← Quay lại trang sách

Một Tuổi Thơ Văn CHƯƠNG I NHỮNG TIỂU THUYẾT, NHỮNG NHÂN VẬT VÀ NHỮNG NGƯỜI BẠN GHI NHỚ TRONG TUỔI THƠ

Những trưa hè oi nồng nhất, những đêm đông giá lạnh nhất và những lúc trong nhà im vắng nhất, tôi thường phải đọc truyện cho bà nội tôi và cha tôi nghe.

Truyện nhà mua hay mượn được của người quen có ít thôi. Phần chính là truyện đi thuê. Hiệu cho thuê này ở phố Khách, một trong những phố đông vui, giàu có và nhiều cái lạ nhất của thành phố Nam Định, quê hương tôi.

Tôi bắt đầu tập hồi ký này giữa buổi sáng cuối tháng giêng, trời lạnh ngắt, gió ù ù, hơn chín giờ rồi mà đồng ruộng, núi đồi chung quanh nơi tôi ở vẫn mù sương. Từ khoảng không gian ấy lại nổi lên cái phố Khách xa xưa kia. Những cửa hàng treo biển rồng, phượng, cá hóa long, rùa vàng, cô tiên, ông phật, trăng sao. Chen vào đám vật linh và thần tiên này, còn có những ngựa hồng, gà trống, sư tử, báo đen, quả đào, cành lê, trăng sao, đèn lồng, hoa tai, vòng khánh, giày tây, mũ cát, tông đơ, bình tích, điếu bát, v.v... Tên hiệu viết các kiểu chữ Nho, chữ Tây, với các thứ bằng cấp, mề đay sơn vẽ toàn màu chói, màu rực.

Mỗi khi ra khỏi nhà, đến đầu phố đây, tôi không đi bằng chân nữa. Tôi bay. Tôi bay không bằng cánh. Tôi cỡi những rồng phượng và cả sư tử, gà trống, bình tích, điếu bát, giày tây, tông đơ mà bay, có những đám mây ngũ sắc vờn quấn, nâng phủ chung quanh. Biết bao thế giới và cảnh sống kỳ ảo mở những lớp cửa lâu đài, sông biển, hang động thần tiên đón tôi vào và đưa tôi đi xa nữa.

Phải! Tôi đã đi qua những cửa hàng chè tầu, thuốc bắc, vải lụa, đồ thủy tinh, đồ thờ, giày mũ, đồng hồ, thợ may, tạp hóa và bánh kẹo cao lâu ấy, không phải chỉ để ngắm để nhìn mà còn để khát khao, mơ ước và tưởng tượng từ nhà đến hiệu thuê truyện rồi trở về. Làm tôi náo nức thèm thuồng nhất là mấy cửa hàng pháo tép bán những ngày gần Tết tới sang giêng.

Cửa hàng bày ngoài bờ đê, vẻn vẹn có một bục gỗ ba bậc to và rộng không quá ba bậc thang gác nhỏ. Bên trên đóng một cái khung chỉ nhỉnh hơn khuôn thước kẻ học trò. Hàng nào sang thì trải giấy hồng điều, giấy trang kim, hay vải hoa trên mặt bục. Mỗi bục bày một cách, có những hộp giấy nhỏ đựng pháo siết, pháo đập, pháo ném, pháo chạy chuột, pháo quay, pháo dây, pháo nem, pháo hộp, pháo bánh, pháo rời. Cố nhiên là không thể có pháo lệnh, pháo cối, pháo ống đùng.... Cố nhiên từ pháo bánh đến pháo rời đều bé xíu như từ Li-li-pút (1)làm ra. Xinh nhất vẫn là những tràng pháo tép treo từng chùm với hoa giấy trên khung gỗ.

-----

(1) Trong truyện Guy-li-ve du ký của Suíp.

À! Không thể nào lại thiếu được những lọ thủy tinh và những liễn sứ đựng các thứ ô mai bên cạnh những hộp pháo. Cố nhiên cũng bé cũng xinh như thế. Chao ôi! Đã nào những ô mai cam thảo, ô mai chua, ô mai dầm, lại còn khế dầm, sấu dầm, trám dầm. Đã nào trám, nào sấu, nào khế phơi khô dầm, lại còn khế tươi thái mỏng như hoa lan và cũng vàng héo như hoa lan, trộn bồng bồng trong những bát sứ. Mùi đường, mùi gừng làm vị chua cay mặn ngọt cứ nhức nhói cả góc miệng và đỉnh não. Lại còn những cô bán hàng, trông cứ như những quả táo, quả đào Vân Nam, hay những thỏ bông, chuột bông đánh vòng ở những Hàng Đường, Hàng Giấy, Hàng Thiếc ngày tết Trung thu...

... Cũng gác cao, lòng nhà cũng sâu, cũng rộng và cũng đủ tủ kính, quầy, bàn, nhưng hiệu cho thuê truyện nọ vẫn cứ tồi tàn, trống trếch và lạc lõng thế nào ấy giữa cái phố Khách buôn to bán lớn.

Hình như không bao giờ tôi gặp một người đàn ông trong nhà. Ở cửa hàng, nếu chẳng có mấy người không hiểu là cô, là dì, là chị gì đó thì có một cụ bà và một người gầy yếu xanh xao lúc nào cũng mặc áo dài the thâm, mặt mày đăm chiêu, và mấy cô bé cũng gầy yếu xanh xao và đăm chiêu như người lớn! Tất cả những đồ đạc, từ tủ hàng đến bàn ghế bên trong nhà, đều sơn quang dầu, cũ kỹ. Còn sách cho thuê, không quyển nào trang ruột không vá, không can chằng chịt bằng giấy bóng, vàng xỉn, dày như mo nang. Bìa lại cồm cộm còn hơn cả mo nang, khâu chỉ gai rất kỹ, tuy thế vẫn bị gẫy gập, nhăn nhúm, bóng lên và hôi sì. Sống trong những bìa và trang chữ này là tất cả Ngọc hoàng Thượng đế, Phật tổ Như Lai, Thái thượng Lão Quân, Nguyên thủy Thiên tôn, Thông thiên giáo chủ, Lão tử, Kiệt vương, Trụ vương, Đát Kỷ, Dương Tiễn, Na Tra, Đường Tam Tạng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới. Là những U Vương, Tề Hoàn Công, Quản Trọng, Ngũ Tử Tư, Tây Thi, Câu Tiễn, Yêu Ly, Khánh Ly... Là những Tần Thủy Hoàng, Hạng Võ, Trương Lương, Phàn Khoái, Lưu Bang, Đổng Trác, Tào Tháo, Lã Bố, Điêu Thuyền, Quan Công, Trương Phi, Triệu Tử Long, Gia Cát Lượng. Là những Đơn Hùng Tín, Trình Giảo Kim, Uất Trì Cung, Phàn Lê Hoa, Tiết Đinh Sơn. Là những Tống Giang, Lâm Xung, Võ Tòng, Lỗ Trí Thâm, Bao Công, Quách Hòe, Bàng Quý Phi, Ô Hắc Lợi... Lại còn thêm những Xích Thố, Hồ Lôi Báo, Thanh Long yểm nguyệt đao, Bát sà mâu, roi sắt khắc đề: "Thượng đả hôn quân, hạ đả gian thần" (2)... Là những Thiên môn, Địa ngục, Thủy tinh cung, A phòng, Cô Tô, Ngũ Hành Sơn, Lương Sơn Bạc... Và những hồ ly, linh đan, tiên dược, bồ đào mỹ tửu, tháp ngọc, đài sen...

