bàn tôi ngồi viết càng nổi rõ, càng miết vào không khí, càng xuyên sâu vào tâm trí tôi. Nhiều lúc tôi không sao viết được ra chữ! Cái thị xã Hưng Yên chỉ đông vui buổi sáng ở phố chợ. Ngoài phố chợ còn có bến ô tô cũng được đôi lúc nhộn nhịp. Và ngoài bến ô tô và khu phố chính có các cửa hàng tạp hóa, hàng vải lụa, hàng mũ, hàng giày, hiệu thợ may, cắt tóc, hiệu sách báo, v.v..., thị xã cũng tấp nập trong những ngày phiên chợ, nhưng chỉ đến trưa là đã thưa vắng rồi. Ấy là ban ngày. Ban đêm, chỗ trưng đèn và ồn ào độc nhất là rạp hát ngoài chợ. Đèn măng sông. Âm nhạc nổi nhất là tiếng trống, tiếng mõ và đàn nhị cử lên đến mức như thét, như vỡ.

Tất cả phố xá, bến chợ đã nhỏ bé hiền lành lại càng nhỏ bé hiền lành trong những buổi trưa nắng thu dịu mát ấy. Và như càng làm tăng thêm cái vẻ bề thế trang nghiêm chừng như bất di bất dịch của những dinh Công sứ, Tuần phủ vẫn đủ lệ bộ tòa nọ phòng kia của các thứ quan, các thứ chức với các lính gác lính hầu. Ảnh của Thống chế Quốc trưởng Pê-tanh không những chỉ treo ở những nơi này để mọi người chiêm ngưỡng và suy nghĩ về cái đời sống được phục hưng yên ổn, mà còn treo cả ở cái rạp hát trống tuềnh trống toàng bẩn ngập lên gần phố chợ. Và trước giờ kéo phông, người xem cũng phải bắt buộc đứng lên chào vị cứu tinh của cả nước mẹ Đại Pháp và các thuộc địa, các xứ bảo hộ.

1943

Trên đất nước Pháp bị phát xít Hít-le chiếm đóng, máu của chiến sĩ và đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, và máu của nhân dân Pháp đang hàng ngày nhỏ giọt ở các bãi bắn và nhà giam đây! Trong khi đó ở những trại tập trung Ốt-ven-xim, Ao-xơ-vích, và Bun-khơn-van tại Ba Lan, Tiệp Khắc và Đức, những lò thiêu xác đang ngày đêm lừ đừ rỉ khói.

Hàng vạn con người, hàng vạn con người đang bị đúng là một bọn thú dữ mặt người mang dấu hiệu chữ thập ngoặc trên trán, chúng nó tàn sát và lấy công việc này làm sinh thú, làm văn minh và lý tưởng.

⚝ ❖ ⚝

Về Hưng Yên ở được hai tháng thì chúng tôi lên Hà Nội. Cũng lại bằng tàu thủy. Giang sơn vẫn vẻn vẹn một cái giường, một cái hòm đựng quần áo, sách vở bản thảo, và bộ bàn ghế để ngồi viết. Tìm nhà cho tôi là Như Phong. Nhà thuê dưới bãi Nghĩa Dũng.

Gian này tuy chỉ gần hai mươi thước vuông, nhưng với chúng tôi thế cũng là quá rộng rãi. Chúng tôi ở có một nửa, còn một nửa chủ nhà để khung cửi. Cái khung cửi này bày đấy làm vì, để hàng tháng mua sợi. Chỗ sợi bà chủ nhà đưa về trên quê Phú Thọ, lúc thì bán lại cho các nhà dệt trong xóm rồi mua chè đem về Hà Nội, lúc thì cho bà con dệt hoặc chia vải hoặc trả công. Giường chúng tôi kê cạnh khung cửi đó. Còn bàn viết lần này đàng hoàng có cửa sổ đón ánh sáng và gió mát từ phía tay trái vào.

Chung quanh tôi cũng vẫn những gia đình làm ăn buôn bán nhỏ nhặt. Nhưng cảnh sống không heo hắt quá như ở cái xóm nghèo cuối phố chợ Hưng Yên, và không nhiều thợ nhà máy và phu phen như cái xóm Cấm hay làng Đông Khê của tôi ở Hải Phòng trước. Từ ngày dọn lên đây, tôi cũng đỡ nhớ Hải Phòng. Viết cũng thấy chạy tay hơn. Vừa phần được gặp gỡ nhiều anh em và luôn luôn được tin tức của tổ chức, đặc biệt là được đọc đều báo Cứu quốc. Vừa phần, hình như sau những cuộc gọi một cách văn vẻ theo lối nói lúc bấy giờ là "xê dịch" hay "thay đổi không khí" ấy, nhà tôi thấy đỡ bệnh, khỏe mạnh hẳn lên. Việc chép bản thảo cho tôi đều đặn và được nhiều hơn. Nhà tôi còn tính đến cả chuyện đi nhận các hàng len về đan để lấy tiền thêm cặp sinh sống. Sáng chiều nhà tôi cũng mượn thùng cùng bà con ra ngoài sông gánh nước về đổ đầy vại đánh phèn ăn chứ không thuê mua nước máy. Quần áo chiếu cũng đem ra bến đây giặt, lên xuống hàng hai chục bậc đá.

Tôi đã sửa lại tập Hơi thở tàn để đưa nhà xuất bản Thời đại.

Tập này viết từ đầu 1942 ngày tôi ở Nam Định và đã đưa nhà xuất bản Kiến thiết in một nửa lấy tên là Ngoài kia. Tiền tác giả của Ngoài kia được hơn trăm đồng. Cộng với tiền tác giả của tập Cuộc sống đưa nhà Tân dân được vào khoảng hơn trăm đồng nữa cũng viết vào khoảng đầu năm đó, tôi đã cưới nhà tôi. Đã phải viết liền hai tác phẩm và đã dồn tất cả tiền để lo liệu, mà tôi vẫn hồi hộp và có lúc tưởng như việc lấy nhau của chúng tôi không thành. Vì bà đẻ nhà tôi bảo ít ra cũng phải đủ năm hay bốn trăm đồng thì mới thu xếp được!

