← Quay lại trang sách

CHƯƠNG II

CHƯƠNG II

"SỬ KÝ ĐỊA DƯ GIÁO KHOA THƯ" VÀ NHỮNG LỊCH SỬ TIỂU THUYẾT

Phải lên đến lớp ba, gọi là lớp sơ đẳng (13)tôi mới được học lịch sử Việt Nam ở trọn một quyển sách có cái tên như trên đây. (14)

-----

(13) Hệ thống tiểu học dưới thời Pháp thuộc có 6 lớp: lớp năm tức lớp bét, lớp tư, lớp ba, lớp nhì năm thứ nhất, lớp nhì năm thứ hai và lớp nhất tương đương lớp bốn hiện nay.

(14) Tức là cuốn Sử ký địa dư giáo khoa thư.

Sách này khoảng hơn trăm trang in. Ngoài những đầu bài in chữ to, những từ, những câu cắt nghĩa, chú giải, những câu hỏi và những đoạn toát yếu, v.v... lại còn những hình ảnh minh họa. Bởi vậy, phần chính thành bài học chỉ còn mấy chục trang. Đã thế, mấy chục trang này về cuối lại là phần khá dài về triều Nguyễn, với nào Nguyễn Hoàng, Nguyễn Ánh, đức cha Bá Đa Lộc, hoàng tử Cảnh, v.v... Tiếp đến việc nước Pháp "phải đánh chiếm ba tỉnh rồi sáu tỉnh Nam Kỳ"! rồi "đánh chiếm thêm cả Hà Nội và Bắc Kỳ"! Rồi đặt nước "An Nam" thành một xứ bảo hộ. Xứ bảo hộ không còn tên Việt Nam hay "An Nam" nữa mà thành ba tên là Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, chịu chung một cái "ơn cai trị" của mẫu quốc Đại Pháp! Phần này lại càng tỉ mỉ, khá dài, với khá nhiều những hình ảnh dinh thự, phố xá, sông bến, cầu đường chiếm hẳn hàng chục trang để quảng cáo công cuộc văn minh khai hóa của mẫu quốc!

Còn Quang Trung thì sao? Quang Trung Nguyễn Huệ áo vải dựng cờ làm nên nghiệp lớn. Đàng trong đánh bạt chúa Nguyễn, đuổi giặc Xiêm La; ra đàng ngoài thì diệt tan triều đình vua Lê, chúa Trịnh, quét gọn giặc Thanh. Trong cuộc hành quân ra Bắc Hà có một không hai trong lịch sử, tiến như gió cuốn, sấm sét ra uy, một lúc cản phá hai mươi vạn quân Thanh, tướng súy, binh lính bỏ nhau tháo chạy về nước không cả kịp thở và ngẩng mặt trông trời... Con người anh hùng cái thế ấy, đối với triều họ Gia Long và cách trình bày của sử thuộc địa, trước sau chỉ là một tên giặc và một ngụy triều!

Trong sách học, phần chính về các triều trước đã quá sơ sài, lại còn bị cắt xén và sắp xếp giới thiệu rất tùy tiện, sai lệch như vậy, nên gần như không để được ấn tượng gì chính đáng trong trí não tôi, ngoài mấy hình ảnh in thô sơ, như Hai Bà Trưng cỡi voi đánh đuổi quân Đông Hán, hay Trần Bình Trọng đeo kiếm đứng hiên ngang trước quân Nguyên xâm lược.

Nhưng tôi đã có một sự may mắn bất ngờ là được đọc và nhớ sâu, nhớ nhiều về một số sự kiện của sử nước bằng cuốn sách quảng cáo thuốc của một nhà thuốc in trong Sài Gòn.