Thuê sách phải cược mỗi quyển một đồng, mỗi ngày trả một xu hay ba xu, tùy theo truyện và thời giá. Ngày ấy, gạo quê và là gạo tám xoan giá một đồng một gánh đẫy đấu; còn gạo Sài Gòn thì một đồng tám, có lúc một đồng sáu một tạ. Nhiều hôm tôi phải đọc, hay nói cho đúng, tôi đã ngốn không những một quyển mà là hai quyển, nhất là đọc cho bà tôi nghe khi thấy bà đã lim dim mắt và thiu thiu ngủ. Về sau tôi phải rủ mấy bạn nghiện nặng truyện góp tiền như kiểu vào hội, để thuê truyện. Đọc chung thì bổ đều tiền; đọc trước phải trả thêm một trinh (3); đọc sau nhưng được giữ sách hai lần cũng phải trả thêm một trinh.

-----

(2) Trên đánh vua xấu, dưới đánh quan gian.

(3) Một trinh bằng nửa xu.

Năm tôi lên bảy lên tám, tôi không được đi về trên con đường kỳ ảo kia nữa. Nghe nói hiệu T.P. bán nhà, vỡ nợ. Hiệu T.S. mua lại chỗ sách nọ. Chủ nhân là một ông giáo đông con, vợ ở nhà bán giấy bút và chuyên làm ô mai, chuối khô. Hiệu T.S. nổi tiếng với đám học trò chúng tôi, không phải vì cho thuê truyện, mà vì ô mai và chuối sấy. Chuối sấy đựng vào thùng kính mắc quai da, có hai thằng bé đeo đi, vừa khiêng trống, vác biển, đánh trống, rao hàng và bán. Không biết trong bọn trẻ đi hàng đó, có đứa nào cũng mồ côi và được ăn học biết đọc biết viết rồi mê truyện như tôi không. Tôi đã nhiều lần có ý định nói với hiệu T.S. cho tôi cũng khiêng trống, vác biển đeo thùng đi bán chuối. Tôi không lấy tiền hỏa hồng, tiền công, mà chỉ xin được nuôi ăn một bữa cơm thôi mà đọc truyện cả ngày...

Rồi ông giáo T.S. gầy còm đông con và bà chủ cho thuê truyện, bán ô mai, chuối khô kia cũng dọn đi tỉnh khác. Ông lên Hà Nội lập một hội đá bóng lấy tên là Lạc Long. Đội Lạc Long ra quân hình như cứ thua liểng xiểng. Nhưng một năm vượt hẳn lên, gần như vô địch Hà Nội, đã về đấu chung kết với đội Hồng Bàng của tỉnh Nam Định tôi. Tiếc thay, tôi lại không được đi xem! Mấy tủ sách đó bán lại cho một hàng thêu. Tôi đã lớn, vừa phần không còn thể nào có được một đồng bạc ký cược và hàng ngày dù chỉ trả một xu thuê, nên tôi không còn nhòm ngó tơ tưởng đến những quyển truyện mà mỗi khi chợt nhớ lại, hay nghe ai nhắc tới, thì trong tâm trí cứ bâng khuâng, cồn cào vô cùng.

Chao ôi! Một xu! Một xu mà mua được những một cái bánh tây đã ủ trong thúng có hộp than nóng bỏng và đậy mấy lần bao tải, nhai cứ giòn tan, lại còn được giội thêm thìa nước mắm pha giấm múc từ cái liễn ngâm ngập những miếng giò, miếng chả trâu thái mỏng. Hay một cái bánh bằng bột gạo trộn với khoai lang nạo, có hai nửa tôm khô ấp lên rán, vớt ở chảo còn reo xèo xèo cắt ra làm sáu miếng, tha hồ ăn với rau muống chẻ và rau thơm: Bánh tôm! Phải! Bánh tôm. Mời nhau ăn phải là những bạn kết nghĩa đồng sinh đồng tử, hoạn nạn gian nguy không bỏ nhau. Khi mời, chủ bánh phải bấu hai ngón tay giữ chặt lấy bánh làm cữ, đút vào miệng cho người anh em, và chờn chợn chỉ sợ cái hàm răng thiếu kỷ cương tiết chế nọ cắn vội, cắn cố, cắn quá, hập nghiến đi mất cái để... cầm bút!

Về chuyện người chủ hiệu sách cuối cùng nọ, tôi nghe phong thanh rằng trong nhà có người làm cộng sản, hiệu không được mở nữa, bị mật thám bắt rồi tòa án xử tù nặng lắm. Anh là con lớn ông cụ chủ nhà, người gầy yếu, đôi mắt rất sáng, cách ăn nói và vẻ người như kiểu một thầy giáo trẻ có đầu óc và tư cách thời bấy giờ. Cũng từ đó, tôi không còn biết những pho truyện, những quyển sách mà tôi gần như thuộc lòng kia bán lại cho ai, và cũng không được trông thấy, được cầm đến những trang chữ vàng xỉn, chi chít, can vá giấy bóng, bìa dày cộp, hôi sì. Những quyển truyện quyển sách sao mà mê say, mà quyến rũ, có những thế giới những xã hội, những sự việc, những tên người kỳ ảo vô cùng, làm tôi cũng như bao nhiêu kẻ phải ghi nhớ đến tận lúc mê sảng, sắp nhập quan!...

Không phải chỉ trong khi đọc truyện, mà bao năm sau, tôi vẫn còn nhập vào các nhân vật của nó.

Tôi đã xem Tôn Ngộ Không nứt ra từ hòn đá và lớn lên ở Hoa Quả Sơn, kéo cờ hiệu Mỹ hầu vương (4)đưa quân lên đánh cả trời. Bị bắt giam trong lò bát quái hàng mấy trăm năm, khi thả ra, xương thịt được nung luyện thành đồng sắt, vác cây thiết bổng nặng ngàn cân có thể hóa nhỏ như cái tăm cài trong tóc, Tôn Ngộ Không đã đánh hàng trăm trận diệt các thứ yêu ma, qua hàng vạn vạn dặm đường sông sâu, núi hiểm, biển lạ gian nguy, phò thầy Đường Tăng đi lấy kinh Phật thành công. Tôi đã theo Na Tra, con trai thứ ba của Lý Tĩnh, ra biển tắm, cởi khố ra giặt, cởi vòng tay ra kỳ cọ, vùng vẫy bơi lặn làm rung rinh cả dưới Thủy Tinh cung. Long vương kinh hoàng, phải cho các thủy thần, thủy quái lên xem cơ sự và bắt kẻ làm náo động xuống để trị tội. Tôi xem Na Tra đánh lại các thần quái đó tan tác mảnh giáp không còn, rồi về nhà thì bị cha sợ quá lôi ra đánh mắng. Na Tra đã tự róc thịt xương mình trả lại cho cha, rồi được Phật tổ Như Lai lấy cọng hoa sen làm xương, cánh hoa làm thịt, hà hương sen vào thành linh hồn, cho tái sinh lên cõi trần, chân đạp đôi bánh xe làm bằng lửa và gió, gọi là Phong hỏa luân, tung hoành với vũ khí là đôi vòng tay gọi là Càn khôn quyện. Nhưng Na Tra vẫn mình trần và tóc rủ hai trái đào mà đi chiến trận...

-----

(4) Vua khỉ đẹp.

Tôi làm bạn với Dương Tiễn có một con mắt ở giữa trán, hễ trông thấy yêu quái thì xanh biếc lên, và dắt một con chó hễ đánh thấy hơi yêu quái, dù nó giả làm người, thì sủa ngay và xông tới liền, cùng chủ đánh đuổi...

Tôi đã theo Tỷ Can vào cái triều đình bạo ngược của Trụ Vương, đến những rừng có các cây cối buộc các thứ thịt muông thú kỳ lạ, gọi là Nhục lâm, và những bể chứa các rượu ngon xây thành hồ, thành ao, gọi là Tửu trì. Nơi đây Trụ vương yến tiệc với Đát Kỷ, đã giết vợ cả, giết con trai bé và mổ cả bụng ông chú đức độ trung thực của mình là Tỷ Can để xem quả tim có bảy mạch đập (thất khiếu)!