Không phải vì bà đẻ nhà tôi muốn bán con gái để lấy tiền công đẻ công nuôi. Cũng không phải vì bà đẻ nhà tôi định làm cỗ nọ tiệc kia lấy tiếng lấy tăm! Cũng không phải vì lo cho tương lai con gái, mà phải có vàng có ngọc, có quần nọ áo kia, có của mặt, có của chìm khác để làm vốn liếng riêng tây. Tôi đi tù về sốt rét vàng vọt, quản thúc ở Nam Định. Có mỗi bà mẹ thì ở mãi ngoài Hải Phòng bán cái quán bánh kẹo diêm thuốc cho các người đi làm Sáu Kho, Máy tơ. Cảnh như thế còn trông thấy cái gì mà thách mà đòi! Nhưng dù là yêu nhau, dù là cùng cảnh nghèo, dù là thật thà hiền lành, dù người cùng xóm cùng tỉnh, dù tôi là văn sĩ có tài, có tiếng và có giời đất gì đi nữa... thì hai chúng tôi cứ phải lấy nhau có miếng trầu chia cho bà con anh em họ hàng và mọi người quen biết. Chao ôi! Miếng trầu để nhìn nhận, miếng trầu để chứng thực, miếng trầu để báo tin, miếng trầu để được mừng cho, để được nhắc đến.

... Vẻ gì một miếng trầu cay,

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không!

Vì vậy bà đẻ nhà tôi cùng các bà con thân thiết trong họ đã tính nát ra mà cũng phải mất ba trăm đồng để mua trầu mua cau, mua chè lạng, chè bao, chè lọ và mua mứt! Còn quần áo hoa nhẫn không có thì thôi. Mặc kệ, vợ tôi muốn cởi trần về ở với tôi cũng được!

Các bạn văn tôi trên Hà Nội nghe chuyện này, nhất là cái chuyện đem những hơn hai trăm đồng tiền của cả hai cuốn sách để lo liệu việc thách cưới, thì có người nổi xung lên:

- Cái thằng Nguyên Hồng nó không lấy vợ thì chết ngay à? Làm gì mà nó phải đem tiền đổ đi như thế!

Thậm chí có người định kéo anh em về hẳn Nam Định mà phá cái vụ cưới xin vô lý hoang phí khốn nạn này của tôi.

Chao ôi! Ừ thì tôi không lấy vợ, cũng không chết ngay. Nhưng tôi thấy tôi không chết ngay thì cũng không thể sống như thường mà viết được nữa. Thôi, tôi xin được làm một con người xoàng xĩnh thấp hèn bên cạnh những con người thiên tài sống hào hoa phong nhã, giang hồ lạc phách và thấy mình phải còn cao quý ngang ngạnh hơn cả thần linh kia! Nghĩa là tôi đưa tất cả tiền tác giả của Cuộc sống và Ngoài kia cho mẹ tôi, còn mẹ tôi thì nhờ bà con nói khó một lần cuối cùng để bà đẻ nhà tôi cố thu xếp sao cho hai cháu vui vẻ!

... Cùng lúc tôi sửa chữa xong Ngoài kia thành tập Hơi thở tàn, và viết thêm được một số truyện ngắn trong đó có truyện Lúc chiều xuống, nhà tôi cũng làm quen với nhiều bà con xóm ngõ ở đây. Cái không khí thân thuộc khiến chúng tôi đã nghĩ đến có thể bám lấy nơi đây như đã bám lấy xóm Cấm hay xóm chùa Đông Khê của Hải Phòng vậy. Chỉ chờ đợi ít lâu nữa là chúng tôi sẽ đón mẹ tôi lên, và mẹ tôi sẽ lại dựng cái quán ở đầu dốc xuống bãi hay gần bến tàu điện để vừa lấy nơi sinh sống, vừa làm chỗ nghe ngóng tình hình, hẹn hò gặp gỡ liên lạc với một số anh em đồng chí.

Bến bãi sông Hồng vốn đã đẹp, mùa đông năm ấy thuận thời tiết lại càng đẹp. Cả những hôm nắng to, cũng như hôm sương mù gió lạnh. Cả những buổi rạng đông tưng bừng báo hiệu, cũng như những buổi ráng chiều man mác quan san, cũng như những buổi trưa nắng gió lộng lẫy. Chao ôi! Đất bãi phù sa, rau ngô, khoai đỗ và mây nước sông Hồng.

... Hồng Hà,

Tên con

Dòng sông lặng lẽ

Cát bạc trời xanh mây trắng

Mây trắng cát bạc trời xanh

Bè gỗ lênh đênh

Buồm nắng

Không! Những cánh chim

Không! Những mây rơi

Không! Những thuyền xuôi ra biển...

... Hồng Hà

Tên con

Dòng sông lấp lánh

Những sớm mai tràn nắng

Cát bãi thở hơi

bờ sương quấn quýt

Giờ lúa xanh lại hát

Quả chín nhức thơm

Vỏ cây nhựa nứt nồng nàn

Hoa mọng như môi người

Sóng nước sơn ca dào dạt...

Hồng Hà

Tên con dòng sông bát ngát

Con dắt tay cha trên dòng sông đi mãi...

Nhà tôi đã có mang đứa con đầu lòng trên bờ sông Hồng và lấy tên dòng sông đặt cho con.

⚝ ❖ ⚝

Nhưng rồi cả Hà Nội cũng bị ném bom!

Cũng toàn những chỗ không hiểu đã được do thám và chỉ điểm ra sao mà lại là những đích tàn phá đầu tiên và dữ dội đến thế? Trong những chỗ này có cả đường Hàng Bột, chợ Hàng Da. Con đường Hàng Bột không những đã chật vướng vì đường tàu điện, mà còn vì sự đi lại của tất cả những xe kéo, xe bò, xe ngựa, xe ô tô, từ Hà Đông ra Hà Nội hay từ Hà Nội vào Hà Đông, và cũng là con đường nhà cửa so le, chen chúc, cống rãnh ngập ngụa nhất nữa. Còn chợ Hàng Da, nếu có một cái gì đáng chú ý, thì có thể là cái nhà thờ Tin lành bé nhỏ khuất lảnh, và cái bãi trống trơ đội trời họp chợ, thường đông về chiều kia! Nhà bị phá bị cháy la liệt trần trụi. Xác đàn bà trẻ con tung lên, chân tay đầu tóc dính bết vào các ngọn cây, các cột điện. Đấy là những cảnh chính mà mọi người phải nhìn phải nghĩ. Và cũng là đầu đề của những câu chuyện truyền miệng rất tỉ mỉ với tất cả sự hãi hùng, ghê lạ, khủng khiếp trước cái trận đánh đưa tin là oanh tạc, tuyệt diệu của máy bay Mỹ mạnh mẽ, tài giỏi, vô địch!