Không hiểu do chủ hiệu đặt viết hay do dụng ý và thói quen nghề nghiệp của người soạn sách, - tôi không hề thấy đề tên tác giả biên soạn là ai - mà "cuốn sử" này lại nhiều chuyện, nhiều sự tích đến vậy? Nhưng chuyện và sự tích của từng sự kiện và từng triều đại in bên cạnh những nào thuốc sốt, thuốc cảm, thuốc đau răng, đau mắt, đau bụng, đau xương, thuốc giun, thuốc bổ tì, bổ phế, hậu sản, ho lao, ngã nước, thuốc đẻ con nhiều, thuốc già uống trẻ lại... Có các thứ tên nghe cứ như là thuốc của các tiên, các thánh, với nào quế, phụ, sâm, nhung, nào dãi cá voi, thận hải cẩu, và các kiểu chai lọ, hộp ống. Nhãn hiệu thì mang hình một ông Phật đầu trọc, bụng phệ, mủm mỉm cười, gọi là nhãn hiệu ông Phật mập, trông như một chủ bán cao lâu no nê phả phê giữa mùa hè không cần quạt gì cả vì quá mát da mát thịt. Ông ta vừa ngủ trưa dậy thì có các thứ nàng hầu tắm táp cho và bón cho ăn hết liền mấy liễn chè hạt sen long nhãn và yến hấp đường phèn.

Tôi đã đọc truyện từ Lạc Long Quân và Âu Cơ là con rồng cháu tiên đẻ một bọc trăm trứng nở ra một trăm con trai, đến chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh, Trọng Thủy - Mỵ Châu và các sự tích bánh giầy bánh chưng, trầu cau, dưa hấu... Rồi đến các anh hùng lương đống như Đinh Tiên Hoàng, Lý Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão, và các nhân vật như Mạc Đĩnh Chi, Cống Quỳnh, Thị Điểm, v.v... chen lẫn với các tranh vui cười và đám chai lọ quảng cáo chữa đủ các thứ bệnh trên kia!

Năm ấy vào khoảng 1926-1927, nghe nói bà tôi sắp sửa phải bán nhà vì nhà tôi mất việc lâu quá, nhà vay nợ lãi nặng quá, hàng cơm của bà tôi sa sút quá, và cả hàng rau đậu, hoa quả của mẹ tôi cũng ế ẩm quá! Cha tôi chạy mãi mới lấy được cuốn sổ bìa xanh, định xin xuống tàu to làm... Bởi thế cha tôi phải vào Sài Gòn và đã gởi cuốn sách thuốc kia cùng mấy cái quà như kèn đồng, đàn hộp quay tay và ngựa cao su, xe gỗ cho anh em tôi.

Nhà tôi chỉ cách bến tàu thủy hơn trăm thước. Chính vì sợ tôi nghịch ngợm lêu lổng nên bà nội và mẹ tôi đã bắt tôi học cả trưa ở cái lớp của ông giáo nổi tiếng dữ đòn dạy trong ngôi đình khuất vắng kia. Cũng vì tôi phải đi học trưa như vậy nên bà tôi không thuê truyện và tôi không được đọc các truyện của bà thuê nữa. Tôi phải góp tiền với một vài thằng bạn để mua những cuốn mỏng và rẻ tiền đọc chung với nhau. Rồi có những trưa không trốn được đi nô nghịch và không có truyện mới để đọc, thì tôi lại nghiền ngẫm những trang sử trong cuốn sách quảng cáo thuốc. Ôi! Những Phi Long, Phi Phượng, Phi Hổ, Giang Môn, Long Môn, Nam Hải (15) đã nổi còi ùm ùm trên dòng sông đang độ nước cường lờ lờ như nước cua giã và váng riêu, chỉ rình tràn vào thành phố. Ôi! Những đầu toa vừa chạy vừa thở như cuồng như uất trên đường sắt, vút trong nắng tựa hai lưỡi gươm vô tận, và những hồi còi dội lên lọng cả buổi trưa! Biết đến bao giờ và ta phải làm gì để được cùng với các ngươi ra thật ngoài bến Sáu kho Hải Phòng? Đến đây, ta sẽ xuống những con tàu như kình ngư, như giao long khổng lồ bằng sắt mà vượt trùng dương vào Sài Gòn, theo cha ta đi các danh lam thắng cảnh của năm châu bốn biển?

-----

(15) Tên một số tàu thủy ngày đó.