Nhà Thương với Trụ Vương bị mất. Nhưng rồi cơ nghiệp nhà Chu cũng đổ vì con cháu hoang dâm, xa hoa, bất nghĩa, đã đốt lửa Linh Sơn báo động cho các chư hầu kéo quân cứu viện đến để làm trò đùa cho gái đẹp cười. Trong đám cùng dân phải đổi con cho nhau để ăn thịt mà vẫn diễn ra những cảnh giàu sang, sung sướng, vô cùng trái ngược của thời đại này, tôi đã xem hai bạn Bão Thúc Nha và Quản Trọng sống với nhau. Bão Thúc Nha đi buôn chia lãi với Quản Trọng bao giờ cũng cố ý lấy phần mình kém để Quản Trọng đông con và còn mẹ già lấy phần hơn. Đến khi làm nên, Bão Thúc Nha cũng lại tiến cử và nhường chức tể tướng cho Quản Trọng, một người mà Bão Thúc Nha biết rõ tài năng, xứng đáng gánh vác việc lớn thiên hạ hơn mình.

Và tôi đã bâng khuâng trước những cỏ hoa chung thủy, những muông thú biết đáp đền ân nghĩa, những ma quái, gian tà bị trừng phạt, những hồn linh oan khổ, trung hậu sống lại về cõi trần tươi đẹp vẻ vang...

Sau thời Chiến quốc, tôi càng được sống gần gụi với người hơn: những Hạng Vũ, Trương Lương, những Gia Cát Lượng, Triệu Tử Long, Hoàng Trung, Trương Phi, Điển Vy, Hạ Hầu Đôn, những Ngu Cơ, Siếu Mẫu, Từ Mẫu...

Hạng Vũ được tả và diễn trên sâu khấu: râu hùm, hàm én, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao như Từ Hải của Nguyễn Du. Nhưng Hạng Vũ không chịu hàng. Hạng Vũ cỡi con ngựa Truy, cắp ngọn giáo đánh đến cùng, rồi tự tay mình cắt đầu mình chết trên bờ Ô Giang, cho người mang đến mà lĩnh thưởng của Lưu Bang, sau hàng trăm trận tung hoành với một sức: "Lực bạt sơn hề khí cái thế (5)" và với một tinh thần ngang tàng, võ đoán và kiêu hãnh vô cùng, mảy may không chịu làm điều gì mà thiên hạ và mình cho là khuất tất hèn hạ. Chết bên cạnh Hạng Vũ, có Ngu Cơ. Người đẹp và tiết tháo ấy sau khi chết đã hóa thành cỏ phơ phất ngàn đời trong gió lạnh, sông xa, bãi vắng, để nhớ tiếc một sự nghiệp và một mối tình...

-----

(5) Sức bạt núi hề, khí chuyển trời đất.

Cùng lúc tiếng gió thổi trong ngàn Ngu và sương cát Ô Giang kia, tôi nghe thấy cả giọng sáo của Trương Lương làm nát lòng quân Sở bằng khúc Sở.

Tôi đã náo nức, cảm kích khi theo Gia Cát Lượng từ lều cỏ ra đi với Lưu Bị, bày đánh bao nhiêu trận tuyệt thú và kỳ diệu, từ Kinh Châu vào đất Thục, rồi nhắm mắt ở đây với tờ biểu trước Chúa thượng, trước sứ mệnh và trước công luận về lòng trung nghĩa của mình, và đời vợ con gia đình mình chỉ sống với mấy mẫu vườn trồng dâu, mấy khung cửi và mấy trăm đấu thóc tự cày cấy được.

Tiếng thét của Trương Phi và bộ râu xoăn rậm, cặp mắt tròn xoe của Trương Phi, cũng không bao giờ tôi quên được. Cũng như không bao giờ tôi nhạt nhẹ lòng mến yêu, và yêu nhất là trước Cổ thành, Trương Phi thét lên, vò râu, tròn mắt, phi ngựa, xốc chĩa Bát xà mâu để đón... Quan Vân Trường, ông anh kết nghĩa của mình vừa hàng Tào về! Bất chấp cả thanh đao của Quan Công vừa qua năm cửa ải "lấy" ngọt đầu sáu tướng đối địch chỉ trong chớp mắt, và có trận chém xong một tướng khá nổi danh trở về, chén rượu hâm nóng rót ra chờ đợi uống hãy còn ngút khói. Tôi yêu và càng nhớ thêm Trương Phi trước Đương Dương Trường Bản chỉ cất lên mấy tiếng thét mà trăm vạn quân Tào đang đuổi diệt quân Hán sững cả lại, không dám tiến nữa! Và có tướng giật mình ngã ngựa, đứt cả ruột gan...

Triệu Tử Long cũng đưa tôi đánh trận Đương Dương cùng ngọn thương như có một thác ánh sáng tung bay, hay ví như kiểu ví thời đó, thì mưa giội xuống người ngựa Triệu Tử Long cũng không làm ướt được. Viên tướng trẻ mà Khổng Minh tấm tắc khen "toàn thân là đởm" ấy, xông pha trận mạc tới ngoài bảy mươi vẫn không chịu rời ngọn thương, cũng như không chịu thua trận nào. Trước ngày từ giã mãi mãi ba quân, còn đánh thêm trận nữa, một mình một ngựa trấn giữ phía sau yểm hộ cho ba quân rút. Bên cạnh Triệu Tử Long lại có Hoàng Trung, cũng hơn bảy mươi tuổi, vẫn giữ cây cung bắn trăm phát trăm trúng, rồi chết già chứ không để nhụt danh hổ tướng.

Tôi cũng ăn bát cơm Siếu Mẫu. Bát cơm nguội này bà mẹ họ Siếu đã giấu cho Hàn Tín lúc hàn vi đi câu cá không kiếm nổi được bữa, đói lả đi, mà còn phải chui qua dái người quét chợ, hắn đòi tiền thuế không được, bắt giữ lấy cần câu. Hàn Tín sau làm tướng, tạ ơn bà mẹ nghèo mà hào hiệp kia ngàn lạng vàng. Không! Tôi thấy mỗi hột cơm khi đói cân đổi bằng một lạng vàng cũng chưa xứng!... Tôi còn nghe thấy cả tiếng quát mắng của Từ Mẫu già lão gầy yếu, và trông thấy cả cánh tay áo rộng của bà run run giơ lên ném cái nghiên mực vào mặt Tào Tháo. Rồi giận đứa con sao lại vì bà mà bị lừa bị bắt, chịu bỏ một nơi mà mình cho là chân chính phải phò tá, cái mái đầu sương tuyết của Từ Mẫu đã đập vào tường, phải, bức tường hiện ra ở ngay trước mặt tôi, ròng ròng những giọt máu và những giọt mực kỳ hậu Hán tới nay vẫn còn nguyên sắc (6). Tôi đã đọc những pho truyện đời Hán, đời Đường, đời Tống ấy cho bà nội tôi nghe ở nhà phố Hàng Cau.

-----

(6) Sự việc này tôi nghe kể và còn nhớ; chính trong truyện in là Từ Mẫu treo cổ tự tử. Tôi xin phép được giữ nguyên hình ảnh và ấn tượng đầu tiên. Mong các bạn lượng thứ cho cả vài trường hợp khác (N.H.).

Đất làm nhà là của cụ đời trước để lại. Mùa hè, chỗ bà tôi và tôi ngồi thường ở khoảng cửa thông từ gian ngoài đường vào ngăn trong bếp và lên gác. Nghe nói khi xây nhà, hôm lắp cái khuôn cửa này, cả thợ mộc, thợ nề đã phì cười vì thấy tôi đi qua, người nhỏ cũn mà cứ khom rạp lưng và nghiêng nghiêng đầu như sợ vập phải giàn giáo, khung cửa. Bà tôi ngồi uống nước chè mạn trên chiếu võng, tôi quét nền gạch ẩm lạnh, cởi trần nằm. Không nhớ những ngày đó nóng lên đến bao nhiêu độ mà tôi vẫn chỉ thấy không khí thoáng mát và trời nắng đẹp rực rỡ. Tôi vẫn còn nghe thấy tiếng những xe cút kít chở gạo ở một hiệu khách cân gạo cùng phố miết biền biệt vào cái im lặng vo vo của trưa nắng, tiếng chim sẻ líp nhíp ngoài mái hiên, và đâu đây tiếng gà gáy vang lảnh.