Tiếng còi gọi là phòng thủ thụ động đã được đón chờ, rú lên ngay từ sáng sớm. Từ lúc còn tối đất, các cửa ô và ngả đường về các vùng quê Hà Đông, Chèm - Vẽ và Sơn Tây, lân cận Hà Nội, đều ùn ùn những chuyến xe kéo và đàn bà trẻ con, ông già bà lão dắt díu nhau ra đi. Mấy nơi như bờ hồ Hoàn Kiếm, phố Bờ Sông, hay vườn hoa Sở dây thép cũng có "tăng sê" đấy, nhưng đúng là những cái rãnh nông choèn, và nếu có người trú ẩn thì chỉ mấy trăm người là ứ chỗ. Nhưng các hầm của các quan nọ, chủ kia, ông này bà khác, giàu có sang trọng, quyền quý tiếng tăm của Hà Nội, thì chỉ nghe đồn, nghe tả thôi, cũng đủ thấy chiến tranh hay bỏ bom như thế chứ gấp mười thế nữa, và kéo dài đến năm năm hay đến trăm năm mươi năm, cũng không mùi vần gì. Nghĩa là mỗi cái hầm như thế, nguyên tiền cốt sắt và xi măng đã hàng vạn đồng. Còn chắc hơn quả núi! Bom nào có ném trúng đấy cũng trượt đi. Cốc nước cam hay tách sữa để mấp mé trên bàn dưới hầm cũng không việc gì. Ấy là không kể nhà chủ có thể ăn ngủ, đánh xúc xắc, bài sừng hay hút thuốc phiện ở cả dưới hầm nữa.

- Thôi không về nhà quê hay quê hương Nam Định thì về đâu cũng được!

- Thôi đã chịu khó viết thì ở đâu cũng viết được!

- Thôi nếu như các nhà xuất bản có chạy loạn, đóng cửa tạm ngừng ra sách, thì mình tìm cách làm ăn khác mà sinh sống!

Nhà tôi lại bàn và nhất định không ở Hà Nội nữa.

Đúng lúc chúng tôi nếu không đem cầm đôi hoa tai hay chiếc nhẫn cưới đi, là không còn tiền nong gì cả. Nhưng, dù lại phải đem mấy thứ ấy đi cầm, thì ai đi bây giờ! Nhà Vạn Bảo đến bảy giờ sáng mới mở cửa. Đúng vào tầm máy bay Mỹ ném bom. Vả lại vợ chồng đem nhau về quê nào đấy, dù có người quen biết thân thuộc, cũng phải tính đến cảnh hết tiền mà không tiện vay mượn ai cả. Như thế nhất định phải cố để dành mấy phân vàng kia mà độ thân. Chứ lúc này quẫn quá phải liều đến gửi Vạn Bảo, cũng chỉ được mươi lăm đồng thôi! Đã thế lại còn lúc chuộc, từ nhà quê ra Hà Nội ăn chực nằm chờ để hứng lấy bom đạn mà chuộc vàng ư?!

Nếu vậy hay là bán đồ đạc. Phải, chỉ nên bán đồ đạc thôi! Đã chạy về quê còn cần gì bàn với ghế. Vả lại, còn có chỗ tàu xe nào chuyên chở đi xa được bây giờ? Ấy là không kể chỉ một chuyến xe ba gác hay xe kéo chở từ nhà ra ga thôi, cũng phải thuê hàng hai ba đồng. Không khéo lằng nhằng lại chết vì đồ với đạc! Vừa phần không thể nào chen chúc được với mọi người đang tranh cướp nhau từng phút, từng chuyến tàu lúc bấy giờ. Vừa phần đồ đạc của mình nào có đáng giá gì.

Một buổi chiều trở gió, trời chóng tối và lạnh ngắt. Tôi đi lên phố gõ cửa các nơi để xoay xở lấy ít tiền chạy loạn mà không sao được. Khi về nhà, bỗng thấy vợ tôi tươi tỉnh khác thường. Đặc biệt là chăn màn, quần áo đều xếp gọn.

- Xong cả rồi!

- Sao?

- Có tiền rồi!

- Tiền nào?

- Tiền của mình ấy!

- Tiền nào của tôi?

- Tiền bài của mình ấy!

- Bài nào?

- Tiền bài Lúc chiều xuống ấy! Anh Huy Cận và anh Xuân Diệu vừa đưa cho hai mươi đồng đây này!

Phải, đúng hai mươi đồng! Nó là hai mươi đồng đưa trước của báo Thanh niên số Tết anh Huỳnh Tấn Phát làm chủ bút tập hợp một số bài của anh em xuất bản ở Sài Gòn. Trong số đó có thơ của Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh và tùy bút của Nguyễn Văn Bổng: "Say nửa chừng".

Sáng hôm sau, chúng tôi lại thu dọn tất cả đồ đạc vào một xe ba gác. Vẫn cái giường, cái hòm và bộ bàn ghế. Chúng tôi thuê hai đồng bạc xe lên Bưởi, gởi tất cả cái giang sơn ấy ở nhà Tô Hoài làng Nghĩa Đô.

⚝ ❖ ⚝

Tôi lại viết như kiểu ở trại giam và khi về quản thúc ở Nam Định.

Lúc tôi lấy cái va li làm bàn. Lúc tôi cuộn chặt cái chăn kê thêm sách báo, mở rộng tờ báo to có bìa cứng làm mặt bàn. Lúc tôi lấy thúng đồ khâu và thuốc men của nhà tôi độn thêm sách báo, và viết trên cái mẹt đậy thúng. Còn chỗ viết thì trên giường, dưới đất, bên liếp vách, cạnh bậc cửa, tùy theo thời tiết và chỗ ở.

Chúng tôi ở nhờ. Một dạo nhờ nhà N. trên làng Đề Cầu huyện Thuận Thành Bắc Ninh. Sau dọn xuống xóm Đạo làng Đình Tổ huyện Văn Lâm Hưng Yên. Mẹ tôi và nhà tôi gánh nón đi bán các chợ Cầu Nôm, chợ Hè, chợ Huyện gần đấy. Vốn liếng cụt dần. Tất cả dây chuyền, hoa tai và nhẫn cưới của nhà tôi đã đem giả lại hiệu để lấy tiền làm vốn. Nghe nói thì giá vàng cao lắm, vậy mà không hiểu sao bọn đồ của chúng tôi lại chỉ được có hơn trăm bạc. Ấy là mua của hiệu Khách lại trả cũng hiệu Khách. Trả của chính hiệu mình đánh vàng mà sao lại trừ vẩy hàn, trừ hao mòn mất nhiều thế này, và lại chỉ được giá thế này?! Mấy bản thảo tiểu thuyết và truyện ngắn của tôi đưa cho mấy nhà xuất bản quen trầy trật lắm mới được tiền. Nhưng lần năm mươi đồng, lần ba mươi đồng, quanh quẩn thế nào lúc ra sách tính tiền nhuận bút thì mình đã ký vay nhiều hơn. Nghĩa là mình còn nợ và lại nợ!

Chúng tôi sinh cháu trai đầu lòng. Bà đẻ vợ tôi đã bỏ cả nhà ở quê mình Nam Định về quê chồng Sơn Tây mà đến bế con cho chúng tôi. Hai bà nội, ngoại càng thương, càng quý, càng chăm cháu bao nhiêu thì tôi càng... lo bấy nhiêu.

Đúng sau vụ mùa năm 1944 ấy, nhà tôi vét bồ còn được một thúng thóc, và kiểm đi kiểm lại mãi gánh nón chỉ còn được hai mươi cái nón lá vàng đồng mốt, đồng hai một cái, năm sáu cái nón lá trắng, đồng ba, đồng tư một cái và ba bốn cái áo tơi cũng chỉ hơn đồng một cái. Lúc này thóc gạo đã từ ba mươi đồng một gánh lên đến một trăm ba mươi đồng, rồi một trăm sáu mươi đồng.

Chúng tôi chỉ ngày bữa cơm, mỗi người ba lưng bát, độn khoai, và bữa cháo thôi, cũng phải ba thúng thóc một tháng!

Đã lắm lúc tôi ngồi viết như ngồi trên đống lửa. Người đói đã về chết ở cả ngay chợ, trong quán mẹ tôi bán hàng và ở cả cửa ga tôi thường ra đón tàu lên Hà Nội. Trời càng rét. Rét năm ấy thật là đặc biệt.

Sau chuyến đi Hà Nội với Kim Lân, đem bản thảo gõ cửa các nhà xuất bản không nơi nào cho vay tiền cả, tôi trở về quê, đến nhà thì toát người ra.

Vì cả đói, mệt và rét.

Và cũng vì thấy bà đẻ nhà tôi ở Sơn Tây lại xuống. Đẻ nhà tôi dỡ ra nào mũ thóp, nào yếm dãi có thể mặc kín cả ngực, nào bột sắn, nào đường phèn cho "thằng Hà của bà", nào cương tàm thuốc hen của mẹ nó, và nào những rễ gỉ rễ gì để mẹ nó sắc uống cho nhiều sữa! Rồi bà giằng ngay lấy thằng cháu, bế xốc lấy nó, và cầm miếng chè lam chấm chấm vào miệng cháu:

- Cháu bà lại ho hay sao mà khò khè thế này? Mẹ nó có chịu mặc ấm cho nó hay không? Trời rét có rửa ráy cho con thì phải mang nó vào trong buồng kia, và phải đốt sẵn đống lửa, để sẵn quần áo tã thay bên cạnh ấy!

Một tay ôm cháu, một tay cầm miếng bánh to bằng nửa viên ngói để đấm mồm đấm miệng ấy, đẻ nhà tôi quài lại sau lưng đưa cho nhà tôi và giục:

- Mẹ nó ăn đi, ăn đi! Rồi đi xin ngay ít hoa hồng bạch về hấp với đường phèn cho nó uống đi...

Phiên chợ ấy, mẹ tôi bán được mấy cái nón và áo tơi thì đong cả gạo. Nhà tôi lại nắm cho tôi một nắm to và rang vừng muối giã gói để tôi đem đi Hà Nội ăn. Tàu đến ga, khách xuống gần hết mà tôi vẫn còn ở trên toa. Rồi khi ra khỏi cửa ga, tôi gần như mặc cho bước chân muốn đưa mình đi đâu thì đi, đến đâu thì đến. Cố nhiên là tôi không thể nào đi đến nhà xuất bản.

Tôi đã lên tàu điện. Tàu điện tôi đi từ Bờ Hồ lên Bưởi.

A! Sao tôi lại lên Bưởi? Thế là tôi nhất định lên nhà Tô Hoài à? Tôi lên Tô Hoài để hỏi Tô Hoài xem vẫn còn nhà xuất bản nào nhận bản thảo ư? Không! Tôi lên Tô Hoài hỏi vay Tô Hoài tiền ư? Không! Hay không hỏi vay Tô Hoài tiền thì nhờ Tô Hoài giới thiệu ai đó để vay tiền ư? Cũng không! Vậy tôi đi để làm gì?

Câu hỏi thầm ấy càng rõ tiếng, càng rành mạch trong tâm trí tôi bao nhiêu, thì người tôi lại càng như bị dao lách. Và tâm trí như có lửa nướng.

Tôi lên... để xem những đồ đạc của tôi. Cái giường, cái hòm và bộ bàn ghế của tôi.

Sao lại phải xem? Hai, ba lần trước, lần nào cũng vậy, mỗi lần tôi cố lên chơi với Tô Hoài, tôi lại chỉ dám nhìn qua cái đống đồ đạc xếp dưới nhà ngang.

Đúng tôi đã là một thứ ăn vạ ở nhà Tô Hoài.

Nhà anh tuy có nhà trên và nhà ngang nhưng đâu có phải là thừa cái sự rộng rãi để làm kho chứa đồ cho tôi. Ấy là không kể đến tính bà mẹ anh rất mực gọn gàng, sạch sẽ. Tôi đã để ý từ cái sân gạch, đến bực thềm lên nhà trên, từ miếng vườn con xum xuê mấy cây hồng bì, nhãn, hồng, sói, vân vân. Rồi đến cái bể nước con, cái chum nhỏ và mấy hòn gạch kê thêm để rửa chân, cái rẻo đi đất thịt xuống nhà bếp xuống cầu tiêu,... tất cả lúc nào cũng như vừa mới quét dọn sắp đặt xong, hay như là bao năm nay không hề có chiếc lá rụng, có ngọn rác, vụn que nứa cành củi gạch ngói nào vương vãi cả! Thật là êm ả, ngoài vườn nghe rõ cả tiếng chim sâu lích chích. Trong nhà, tiếng mọt đều đều ở những câu đầu, những chiếc cột đen mốc.

Một hôm nhà tôi ra Hà Nội, lên chợ Bưởi cất nón, có ghé vào nhà Tô Hoài chào bà mẹ anh và thăm anh, lúc về nhà tôi đến bữa cơm đã bảo tôi:

- Mình này! Bà cụ Tô Hoài có hỏi tôi "Bao giờ thì bác giai xe đồ về quê đấy?".

Đồ đạc của tôi không những được xếp được kê làm một đống gọn, mà cả mặt đất và chân vách chỗ xếp kê lại còn rắc vôi bột nữa. Càng thấy nhà Tô Hoài giữ gìn cẩn thận cho tôi như thế, tôi càng không dám nhìn lâu, nhìn kỹ. Giá như ở một nhà khác, những thứ ấy bị vứt lỏng chỏng lên nhau trong một xó bếp hay dưới giọt tranh sau nhà, rồi chất thêm củi rác, chiếu cũ, bao tải, làm chỗ cho chó rúc, cho gà đẻ, thì tôi lại đỡ ngậm ngùi...