Trong nắng trưa ngun ngút ấy, đã hiện ra một Trường Giang mênh mông, ì oạp một con thuyền, và bỗng rồ lên tiếng cười sằng sặc tiếp theo hai câu thơ lạnh rợi:

Giết khách thương, thâu của báu

Lột trần quăng xuống giữa dòng sông...

Bá Ngọc Xương lưu lạc một thân một mình bước nhầm xuống thuyền này. Bá Ngọc Xương đính hôn với La Côn, con trai thứ của La Tăng. Lão tướng La Tăng đi đánh giặc ngoài biên, bị vây hãm. Gian thần ở trong triều thông đồng với giặc, mưu phản, tâu lên vua rằng La Tăng đã hàng. Cả ba họ La bị xử chết. La Côn trốn được. Bá Ngọc Xương bỏ nhà mình, ra đi thiên sơn vạn thủy (7)quyết tìm gặp La Côn.

-----

(7) Muôn núi ngàn sông.

Trên sông vắng sóng dồi, nghe câu thơ và tiếng cười kia, Bá Ngọc Xương liền đứng lên, xõa tóc, ôm đầu ngước mắt trông trời mây, khóc gọi người chồng hứa hẹn, và định nhảy xuống sông để giữ vẹn da thịt và linh hồn. Nhưng vừa thấy Bá Ngọc Xương kêu lên tên của La Côn là người đang nổi tiếng, được nhiều người kính phục, và than cảnh oan khốc lưu ly, cả hai tên cướp liền quỳ xuống, níu lấy áo Bá Ngọc Xương mà tạ tội, rồi cùng phò Bá Ngọc Xương đi tìm La Côn (Phấn Trang Lâu).

Tôi thương quý người con gái Bá Ngọc Xương chung thủy kia bao nhiêu, thì lại càng quý thương bấy nhiêu người vợ kiên cường của tướng Phiên Ô Hắc Lợi. Ô Hắc Lợi bị quân Tống xâm lược giết. Vợ quyết bỏ nhà vượt biên ải sang Tống để báo thù chồng. Cũng một mình qua vạn thủy thiên sơn, vợ Ô Hắc Lợi đã phải lần mò trong canh khuya qua các rừng rú để vào đất Tống. Tiếng than gọi của người vợ nghĩa liệt đã cất lên giữ dặm trường đêm tối gần như lạc bước, thì hồn linh Ô Hắc Lợi hiển hiện, hóa thành con đom đóm lập lòe để đưa đường cho vợ.

Về đời Đường, trong đám anh hùng hơn ba mươi người được xếp thành thứ bậc, có rất nhiều tên tuổi, tài nghệ tuyệt luân, phi thường. Lý Nguyên Bá, hơn mười tuổi, với đôi chùy ngắn đã giáng xuống thì không ai đỡ nổi. Lý Nguyên Bá đã đập nát bét cả người lẫn ngựa không biết bao nhiêu địch thủ. Lý Nguyên Bá đã tung chùy lên để đánh cả trời rồi chính mình bị chết vì chùy kia giáng xuống. Dưới vị anh hùng thứ nhất này, La Thành đứng hàng thứ sáu. La Thành mặc bạch bào, bạch giáp, cỡi bạch mã, sử dụng ngọn thương có một miếng gia truyền rất hiểm độc là giả vờ thua, thúc ngựa chạy, nếu kẻ địch đuổi theo, liền quay ngựa đâm trở lại ngọn thương, hạ tươi đối phương bằng miếng Hồi mã thương. Còn Tần Thúc Bảo đứng dưới nữa thì có đôi giản với miếng Sát thủ giản, cũng sử dụng như kiểu La Thành, khi đối phương rượt đuổi thì vùng quay ngựa và chập đôi giản bổ xuống đầu đối phương và cũng hạ tươi...

Nhưng tôi không thích mấy người họ lắm mà lại yêu nhất Trình Giảo Kim, xếp gần thứ bét. Trình Giảo Kim nhà nghèo, ngày ngày gánh đôi giành muối đi bán rong kiếm từng bữa gạo về nuôi mẹ già. Trình Giảo Kim rất ham say võ nghệ. Một đêm nằm mơ thấy thần hiện đến dạy cho môn búa. Trình Giảo Kim nửa tỉnh nửa mê, cặp cái đòn gánh muối giả làm ngựa, khoa đủ ba mươi sáu đường búa của thần chỉ bảo mà Trình Giảo Kim thấy quả là thiên hạ vô địch.

Trình Giảo Kim quần "ngựa" chạy rầm rầm, rung chuyển cả gian gác vốn ọp ẹp. Sướng quá, Trình Giảo Kim thét lên, tầng gác cùng lúc đổ sập. Vì thế mà Trình Giảo Kim tỉnh giấc, và lúc nghĩ lại thì quên mất gần hết, chỉ còn nhớ có ba đường búa!

Càng ngày càng khó sống, Trình Giảo Kim phải bỏ mẹ, bỏ quê đi nơi khác kiếm ăn. Trên một quãng đường đói kém cùng kiệt, Trình Giảo Kim gặp một bọn cướp núi rất đông, rất ác đòn đánh. Chỉ với nhát búa thứ nhất, Trình Giảo Kim đã chặt đôi tên tướng. Cả bọn quân liền quỳ rạp xuống lạy và đưa Trình ta lên thay và tôn hẳn làm vua. Trình Giảo Kim lấy hiệu là Hỗn Thế Ma Vương, cũng lập thành triều đình, đủ cả bá quan văn võ trên sơn trại, uy danh ngày càng lừng lẫy. Nhưng chỉ ít lâu, sống trong cái cảnh: mặc thì đủ bộ long bào, long cổn, ăn thì nay yến mai tiệc, đi đâu mỗi bước lại có người tung hô vạn tuế, nói năng thì phải giữ gìn đạo mạo, và vẫn phải đi ăn cướp, Hỗn Thế Ma Vương Trình Giảo Kim ta thấy như thế thì ngầy ngà bó buộc, cực nhọc, và cả cực nhục nữa. Như một cái thân tội ấy. Đang đêm Trình Giảo Kim bỏ mũ, bỏ áo, bỏ cân, bỏ đai, bỏ ngai, bỏ cung, bỏ điện, bỏ sơn trại... trốn về nhà với mẹ, và lại gánh giành muối đi bán các chợ.

Nếu như Trình Giảo Kim không quá say, quá cuồng trong cơn mê luyện búa, đến nỗi nhảy thét lên làm sập gác, mà học nhớ được đủ ba mươi sáu đường chứ không bị quên mất ba mươi ba đường búa, thì có thể thành anh hùng thứ nhất được không? Sau đây, khi phò Đường Thế Dân, bao giờ Trình Giảo Kim cũng đòi ra đánh trận đầu và đánh toàn với những tướng dữ dội, ghê gớm. Gặp đối phương, Trình Giảo Kim, hăm hở phi ngựa xông đến choang ngay búa thứ nhất. Kẻ này đón đỡ, dù y có bị rùng tay, hơi choáng, nhưng Trình Giảo Kim nhìn thấy y vẫn vững vàng trên ngựa, thì chính người bắt đầu run tay. Người liền vội choang búa thứ hai và lại nhìn xem, nhưng không thấy địch thủ lảo đảo gì cả, thì chính người đã loạng choạng. Người liền nhắm mắt xông lên choang búa thứ ba. Đến búa này, người mở mắt ra, mà chao ôi, đối thử vẫn cứ không việc gì, thì người bèn quất ngựa tẩu cho thật nhanh!...