Tô Hoài ơi! Làm sao tôi có được chỉ là một gian nhà, như cái gian nhà ngang của ông thôi, để mà lại kê cái giường, cái hòm và bộ bàn ghế ấy? Cái gian nhà này, tôi không ở nhờ và cũng không phải thuê. Cái gian nhà này, tôi làm lấy hay mua được cũng bằng tiền sách, như ông đã chuộc lại cả năm gian nhà gỗ kỷ niệm nhà thờ của họ mình bằng... Dế mèn phiêu lưu ký vậy! Cái gian nhà này cũng trông ra mảnh vườn đất có mấy cây ăn quả, mấy luống hoa cỏ xum xuê và một khoảng trời cao. Rồi tôi lại ngồi cái ghế gỗ mặt mây, viết trên cái bàn gỗ tạp của tôi có thể đủ bày cả mấy tập bản thảo, sách báo tài liệu, và một tấm khung kính lắp hình thằng chó con ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò của chúng tôi.

Chao ôi! Tôi đã sắm được cả một cái giường, một cái hòm, đặc biệt, là cả một bộ bàn viết tuy ghế thì mặt mây đã trũng, đứt thủng, còn bàn thì véc ni đã bợt bạt, nhiều chỗ lấm tấm mọt!

Vậy mà hôm nay tôi sẽ lên thăm nó đây! Lên thăm nó để rồi đi dạm bán nó đây! A ha! Hay là Tô Hoài ơi! Tôi cứ liều hỏi Tô Hoài xem Tô Hoài có mua không, thì tôi sẽ để lại với bất cứ giá nào cho Tô Hoài dùng còn hơn vậy. Nhất là thỉnh thoảng tôi vẫn còn được lại ngắm, lại trông thấy nó! Hay không, tôi nhờ mẹ Tô Hoài có chỗ quen thuộc tốt nào thì làm mối để tôi cứ bán, sau đây tôi lại có tiền sách, sẽ chuộc lại gấp rưỡi, gấp đôi cũng được.

⚝ ❖ ⚝

Phải, tôi đã nói cảm ơn và xin lại bà mẹ anh Tô Hoài những đồ đạc ấy. Tôi đem nó đến với Nguyễn Huy Tưởng. Nguyễn Huy Tưởng đã hỏi thuê được nhà và thôi không ăn cơm hàng nữa. Tôi ở chung với Nguyễn Huy Tưởng, hai thằng thổi nấu lấy ăn. Đồ đạc các thứ sẵn sàng cả rồi. Chỉ còn thiếu cái bàn để Nguyễn Huy Tưởng ngồi viết. Nguyễn Huy Tưởng không như tôi, ngồi ở đâu, ngồi ở chỗ nào, ngồi cái gì cũng viết được. Tôi sẽ nhường cả bàn và ghế cho ông bạn đẻ đái khó khăn này.

Tháng 4-1945 ở Hà Nội.

Đang lúc người chết đói gần như không kịp chôn. Không chỉ xe bò chở xác mà còn chất cả các cam nhông đem đi để chôn thành hố chung.

Cái giường, cái hòm và cái bàn viết của tôi lại xếp gọn vào một xe ba gác. Giá gạo từ cuối năm 1943 hơn ba đồng một tạ nay hơn năm trăm đồng một tạ, mà người kéo chỉ dám xin có hai đồng chuyến xe. Vẫn bằng cái giá thuê năm xưa.

Người phu xe tóc như tóc cò, mình trần đeo chỉ có bên vai áo và một vạt trước, quần đùi rách xơ buộc túm bằng dây gai, chân tay gầy khẳng khiu như chỉ còn xương, cũng đen sạm như những xác chết la liệt đang nằm ở hai bên hè và những xác đang kìn kìn chở đi dọc đường.

Tôi đẩy sau xe. Chốc chốc tôi lại phải giữ xe lại bảo người kéo hãy nghỉ đã. Tôi thấy chính ngực tôi cũng rúm lại vì không phải chỉ nghe những tiếng khò khè mà còn là những tiếng như nấc của bác ta, và thấy càng xe cứ chúi xuống bồng lên, nhiều lúc bật cồng cộc vào mặt vào trán bác. Chưa bao giờ tôi thấy một đôi mắt vàng nhớt, sâu tối và cái nhìn ngờ ngạc mà chợt lại sáng dữ như thế.

Trên cái bàn của tôi ấy, Nguyễn Huy Tưởng đã viết được hơn 50 trang tiểu thuyết Những người dệt vải rồi bỏ dở.

Sau cái bàn ấy, trên chồng chăn và sách báo kê thật phẳng phiu, tôi đã viết chưa được 5 trang tiểu thuyết Tù trẻ con. Và cũng phải bỏ dở...

2. ĐÔI CHIM THÀNH

Tiếng chó cắn tua tủa rồi có tiếng người gọi to tận đầu cổng ngoài ao:

- Ông Hồng ơi! Ông có khách... Ông Hồng ơi! Có khách.

Trời đất còn mù mịt. Gió lạnh hun hút. Cả nhà tôi đang ngủ, tôi choàng dậy, luống cuống hớt hải gọi vợ tôi:

- Bu Hà ơi! Diêm đâu? Khổ quá, còn bao diêm của tôi cũng lấy nốt, rồi cũng lại vứt đi đâu ấy!

Bà mẹ vợ tôi ngủ trong buồng với vợ tôi và thằng con đầu lòng của tôi vẫn là người dậy trước trong những lúc như lúc này, lục đục tìm ở thúng thuốc, đầu giường, ở bị đồ khâu. Bà lắc lắc bao diêm để tôi đến lấy. Châm được lửa, tay cầm đèn, tay cầm đòn gánh, tôi chạy ra cổng, tâm trí bàng hoàng, trong người chờn chợn. Khách nào đây? Ai mà lại tìm đến tôi ở chỗ này, vào lúc này?

Tôi chưa kịp soi đèn để trông rõ mặt khách, thì cả khách và tôi cùng reo lên:

- Ông Hồng!...

- Ông Lân!... Ông Kim Lân, ối giời ơi! ông Kim Lân!

Tôi gọi, tôi reo, đôi lúc, tôi cười. Và tôi vẫn ngạc nhiên vì cái người tìm đến tôi, ăn mặc thế kia lại là ông bạn Kim Lân của tôi.

Anh Kim Lân đội nón sùm sụp, vai khoác một cái bị. Quần áo tây! Vét tông thùng thình, quần ngắn hũn. Đi guốc. Thấy chúng tôi tay bắt mặt mừng ngay từ phút đầu tiên, cả những người đầy tớ ông bà chủ nhà ngoài cổng, đến bà chủ nhà trong này có hai gian bếp cho vợ chồng tôi ở nhờ, đều vui vẻ đi theo chúng tôi vào hẳn trong nhà một lúc lâu sau mới ra. Họ lại bắt đầu người vo gạo, người nhóm bếp, người băm bèo rửa rau nấu cám. Cả bà mẹ vợ tôi và vợ tôi cũng ra nhà ngoài cùng thằng "Cún" ủm trong cả một cái chăn bông. Mẹ tôi cũng gấp lại chiếu để nhường thêm phản làm chỗ tiếp khách. Ngọn đèn hoa kỳ vẫn ngùn ngụt. Mẹ tôi lên vay ông chủ nhà ít chè hột. Bà mẹ tôi nấu nước mới, hãm chè bằng cái phích độc nhất của nhà, chuyên để chứa nước sôi hay nước cháo cho cháu.

Phiên chợ hôm ấy, mẹ tôi lại nghỉ. Phần vì trời rét, ra giêng có gánh nón đi bán cũng chẳng ai mua. Vừa phần để chạy thức ăn làm cơm thết khách. Mặc dù có cả sự nhắn lời khẩn khoản của gia đình cụ Bá là họ thông gia với anh Kim Lân - đây là lần đầu anh Kim Lân đến chơi với vợ chồng tôi mà chúng tôi lại ở nhờ nhà em trai cụ Bá, và anh cất công từ Bắc Ninh qua Hà Nội mới xuống đây - anh Kim Lân cũng nhất định chỉ ở lại một ngày với vợ chồng tôi, rồi mai ra Hà Nội sớm.

- Sao thế ông? Sao lại vội thế ông?!

Câu hỏi trên đây tôi còn nhắc lại mấy lần nữa, khi đưa anh Kim Lân đi chợ Nôm và mấy làng gần đấy, cũng như khi ăn cơm lại chuyện với nhau về viết, về những truyện ngắn, truyện dài, và những áng văn thơ tuyệt diệu của cổ kim, Đông, Tây mà "yêng em" tuy vừa bái phục nhưng cũng càng thấy mình tin mình, chắc ở mình.

- Sao lại vội thế ông?! Ông mà cứ nhất định về, không chịu ở lại chơi với vợ chồng tôi mấy hôm, cơm dưa muối với chúng tôi, anh em đôi hồi với nhau, thì tôi giận ông lắm đấy!

Và tôi cười ngất:

- Hay ông sợ chúng tôi thiếu gạo, phải nhường cơm cho ông ăn?!

Mãi về chiều, anh Kim Lân mới ngượng nghịu đặn đà cho tôi biết lý do. Anh đã thu nhặt xong những truyện ngắn của anh, sửa chữa kỹ thêm, chọn lọc thành được một tập rồi. Trong tập này có cả mấy truyện tôi thích nhất và đã nhiều lần nhắc anh nên gom lại mà in thành sách. Tôi sẽ cùng ra Hà Nội với anh. Tôi sẽ giới thiệu tập Đôi chim thành với bất kỳ nhà xuất bản nào đấy mà tôi thấy tốt. Rồi đưa họ in, quyền lợi thế nào, đều hoàn toàn do tôi quyết định với cái thế và cũng với cả sự thông thạo của tôi về công việc xuất bản hiện thời. Thấy tôi hoan hỉ, anh Kim Lân vẫn dẽ dàng, lấp lửng kiểu "Kim Lân":

- Ông giới thiệu và ông vay trước cho tôi một món tiền...

Úi úi! Cha mẹ ơi! Thì ra sự thể là thế này đây! Ông bạn kém tuổi mới viết văn, nhưng rất thân rất quý của tôi này, cũng lại bắt đầu cần tiền rồi, cần tiền quá rồi!

Tôi càng cười ngất:

- Ông ăn hết cả tay nải của bà ấy rồi?!

Kim Lân càng ngượng nghịu:

- Hết từ trong Tết kia. Ra giêng này nhà tôi lại định chạy vốn đi chợ nhưng không còn thể vay mượn cửa nào được nữa...

Và anh ngậm ngùi:

- Trên tôi phiên chợ trước lại càng nhiều ăn mày, đã có mấy người chết ở ngay cổng làng, cổng chợ...

Tim tôi như bị bóp chặt. Trong tâm trí tôi, cái màn tối đen và lạnh ngắt ấy càng vu vu thăm thẳm. Tôi như nghẹn hẳn tiếng:

- Cả trên anh cũng có người chết đói rồi! Chết ở ngay cổng làng nhà anh, ở ngay cổng chợ nhà anh?

Chúng tôi im lặng. Chợ Dầu, chợ làng nhà anh Kim Lân. Chợ của làng Phù Lưu, của huyện Từ Sơn nay là Tiên Sơn, quê hương những bà chúa Chè, bà chúa Nành, những dân ca, quan họ, của những đình chùa cầu quán, của những đường sá đông vui nhất vùng Bắc. Cổng làng Phù Lưu mở ra ngay cảnh một khu "mộ sống" của một tên quan to họ Hoàng, đây có đủ các kiểu đài, tạ "nghênh phong các", "thưởng liên trì", cây cối hoa cỏ um tùm kỳ lạ với những bia đá, những cửa sắt chừng như ngàn năm không thể di chuyển. Còn cổng chợ thì mở ra trước một cửa đình thênh thang, cũng bia đá, cũng cửa sắt uy nghi, xum xuê sừng sững những gốc bàng, gốc đề hàng chục vòng tay còn rộng. Giữa làng chạy dài một con đường lát toàn đá tảng, hai bên san sát những nhà gác có nhà còn to hơn cả những hiệu buôn ở Hà Nội, nhưng cũng có những nhà rất cổ, cửa đóng im ỉm quanh năm, thì cũng lại là những cửa hàng tấm giàu nhất... Chao ôi! Cái khu chợ Dầu và cái làng Phù Lưu này mà người ta có thể vẽ có thể chụp bất kỳ cảnh nào để làm kiểu mẫu cho sự sầm uất, trù phú, khang trang của vùng Bắc thôn quê kia, cũng lại nhiều ăn mày và có người chết đói rồi!

... Những chiếc chiếu bó ấy lại lừng lững từ một cái màu đen tối vu vu thăm thẳm đi ra trước mắt tôi. Những chiếc chiếu cũ có, mới có... những áo tơi vá đụp vá chằng chịt bằng bao tải, bằng mo nang, bằng giấy bao xi măng, bằng lá chuối, bằng nguyên một ống quần hay một bức sống, bằng cả dây, dợ lưới, vó bè, võng, v.v... tất cả buộc túm lại như kiểu mũ mấn đội trùm lên đầu, che xuống gần đầu gối. Họ đi đều đều thất thểu, ủ rũ khặc khừ. Họ rên, chập chững, lê lết... Từng chiếc chiếu và áo tơi hay từng đám chiếu và áo tơi không để trông thấy mặt mà chỉ có hai ống chân, những ống chân gầy teo, già có, trẻ có, đàn ông có, đàn bà có, trẻ lên năm lên bảy có. Cứ những lúc nắng nghĩa là có mặt trời lên cao, là họ kéo nhau đi, trên các ngả đường, đặc biệt là các đường nhựa chạy qua các huyện các tỉnh đổ về Hà Nội.