Mặc dầu Trình tướng quân chỉ có ba búa như thế, nhưng trải nhiều trận bị bao vây nguy khốn muôn phần, cơ hồ sắp tuyệt vọng, quân Đường đều nhờ lão Trình mà có viện binh. Chỉ do tài nói khích và cả nói khoác nữa của lão Trình, mà tướng địch chịu mở lối cho lão đi cầu viện.

Khi lão trở về, quân nhà giải vây đánh thắng, cố nhiên lão lại nói tếu rằng cả quân và tướng địch đã phải để lão đi gọi viện, vì mỗi búa của lão đã hạ một tướng địch, còn binh địch đã sợ quá... bỏ chạy, không kịp đội lại mũ, thắt lại dây lưng! Mặc dầu đã nhiều trận lão mếu dở khóc dở, vì cả quân sư và nguyên súy đẩy lão, bắt lão phải vượt vây cầu cứu viện quân.

(Tôi xin phép kể ra ngoài lề một đoạn. Trong bọn nhà văn, bất kể người viết tiểu thuyết, làm thơ hay làm báo chúng tôi, những lúc vui chuyện thường gọi đùa nhau là Trình Giảo Kim. Người nào được tặng cho cái tên ấy, trong số đó có anh Trình Giảo... Kim Lân, thường cười ngất, rất lấy làm một sự khoái trá, và quý mến kẻ đùa mình, chứ không tự ái tự ung gì cả!).

Trình Giảo Kim phò luôn ba triều Đường, cuối cùng cười lên mấy tiếng lớn vì nghĩ các chuyện đời, rồi chết, thọ đâu như trăm sáu mươi hơn tuổi...

Phải! Lão Trình đã cười lớn mấy tiếng rồi chết. Lần này lão Trình đi đứt thật, nằm trong lòng đất mà nhắm mắt, chứ không như nhiều lần trước, đã bị địch thủ đánh nhào khỏi ngựa tưởng chết, nhưng chỉ vừa sấp mặt xuống đất, hít được hơi đất thì liền sống lại, như Ăng-tê của thần thoại Hy Lạp vậy.

Hồi còn mồ ma Nguyễn Huy Tưởng, ông bạn đôn hậu của chúng tôi, cũng thường gọi anh em là Trình Giảo Kim. Và ông cũng lại cười một cách rất chi là hồn nhiên khi được anh em gọi mình tên ấy. Ông Chánh Hòa (8)khá là thông kim bác cổ và nhớ các sách, các truyện ấy, lại còn nhớ thêm một chi tiết này của nhân vật tiểu thuyết và bình dân họ Trình: Trình Giảo Kim là sao Thổ hành tinh nên mới chết đi sống lại kiểu như vậy và thọ lâu đến thế.

-----

(8) Tên anh em chúng tôi gọi vui Nguyễn Huy Tưởng (chú thích của tác giả).

Uất Trì Cung, võ nghệ cũng chỉ vào loại như Trình Giảo Kim. Xuất thân là thợ rèn, mặt đen như nhọ chảo, Uất Trì Cung tính tình cương trực, có lần lấy thân đỡ gươm giáo và tên đạn của quân địch bao vây bốn bề để che chở cho chúa, nên đã được ban thưởng một roi sắt khắc tám chữ: "Thượng đả hôn quân, hạ đả gian thần". Nhận chiếc roi này, Uất Trì Cung đã được thần cho biết phải giữ gìn cẩn thận, nếu để roi gãy thì mệnh cũng không còn. Mặc dầu vậy, vì ngăn cấm không được người vua triều sau hôn mê dâm bạo, chỉ thích nghe lời xiểm nịnh, Uất Trì Cung cũng cứ cầm roi xông vào quật. Uất Trì Cung đã quật phá ra ngoài, gãy đôi ngọn roi, sau đó về nhà hộc máu chết!

Uất Trì Kính Đức, trong bản Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã nêu là một tướng tận trung, tận nghĩa làm gương sáng để khích động chí khí toàn quân chống giặc ngoại xâm.

... Bao Công cũng nổi tiếng với bộ mặt đen. Nhưng soi vào bộ mặt ấy thì cũng thấy rạng lên một thứ ánh sáng. Ánh sáng của tinh thần quang minh chính đại, chí công vô tư, không uy quyền nào có thể lung lay, không vàng bạc hay thứ gì có thể mua chuộc!

Tôi đã phải đọc đi đọc lại cho bà tôi nghe vụ xử án Quách Hòe.

Lý Thần Phi là mẹ đẻ Tống Nhân Tôn. Nhưng khi Tống Nhân Tôn vừa lọt lòng mẹ thì Quách Hòe đem tráo vào con mèo chết, vu cho Lý Thần Phi sinh quái vật, biếm Lý Thần Phi và hạ ngục.

Tống Nhân Tôn được lập làm thái tử rồi lên ngôi vua. Quách Hòe từ chân thái giám bước lên chức thái sư, quyền hành nhất triều, không ai dám ho he, và mặc dầu vụ tráo mèo cướp chúa này hết sức bưng bít nhưng vẫn làm ấm ức nhiều cựu thần.

Lý Thần Phi đi trốn, rất đói khổ, sau bị mù phải sống nhờ một đứa bé con nuôi chuyên nghề đi bán đậu phụ, kiếm về từng bữa gạo ăn.

Bao Công làm quan coi các việc án từ thời đó. Một hôm đi kiệu trên đường bỗng gặp một cơn lốc đột ngột, thổi tung cả mũ đang đội. Bao Công vội cho lính hầu chạy theo lấy mũ, và đang suy nghĩ về luồng gió lạ này, thì lính giải về một gã thiếu niên ăn mặc rách rưới đã nhặt được mũ của Bao Công nhưng không đưa trả, mà nhất định đòi gặp Bao Công. Bao Công càng ngạc nhiên hơn, thấy tên bán đậu phụ nhom nhếch bị lệch xệch giải đến dưới kiệu mình, lại còn nhất định đòi mình phải theo gã về nhà gã vì có một chuyện đặc biệt. Bao Công đã gặng hỏi hết nhời mà vẫn chỉ được gã bán đậu phụ đáp lại là Bao Công có theo y về nhà thì mới được nghe chuyện đó.

Bao Công xuống kiệu, bỏ lính hầu lại, đi theo kẻ lạ nọ. Hai người đến một lò gạch hoang. Gã bán đậu phụ bảo mẹ gã ở trong ấy, và chính người này bấy lâu đã dặn y phải tìm gặp bằng được Bao Công. Bao Công càng sửng sốt.

Vẫn chưa đủ! Người này lại không chịu ra đón Bao Công, mà bắt Bao Công phải vào hẳn nhà của bà, nghĩa là Bao Công phải chui qua cái cửa hầm lò vừa thấp, vừa hẹp, vừa tối, vào chỗ bà thì bà mới tiếp và nói chuyện.

Chính gã con nuôi khi nghe mẹ bảo ra ngoài truyền lại cho Bao Công, đã xanh xám cả mặt mày và run rẩy cả chân tay. Nhưng rồi Bao Công đã khom hẳn mình, chui qua cái cửa hầm lò, và, lại còn phải chờ Lý Thần Phi cho lệnh đến bên chõng bà ngồi, quỳ xuống chõng, trật mũ ra để bà xem có đúng thật là người bà mong đợi bấy lâu không. Khi rờ trúng cái nốt ruồi nổi sau gáy, thì Lý Thần Phi thét lên: "Bao Chửng"! - tên chính của Bao Công - rồi òa lên khóc, đoạn kể tất cả khúc nhôi, nguồn cơn nông nỗi hơn hai mươi năm nay...

... Về triều, Bao Công đã hạ trát bắt Quách Hòe, lập một phiên tòa lấy cung rất là đặc biệt, rồi xử tử tội phạm.

A! Công lý đã xuống kiệu. Công lý phải khom mình, bỏ mũ, quỳ gối để được đến với Chân lý và nghe Chân lý lên tiếng. Và Công lý đã tìm ra Chân lý.