Nhưng dù có nắng, có mặt trời, nhưng sao cảnh giữa ban ngày năm ấy, cái nắng như loáng trên tuyết, trên băng, còn mặt trời thì vàng vọt như sắp chìm vào phút giây cuối cùng của một buổi chiều cũng tuyết băng xa thẳm. Phải, cái đói đã đến. Cái đói thật là dữ dội và càng ngày càng dữ dội. Chỗ tôi ở giờ mới hết tháng giêng sang tháng hai mà thóc đã lên hơn trăm đồng một gánh. Giữa ngày mùa thóc đang 10 đồng lên 12 đồng. Rồi phiên sau 14 đồng, rồi phiên sau 20 đồng, 25 đồng, 30 đồng, 35 đồng. Và cứ thế, cứ từng cuộn, từng bó bạc giấy giở ra mà quờ lấy thóc, vồ lấy thóc, ôm lấy thóc. Đã có cả giấy 500 đồng... Chính các quan phủ, quan huyện, các đại lý trên tỉnh đã đem toàn giấy 500 đồng và mỏ cân về các chợ nhà quê mua thóc, đong thóc, cân thóc...

Vốn liếng của gia đình tôi cũng có một gánh hàng: gánh nón và áo tơi. Nón lá già bán mỗi cái kiếm được một hào hay tám xu. Nón gủ, thứ nón to như cái nia có khua, được sáu bảy xu. Nón lá trắng được hơn một hào. Mỗi cái áo tơi cũng thế. Bán chạy nhất và người mua đông nhất là bà con nhà quê, là nón lá già, nón gủ. Nhưng năm ấy lại rét sớm. Gạo không có ăn thì đói, chứ không có nón vẫn đội trời đi làm được. Nên nhiều phiên chợ, gánh hàng mẹ tôi chỉ bán được một hai nón lá trắng cho các bà, các cô ở Hà Nội ở các tỉnh chạy loạn về, và cũng một hai cái nón lá già nón gủ cho các bà con nhà quê thôi. Ra giêng, hai phiên mẹ tôi cố đi bán mở hàng đầu năm, thì chỉ bán được một phiên một cái nón, mà bán hòa vốn để khỏi về không.

Thường những hôm tôi viết xong hay đang viết gặp đoạn bí, phải chỗ tắc, tôi lại bỏ đi chơi chợ. Thì cả những phiên chính chợ Nôm và chợ huyện nơi tôi ở không những càng xào xạc mà còn càng thêm nhiều ăn mày. Chưa tan chợ, ở gốc cây này, ở bụi găng kia, sau miếu Âm hồn, ở chân mả ông Đống... khói rơm rác lá lẩu cứ ùn lên. Mẹ con ăn mày, vợ chồng con cái ăn mày, ông bà cháu nhớn cháu bé ăn mày, bồ côi bồ cút ăn mày, điên dại, mù què ăn mày... Các lều, các mái, các bếp ăn mày rải khắp từ ga vào tới chợ. Đông nhất là ở chợ. Họ nấu nước ăn uống với bất cứ thứ gì xin được, nhặt nhạnh được, tìm bới được, làm nhiều người địa phương không những chỉ hỏi họ là ở đâu, kéo nhau về nữa đây làm gì mà còn phải kêu lên: "Giời đất sẽ khó khăn kém cót còn làm đói đến thế nào nữa, cả những thứ như thế kia cũng là những thứ người ta nấu nướng, ăn uống với nhau được vậy?!!".

Đúng một tuần trước ngày anh Kim Lân về, sau phiên chợ gánh hàng về không, mẹ tôi phải mua một cân muối những hơn đồng bạc và đong xỉ một đấu gạo nếp mất ngót bốn đồng, nhưng lại rẻ hơn gạo tẻ, để trả bà chủ nhà chỗ gạo vay nấu cháo cho thằng con tôi ăn thêm, thì nhà tôi phải dốc bồ, vét thúng, ao lại xem ngay tất cả số thóc ăn dự trữ trong nhà. Vừa còn đúng một thúng thóc tẻ và một hũ thóc nếp. Cả mẹ tôi, bà mẹ vợ tôi và chúng tôi đều choáng cả người. Vợ tôi phải tính ngay số tiền giắt lưng và gánh hàng còn lại. Thì tất cả số tiền vốn bán hàng ngày Tết dồn lại không được 60 đồng, và hàng thì còn đúng 30 cái nón, phần lớn là nón lá già đã xộc xệch vì người chọn nhiều quá, nón đã tuột cả vành lại đứt cả chỉ. Mẹ tôi phải bỏ ra cả buổi khâu lại. Các áo tơi cũng rách, có cái đã xơ cổ.

Thế là bữa ăn của nhà hôm ấy lại bớt thêm một bơ gạo, và chiều hôm ấy mẹ tôi lại nắm cơm ra ga để lên Hà Nội cất hàng ngay. Đi hôm trước, hôm sau mẹ tôi về liền. Cũng còn tối đất, sương muối mờ mịt lạnh buốt, vẫn tiếng chó cắn tua tủa, tiếng người lao xao ngoài ngõ, nhưng hôm ấy tôi thấy có một cái gì khang khác. Tôi vặn to đèn, vừa bước ra khỏi cửa, thì một hình thù rất lạ nhấp nhô đi sau mẹ tôi với gánh hàng nhẹ thênh. Tôi càng phải cố nén ngạc nhiên, hồi hộp khi trông thấy rõ hình thù nọ.

Đó là một người trần truồng và đen một cách lạ. Y khoác cái bao tải của mẹ tôi thường trùm lên gánh nón để chằng buộc cho khỏi hỏng. Quần ngắn đến bẹn, rách mướp. Tóc không ra vấn, không ra buộc, không ra cắt ngắn. Một thứ tóc rối lùm xùm của người điên người dở. Hai con mắt rất sáng. Khi y khuất sau bóng tối của cái cột góc nhà, vẫn thấy mắt nhìn lóng lánh, trắng bật lên.

Một người con gái còn khỏe mạnh hẳn hoi, tuy gày xương, ngực lép teo.