Ngày ngày tôi đã cắp chiếu cùng bà tôi, sáng đi lễ, chiều đi chầu ở nhà thờ. Cùng bà tôi, tôi còn nguyện kinh buổi trưa và đọc kinh buổi sáng, buổi tối ở ngay nhà nữa. Nhưng cả những lúc nguyện kinh Đức Chúa Thánh thần, ngắm Mười lăm đàng thánh giá, đọc các kinh Vực sâu, Lạy nữ vương, vân vân, hay lúc theo bà tôi đi xưng tội ở tòa giải tội ra, đọc các kinh đền tội, hay cả trong những buổi lễ trọng, bà tôi chuẩn bị chịu phép Mình thánh Chúa,... tôi cũng không thấy bà tôi ngẫm nghĩ, đăm chiêu, hay rạng rỡ nét mặt như khi tôi đọc lại đoạn truyện Bao Công trên đây.

Năm ấy bà tôi đã ngoài tám mươi tuổi, mắt nhìn mờ mờ, da dẻ như đồi mồi, lưng hơi còng và bước rất chậm. Dưới cái khung cửa ẩm lạnh, tối tối, vắng lặng trưa hè, tôi thấy như mình đang ở cái lò gạch nát hoang với bà Lý Thần Phi gầy xác, rách rưới, đôi mắt không còn ánh sáng, nức nở kể lể nguồn cơn... Và tôi đã khoanh tay đứng sau lưng Lý Thần Phi mà nhìn Bao Công mũ mãng nghiêm trang quỳ bên chõng, mặt càng đen sắt, nhưng kỳ lạ, sao mà cứ như gương, như hào quang ấy, làm tôi thấy quý, thấy yêu, thấy đẹp tuyệt thế, tuyệt vời...

Khi cha tôi mất, nhà càng sa sút, thì tôi được đọc Thủy hử. Truyện cắt ở một báo hàng ngày đóng thành tập hàng trăm trang. Tôi không phải thuê. Tôi mượn của một nhà bạn, tha hồ mà om, mà nghiền, mà ngốn, mà tán. Lúc đọc ở ngay nhà người có truyện; lúc đem hẳn về nhà mình. Đọc ở vườn hoa, ở cổng trường, ở bãi đá bóng, ở bờ hè, ở cửa nhà thờ, ở bực thềm hội quán Hoa kiều. Đọc buổi trưa, buổi tối, đêm khuya. Trùm chăn mà đọc, nằm ôm quặp lấy nhau mà đọc. Đọc quên cả đói, đọc đến mê đi, đọc đến thuộc từng đầu đề, từng hồi thứ bao nhiêu. Và đố nhau câu nào ở trang nào, kẻ nào nhớ đúng thì được tha hồ búng vào mũi, hay khảo vào đầu gối người thua bằng búa đinh cũng được.

Đúng vào giữa mùa rét và những ngày gần tết. Những phố từ bến tàu thủy qua phố Khách, phố Hàng Giấy, Hàng Đồng, Hàng Đường lên chợ đã đông đúc nhộn nhịp lại càng rực rỡ hơn. Các hàng bán tranh pháo, câu đối, quần áo, kẹo, mứt... cứ như có muôn vàn hoa bướm, cờ xí, tàn quạt, võng kiệu, thần tiên hoạt động.

Tôi càng mê những hàng pháo tép hơn. Ảnh các tướng của truyện Tam quốc trong các gói chè hiệu Ninh Thái tuy in rất đẹp bằng giấy kim nhũ, nhưng cũng không khiến tôi náo nức bằng ảnh các tướng Thủy hử của một hiệu chè và một hiệu thuốc lá nọ, không to lắm, chỉ in giấy thường thôi. Những Võ Tòng, Lâm Xung, Lỗ Trí Thâm, Lý Quỳ, Hỗ Tam Nương, Cố Đại Tẩu. Những Ngũ Đài Sơn, Cảnh Dương Cương, Lương Sơn Bạc, Chúc Gia Trang. Những cây thiết trượng, những đôi búa và những bắp tay vo kia càng đọc thêm, càng thấy sao mà phải nhớ, phải yêu. Nhất là đôi bắp tay vo của Võ Tòng quần với hổ dữ trên đèo chiều vắng dọc đường lữ thứ...

Đặc biệt, Lỗ Trí Thâm đã cho tôi thấy rõ lòng tự tin và hào khí. Khi từ chùa trên Ngũ Đài Sơn xuống chợ, ở quán ra, Lỗ Trí Thâm ngà ngà hơi men đã quát lên với một hàng thợ rèn khi họ không nhận đánh cho cây thiết trượng quá khổ, vin lẽ Quan Công là hổ tướng đời xưa mà chỉ sử dụng cây đao nặng khoảng tám mươi cân, mà Lỗ Trí Thâm lại dám đặt làm thiết trượng cũng vào cỡ ấy!

- "Thế các ngươi không coi ta cũng là người như Quan Công à?".

Tôi càng yêu thương, quý mến nhà sư hảo hán này trong khi đi đường vừa đói vừa hết tiền phải lên một ngôi chùa trên núi xin ăn, đã bị từ chối rằng đây không còn cơm gạo gì cả. Vậy mà khi ngửi thấy mùi cháo thơm, sục tìm ra một nồi cháo chín nhừ nóng ngút, Lỗ Trí Thâm cả giận thét lên định xông vào đánh bọn nhà chùa nói dối mình và cướp lấy nồi cháo. Cả bọn gầy rạc, xanh xao và tiều tụy nọ òa lên khóc, níu lấy áo Lỗ Trí Thâm van lạy, kể lể sự tình, chùa bị một ác tăng chiếm cứ cướp hết cả tiền của lương thực, đang vui vầy dâm dục với gái đĩ, còn nồi cháo này là mẻ gạo cuối cùng bòn vét để dành, sau mấy ngày không được ăn một hột cơm nào. Lỗ Trí Thâm trả lại ngay nồi cháo. Chẳng những thế, Lỗ còn vác ngay thiết trượng xông vào chùa tìm tên gian bạo trừng trị, cùng nó giao chiến khá chật vật. Giết tên nọ xong, Lỗ mới trở về nhận bát cháo chia đều nhau cùng ăn, đoạn giao cảnh chùa y nguyên cho các bạn đói, rồi lại khăn gói gió đưa ra đi...

Hình ảnh Võ Tòng cũng đẹp biết bao, làm tôi cảm động đến ngào ngạt. Sau những năm lưu lạc, Võ Tòng đã về ăn ở với người anh bán đậu phụ quá là nghèo và hiền dại, những mong có được chút hạnh phúc trong cảnh anh em côi cút đùm bọc lấy nhau. Ngờ đâu gặp phải người chị dâu dâm đãng và gian quái, đã bỏ thuốc độc hãm hại anh. Tội ác và tấn thảm kịch ở nhà Võ đại lang, bà con hàng xóm quen thuộc đều biết rõ, nhưng đều phải "thủ khẩu như bình" (9)vì sợ tên gian phu quyền thế và quan lại cánh vế của nó bao che. Sau buổi cúng vong anh, nghe hồn anh hiện về cặn kẽ báo mộng, Võ Tòng lập hẳn một phiên tòa, tự mình đi bắt từ gian phu, dâm phụ đến mụ mối manh và bọn thân thuộc bất lương. Rồi Võ Tòng đích thân đi mời các bà con đến làm chứng, tự tay xét xử những bọn gây ác nọ, lấy máu của chúng cúng tế trước bàn thờ vong của anh mình. Võ Tòng còn cắt cổ, trừng phạt cả một xốc những tên nha lại lính tráng bất chính.

-----

(9) Giữ kín mồm miệng như cái bình.

Võ Tòng ngang tàng dữ dội ấy đã một mình qua Cảnh Dương Cương lúc chiều tà, các khách bộ hành và người địa phương kiếm củi đốt than gan góc nhất cũng phải đỗ lại. Võ Tòng khật khưỡng chỉ với hai bắp tay mà đánh chết con cọp đã ăn thịt không biết bao nhiêu người, sắp thành tinh, trừ họa cho nơi đây...

... Lâm Xung cũng bị cướp vợ. Kẻ cướp vợ này cũng là một quan quyền giàu có, đã lừa Lâm Xung đi vào nơi cất ấn của vua để khép vào tội chết. Lâm Xung đi đày, dọc đường bị đóng gông, đeo xiềng và xích tay, lại còn bị hai tên công sai ăn tiền của tên quan nọ bắt nhúng chân vào nước sôi sưng bỏng lên không cất bước được, rồi trói vào cây, vu cho tội chạy trốn, định lấy côn đập chết.

Giữa rừng vắng, Lỗ Trí Thâm đã hiện ra, cứu Lâm Xung. Nhưng Lâm Xung vẫn cứ phải đến chỗ đi đày, làm việc khổ sai, và lại mắc vào một mưu mới, suýt bị thiêu chết trong một ngày gió tuyết mịt mùng, trú ở gian lều cỏ chơ vơ man mác quan san, hận sầu đất khách và... thèm rượu. Người hảo hán tài sức đặc biệt đã trông coi cả tám mươi vạn cấm quân ấy, cũng lại tự tay mình xét xử những kẻ gây ác. Lâm Xung vừa chém vừa cắt cổ cũng ngót một xốc, từ tên quan chủ mưu đến bọn tùy thuộc chân tay, rồi cũng trốn lên Lương Sơn Bạc, tụ nghĩa với những Tống Giang, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, v.v... chống lại triều đình nhà Tống thối nát.

Tôi cũng không nghe nói tuổi của Lâm Xung trong Thủy hử. Nhưng cho đến bây giờ, tôi thấy Lâm Xung vẫn trẻ và đẹp lạ lùng. Trẻ và đẹp một cách Thủy hử, cũng như Triệu Tử Long cứ mãi mãi trong trí tưởng tôi, trẻ và đẹp một cách Tam quốc, mặc dầu tôi biết Triệu Tử Long đã thọ hơn bảy mươi tuổi.

Lý Quỳ của Thủy hử nổi tiếng cũng với cây búa như Trình Giảo Kim đời Đường. Nhưng búa của Lý Quỳ sử dụng chỉ là một đôi búa bổ củi. Lý Quỳ sống bằng nghề kiếm củi, nuôi mẹ già bằng tiền bán củi. Mẹ Lý Quỳ cũng chỉ được mỗi mình Lý Quỳ, hai mẹ con ở trong rừng thẳm, làm nhà bên một suối nước. Sức búa của Lý Quỳ gần như không ai đương nổi, chứ không chỉ ghê có nhát thứ nhất rồi xuống đến nhát thứ hai, thứ ba như Trình Giảo Kim nhà ta. Lý Quỳ tính còn nóng hơn lửa, lúc xung trận cũng thường thét như Trương Phi và chỉ cởi trần. Lý Quỳ cởi trần còn vì thói quen nghèo đói, cơm kiếm không đủ ăn, áo không có mà mặc. Lý Quỳ đã cõng mẹ định cùng lên Lương Sơn Bạc, dọc đường để mẹ ở rừng đi kiếm nước uống về thì mẹ bị hổ ăn thịt. Lý Quỳ đập chết hổ rồi lên Lương Sơn bạc với mình trần, đôi búa và một lòng cương trực vô địch, một tình thương yêu, một dạ trung thành tuyệt đối với nghĩa lớn và anh em cắt máu ăn thề.

Trong những ngày đọc miệt mài, và rất lâu về sau nữa, Lương Sơn Bạc đã thành một hình tượng mê đắm trí tưởng tôi.

Cha tôi mất đã hơn một năm, mẹ tôi đi kiếm ăn xa gởi anh em tôi lại cho cô tôi và bà nội tôi. Gia đình tôi ở nhờ một người họ. Bà cháu anh em tôi và tất cả đồ đạc, giường phản còn lại toàn những thứ cũ kỹ, xộc xệch, không còn thể bán cho ai được, thu vào ở đúng một gian nhà đã chật hẹp lại xếp mấy chồng gạch phía đằng sau. Những ngày gió rét, không dám hé cửa, trong nhà tối cứ như bưng và lạnh toát một mùi ẩm mốc. Vì thế tôi thường thường phải đọc sách ở bên ngoài. Lúc ngồi cạnh khe cửa; lúc ra nhà kèn vườn hoa; lúc đến trường sớm, chúi vào một góc tường; lúc tìm một hốc cây to khuất gió.

Những bạn nhỏ thân nhất ngày trước đã chuyển đi các trường khác gần hết. Toàn những bạn kết nghĩa, đã có kẻ cắt máu ăn thề với tôi, và tự xếp cho nhau thứ bậc anh hùng. Trong những bạn này, có anh Bùi Phú Túc và L.V. Thành. Anh Bùi Phú Túc được chúng tôi tôn là Bùi Nguyên Khánh, anh hùng thứ hai, hay là Uất Trì Cung trong truyện Thuyết đường, và anh gọi tôi là Trình Giảo Kim. Nơi tôi cùng làm Hỗn Thế Ma Vương với anh Bùi Phú Túc là bụi râm bụt và mấy gốc cây to ở góc trường. Sáng nào tôi cũng rủ anh đi học và ăn bánh tây của anh. Nhà anh mở lò bánh. Những chiếc bánh đầu thừa đuôi thẹo và những chiếc bánh bán cho trại lính ế, anh đem góp với những cà rốt và lê, táo bị thối, bị giập của nhà tôi để làm lương thảo khao anh em.

Anh vốn người nhà quê, tiếng nói và giọng nói khàn khàn, mặt mày tợn tạo, nhưng rất hào hiệp. Anh có đồng nào, và lấy của nhà được một hay hai hào, đều khao anh em bánh tôm, bánh cuốn hết. Còn bánh tây thì gần như ngày nào anh cũng thủ phồng cặp đem đi. Năm chuyển sang trường khác, học lớp nhất, anh là một chân đá bóng đi tiền đạo rất đẹp, đối phương kình địch của nhà trường tôi và đội tôi. Năm kháng chiến chống Pháp, tôi gặp anh ở chiến dịch Cao - Bắc - Lạng, 1950. Bẵng đi mười lăm mười sáu năm trời mới gặp nhau, nay anh là cán bộ tiểu đoàn của quân đội, còn tôi thì... với ngòi bút làm "búa"! Bùi Nguyên Khánh và Uất Trì Cung Bùi Phú Túc, bạn học từ lớp bét kết nghĩa hồi thơ ấu với tôi ấy, không tung đôi chùy lên đánh giời, và cũng không vì đập gãy cây roi sắt nên bị chết. Anh đã đi theo cách mạng, làm một người lính của cách mạng, và đã hy sinh trong trận chiến thắng biên giới lịch sử đó.

Anh L.V. Thành, nhà làm bánh phở. Chúng tôi thường gọi là Thành phở. Anh tự xưng là La Thành, anh hùng thứ sáu của Thuyết đường. La Thành bạch bào, bạch giáp, bạch mã kia cao hơn tôi hẳn một đầu, môi đỏ chót, mặt mày khôi ngô, người cao dỏng, rất lanh lẹn. Áo anh mặc đi học thường là áo dài trắng, nhưng dù vừa giặt xong vẫn lem nhem, và gây gây, hôi hôi mùi xương bò và khói nước dùng, tuy anh không phải làm việc nhà gì cả. Anh thường bị thầy giáo beo tai và bắt ra đứng ngoài cửa lớp vì tội thò lò mũi, luôn luôn cứ sút, sít, sịt, sì và quệt ngang bằng tay áo, ngoen nhờn và đóng vẩy ở má. Luôn luôn La Thành của tôi thúc "thoại phong câu" (10)bằng cành cây bỏ chạy, nhưng không phải để đánh miếng Hồi mã thương mà là bị đuổi thực sự! Bọn trẻ con lóc nhóc cứ túm lấy anh, chân anh co lên, người chúi dúi, tay vươn vươn để khỏi bị nắm giữ và cũng để quệt mũi. Áo "bào" trắng rách bươm, anh líu cả lưỡi mà hò hét kêu cứu...