Mẹ tôi chưa kịp uống nước liền toang toang, giọng rất cảm động, kể chuyện bắt gặp người con gái nọ nằm trốn ở gầm ghế, xó buồng đái, đang bị lôi ra đánh đuổi xuống tàu, thì mẹ tôi xin tội cho, mua vé chuộc và đem về nhà đây. Tôi hoảng cả người, kêu ngay lên:

- Giời ơi! Mẹ đưa về nhà làm gì hở.

Mẹ tôi vẫn cười, giọng cứ như không:

- Đưa về nhà không nuôi thì để bên bà A. nuôi.

Ông bà A. chủ nhà tôi ở nhờ, không có con. Ông bà nuôi một anh con trai và một bé gái. Anh C. năm ấy đã gần ba mươi tuổi, gánh năm mươi hom lúa chạy cứ như không. Đi cày từ tờ mờ sáng đến quá trưa, chiều lại còn gánh hết năm sào rạ ruộng nhà. Người hâm hấp. Bực giận điều gì chỉ vừa lẩu bẩu vừa khóc một mình. Bà A. đã cưới vợ cho anh. Chưa đầy năm, vợ xin về ở nhà mình mấy bữa. Sau mấy chuyến bà A. đến tận nơi gọi, rồi nhắn hết người này đến người khác hỏi han gặng nhẽ, nhưng chị con dâu vẫn không chịu về. Chị ta lấy người khác được hai con. Rồi lại lấy người khác, được một con. Nay ở góa. Tuy vậy mỗi lần nhắc đến chuyện người vợ nọ, anh C. vẫn cứ mủm mỉm:

- Giờ mà nó lại xin về với đây, thì đây cũng thèm vào!

... Sau mấy ngày quen quen, người con gái nhặt được nọ xuống bếp thổi cơm, xay thóc giã gạo. Tôi hỏi chuyện, được biết chị ở Thái Bình, bồ côi bố sớm, mẹ vừa chết đói. Còn vợ chồng người anh ruột, thì anh chị lại bỏ làng từ hôm mồng bốn Tết đem con cái lên Hà Nội. Nghe nói vừa lên tới nơi thì gặp ngay đảo chính Nhật - Pháp.

⚝ ❖ ⚝

Buổi trưa hôm ấy ăn cơm xong, tôi chỉ để anh Kim Lân nằm thiu thiu một lúc rồi đánh thức anh dậy uống nước. Tôi lại kéo anh đi chơi. Chúng tôi lên nhà N.G. ở làng trên. Nhưng đi chơi đêm, anh Kim Lân lại càng nằng nặc đòi mai ra Hà Nội sớm. Chao ôi! Chúng tôi đã đi chơi cho nhẹ cái đầu, cho thoáng cái tâm trí, cho vui cơ mà!

Đúng, trên nhà N.G. vui thật. Có đúng hai bàn chắn tổ tôm và một bàn xóc đĩa. Bàn xóc đĩa, là của cả khách ngoài tỉnh và các người lom lem trong làng. Bàn chắn và tổ tôm thì riêng của các cụ chức sắc, từ chánh hội trở lên tiên, thứ chỉ và các ông các bà các cụ chạy loạn về. Toàn những chủ hàng đồng, hàng sắt, và là hàng đồng, hàng sắt buôn bán với Nhật. Kẻ ở Hải Phòng, vừa có cổ phần thầu được cả một cái tàu bị bom Mỹ đánh đắm. Người ở Nam Định nhưng tất cả phủ huyện, Thái Bình, Ninh Bình đều phải mua tôn, mua sắt, mua đinh, dây thép của nhà họ, vì chỉ mỗi nhà họ là còn những vật liệu kia. Người ở Hà Nội lại đứng ra mua cho một hãng độc quyền của Nhật các thứ đồng vơ vét của các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn... Tất cả đều là họ nội, họ ngoại dây mơ rễ má của nhà N.G.

Nhà N.G vừa mới làm xong to như một cái đình và cái đình toàn cửa kính, cửa chớp, cửa sắt. Dập dìu trai gái, con cháu, cháu con. Chỉ nguyên cháu con trai gái của họ nhà N.G. và những công tử, tiểu thư cũng của các tay buôn đồng bán sợi ở làng Đồng Xá bên cạnh, đưa nhau đi chợ ăn quà thôi, cũng đủ làm cho cái chợ Nôm mẹ tôi bán nón ấy đông vui hay tẻ vắng. Và có thể thấy đây đúng là đại diện tất cả tai to mặt lớn những phố Hàng Đồng, Hàng Sắt của Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương kéo về hai làng nọ, cùng với các giống quan từ tham phán, đốc tờ, đốc học đến quan hường, quan án, quan tuần... ở hai cái làng đồn rằng được đất được hướng đình nọ.

Chúng tôi thấy không thể nào bắt chuyện thêm được với N.G. sau khi được N.G. đưa đi xem cái giang sơn cảnh thổ của y về ẩn dật, cũng như chúng tôi không thể nào ngồi yên, đứng yên lấy một hai phút giữa những đám người nọ. Cũng như chúng tôi không thể nào cười lấy một tiếng, dù chỉ là cái cười gọi là cười xã giao. Nhưng rồi anh Kim Lân cuối cùng cũng phải cười. Lại cái cười ngượng nghịu và cái giọng đà đặn anh Kim Lân bắt tay từ biệt N.G. - một nhà văn quyết tâm đi về với "đất", với "người", với "thuần hậu nguyên thủy", lúc nào nét mặt cũng thê thảm và đăm chiêu suy nghĩ, vì bất đắc chí, vì mải mê theo đuổi những dự định, những công trình, những tác phẩm thật lớn, thật sâu, thật "bác ái", "nhân đạo", "xã hội". Và thật vì nghệ thuật trên hết!...

Trong khi đi đường rồi sau bữa cơm chiều, uống nước nói chuyện với nhau, tôi ngoài miệng vẫn vui đùa cười ngất với anh Kim Lân, nhưng trong bụng, trong tâm, trong trí càng như lửa đốt. Anh Kim Lân đã lấy ở bị ra cuộn bản thảo. Một tập khá dày. Chữ anh Kim Lân vốn đẹp, giờ chép lần chót đưa xuất bản lại càng như một thứ chữ in. "Đôi chim thành", đúng như là chữ khắc ở ngoài bìa với tên tác giả.

"- Ông Lân ơi! Đây là giờ phút tôi nhận đứa con đầu lòng của ông đây. Tôi sẽ đi điều đình sao để ông có tiền, những cũng chính là để ông có sách. Ông mới chơi với tôi, thân với tôi ngay, điều đó thật thú. Nhưng ông còn là đồng chí của tôi nữa, của chúng tôi nữa. Sách của ông mà ra được thì bên cạnh những Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng..., - Văn hóa cứu quốc lại có thêm một sự đóng góp, một sự hoạt động. Một đóng góp hoạt động nhỏ nhặt thôi, nhưng th?