-----

(10) Ngựa bay như gió.

Cứ đến nghỉ hè Thành phở lại học tư với tôi buổi trưa ở một ngôi đình cũ ngan ngát mùi hương hoa cau và hoa sói. Thầy giáo chúng tôi đã hơn năm mươi tuổi, râu vểnh, mắt gườm gườm, chuyên bắt chúng tôi đun nước pha trà rồi thay nhau quạt cho thầy ngủ. Thầy có một con gái bằng trạc chúng tôi, mắt toét vào loại nặng nhất, chuyên phô với thầy các kiểu tội của "chúng nó". Chính nhờ những buổi trưa thầy giáo già ngủ ngáy pho pho và tôi bị giữ cẳng ở ngôi đình có vườn cây u tịch này, mà chúng tôi đã được thấm hơn, nghiền kỹ hơn các truyện. Riêng tôi, tôi càng được nhập vào các nhân vật trong truyện và nhập vào cả các tượng Kim Cương, La Hán, Phật, Bồ Tát ở ngôi chùa cạnh đó.

La Thành của tôi sau cũng dạy học tư. Tôi bùi ngùi vô cùng sau một chuyến từ Hải Phòng trở về thăm quê hương Nam Định, đi vào cái ngõ cũ, nơi nhà anh Thành làm hàng, thì vẫn thấy trống tuềnh trống toàng, vẫn đầy ụn các lò, các bếp, các cối xay, các chậu, các nồi, các vò, các quang gánh và than củi chất đống. Nhưng không thấy L.V. Thành. L.V. Thành đã là một cậu giáo, vợ đang ở trong nhà kia xay bột làm bánh, nhếch nhác một lũ con nhỏ như mọi người ở chung. Còn L.V. Thành đang dạy học trường ngoài ngõ. Tôi lặng lẽ đi đến khung cửa, nhìn vào thấy La Thành dáng cao lêu đêu, tóc chải mượt, quần áo là hẳn hoi, đang gõ thước kẻ chứ không phải múa thương, và ngồi trên một ghế đẩu chứ không phải cưỡi bạch mã cành sấu, cành bàng, và đang thét đang quát một lũ hơn năm dãy bàn học trò líp nhíp, chứ không phải bị quân Phiên lóc nhóc đuổi theo túm áo, khoèo chân, sắp bị bắt giữ!...

Cố nhiên thầy L.V. Thành bây giờ không sụt sịt và quệt ngang mũi nữa. Nhưng quái lạ, sao tôi vẫn như thấy má anh hãy còn gờn gợn nhử, và cặp môi đỏ chót của anh càng cong hơn, trông rất ngộ, rất mến, như khi anh hập cắn mẩu bánh tây, bánh tôm của tôi cầm cữ đưa anh ăn những buổi sáng đến trường hay những buổi ra chơi, sắp cùng nhau xung trận.

... Xa cách hẳn các bạn kết nghĩa đã học với nhau từ lớp bét, lên lớp tư, lớp ba (11)và sống côi cút, tôi càng khát bạn. Và càng đọc Thủy hử, càng mê Lương Sơn Bạc, thì càng thấy rõ những cảnh giàu sang hãnh tiến trái ngược ở chung quanh.

-----

(11) Hệ thống trường Tiểu học hồi Pháp thuộc có 6 lớp: Lớp năm (tức lớp bét), lớp bốn, lớp ba, lớp nhì năm thứ nhất, lớp nhì năm thứ hai và lớp nhất.

Nhà T.P. chỉ chạy chọt ở các cửa quyền thế, được buôn độc quyền muối mà đã từ một cửa hàng nhỏ và một anh ký khổ vọt lên thành triệu phú, xây hàng dãy nhà, dãy phố cho toàn quan tây, quan ta và công chức lương cao nhất thành phố thuê ở. Mỗi khi vợ chồng và thằng con đi lễ hay đi chầu, thì chính cha chánh sứ đón chào, chuyện trò từ cửa nhà thờ vào đến phòng khách. Gia đình ngày càng thêm vai vế, không những nhất thành phố, mà còn nhất mấy tỉnh. Chỉ "nói" không với các quan công sứ, thống sứ mà thằng em cũng được làm nghị viên, rất gian quyệt trong những năm đàn áp cộng sản phong trào 1930 - 1931 ở Nam Định.

Trong khi nghe được câu chuyện làm giàu và hiển vinh này, tôi đã đi theo sau và trông rất lâu những người kéo xe bò nước và những đám quét đường, dọn cỏ rác ở các vườn hoa và dinh thự to. Họ phần đông là dân làm muối bị án tù muối lậu. Toàn những đàn bà nhà quê vùng biển, trông sao mà hiền lành, nhẫn nhục. Nhiều người còn trẻ, vừa chạy theo xe, vừa day day bầu vú, yếm đen thủi và ướt đẫm.

... Tôi còn được biết một thằng béo xề như con lợn cạo trắng, chuyên cho vay lãi rất nặng, nhà chỉ nuôi đầy tớ gái trẻ. Nó đã có lần lấy dùi sắt nung đỏ dùi vào vú con sen, vu cho tội ăn cắp. Hàng phố gọi nó là Hàn-cá-kho. Nó được bằng Hàn lâm đãi chiếu, thưởng cho cái công nịnh và dắt khách cho các quan Tây. Còn tên Cá kho là do nó đã bắt đem về nhà cả nồi cá kho duy nhất của một người nợ nhà nó, kho tối hôm ba mươi để ăn Tết, sau một ngày đi trốn, khuya về đã tưởng yên thân.

Sau phố tôi là dinh cơ một tên án sát. Nghe nói y làm bồi, chuyên dắt gái cho các quan đầu tỉnh. Tên họ y là M. Tầm Xuân! Còn những Cao Cầu (12)thì đủ các loại, với các thứ quan Tây, quan ta, mà những ngày lễ lớn ở nhà thờ, hay những ngày hội lớn ở thành phố, lại làm tủi nhục xót xa mọi người nghèo đói, họ được nhặt những đồng xu tung ra đất, hay những nắm cơm, bát gạo phát, hai tay bưng túm vào vạt áo.

-----

(12) Một tên lưu manh lên làm tể tướng triều Tống (chú thích của tác giả).

Những ngày cuối đông vắng lạnh và những ngày đầu xuân mưa phùn gió bấc năm ấy, càng đói rét trơ trọi và buồn tủi, tôi càng thấy Lương Sơn Bạc nổi lên rực rỡ vô cùng. Dường như những hoa đào, cúc, thược dược, phù dung, cẩm chướng cùng những màu sắc thắm thiết của ngày Tết và cảnh xuân đã kết lại làm một nền sáng cho lá cờ Thế thiên hành đạo phấp phới trên những ngọn núi và vùng hồ nước, nơi các anh hùng tụ nghĩa. Cũng dường như những tia sáng chói lọi nhất của mặt trời và những ánh bạc của mây trưa đã giội tỏa ra cùng với những ngọn thương, đao, kiếm, kích tung hoành trên lưng ngựa, đánh đuổi tan tành các đạo quân triều đình bạo ngược.

Tuổi thơ dễ thấy đói và cũng dễ quên đói. Nhưng tình nghĩa thủy chung, nhân hậu, những ý chí quật cường, bất khuất, những khí tiết cùng khổ gian nguy, và sự keo sơn son sắt trong tình bạn chỉ là ở những trang chữ thôi, nhưng mà sao thấy ngon ngọt, thơm tho, no lòng, ấm dạ?

Ôi! Thủy hử và Lương Sơn Bạc kỳ diệu, tôi đang là thằng bé mười ba mười bốn tuổi, đọc và sống lại với các người đây!