Nếu như tiếng còi tàu, còi xe làm tôi bâng khuâng nghẹn ngào bao nhiêu, thì những tiếng xe cút kít lặc lè nghiến rít trên đường đá giữa nắng hè, cũng làm tôi day dứt bồn chồn bấy nhiêu. Những xe này có chuyến chở ba bao gạo, bao ngô chỉ xanh, mỗi bao nặng hơn một tạ, hoặc từng đống chất bốn năm rọ lợn và sọt củ nâu. Người cầm càng dù rất khỏe nhưng không thạo, không chuyên thì cũng dễ bị xe quật tung đi. Phần nhiều là các người đứng tuổi, da dẻ như sành, quần áo rách vá, nón mê. Thít qua vai qua cổ họ là một cái thừng dừa chỉ dùng vài buổi đã bạc sờn. Thỉnh thoảng có xe thêm một đứa bé, nó là con hay là cháu người đẩy, cũng rách rưới, gầy sắt, phải dòng thêm dây gò lưng cùng kéo. Sau đây lớn lên, được nghe tả và đọc về những tù khổ sai và những nô lệ kéo thuyền trên sông Von-ga ở nước Nga Sa Hoàng, cả thân thể và quần áo họ đều bị roi gậy quật đánh rách xé, họ cứ phải rạp người và cố cất lên những tiếng hò lừ lừ, triền miên, nén nặng như dòng sông, thì tôi lại không khỏi không nhớ đến những người đẩy xe cút kút và những đứa bé kéo xe cút kít những trưa hè nọ.

Thỉnh thoảng mưa rào. Ngoài sân và sau vườn lớp tôi học, hương hoa cau và hoa sói càng như đang ủ men bỗng được dỡ tung ra. Hương sắc và hình tượng của những trang sử nước nhà bốc lên theo, hiển hiện vời vợi...

Sao mà thiêng liêng, lúc Âu Cơ hoàng hậu cùng chồng Lạc Long Quân chia nhau con, năm mươi trai theo mẹ lên núi, năm mươi trai theo cha xuống biển! Sao lại như thế? Sao lại là một bọc trăm trứng và nở đủ thành một trăm con trai? Sao không là cả một trăm con gái hay là năm mươi con gái? Và sao lại năm mươi trai theo mẹ lên núi mà không là tất cả một trăm? Và sao lại là năm mươi con theo cha xuống biển? Núi với biển, cha với mẹ, trai hay gái, ý nghĩa thế nào nên mới là sự việc lưu truyền đầu tiên của giống nòi, đất nước, sử xanh?

A! Phù Đổng Thiên Vương lên ba tuổi mà không biết nói, nhưng vừa nghe tiếng mõ rao nhà vua cần người tài đi đánh giặc thì bật tiếng lên. Sao thường bảo bị câm là vì điếc? Mà sao vì điếc không nghe được nên không nói được tiếng người, nhưng lại nghe ra tiếng mõ và hiểu được lời cầu hiền? Lạ thay! Lên ba tuổi mà hiểu được lời cầu hiền, mà biết xin mẹ đi giúp nước. Lại bảo mẹ thổi cho một nồi ba mươi cơm dỡ ra đầy một nong ăn hết? Rồi lại đòi dân làng đánh cho một con ngựa sắt, một roi sắt, vươn mình cao hơn mười trượng, lên ngựa, giật cương, thúc ngựa phi hét ra lửa, xông vào phá giặc rụng hết lớp này sang lớp khác, đến nỗi gãy cả roi, phải quơ nhổ quật từng bụi tre mà quật lên đầu giặc. Thắng trận, đoạn thì anh hùng thiên thần cỡi ngựa bay lên trời...

Thiên Vương ấy rõ ràng cũng có quê có làng! Rành rành người ở xã Phù Đổng, tục gọi là là Gióng, tỉnh Bắc Ninh, bên kia sông Bồ Đề (16)

-----

(16) Sông Hồng.

... Sơn Tinh thì sao mà đẹp. Đẹp cả diện mạo, dáng vóc, thân hình. Có đẹp mới vừa lòng công chúa chứ! Nhưng sao mà giỏi? Giỏi thay "cứ năm năm báo oán, đời đời đánh ghen", Thủy Tinh đem thủy quái, thủy quân kéo lên, dâng nước để cướp lại công chúa, thì Sơn Tinh lại hóa phép đắp đất xây thành cao hơn và lại đánh bại Thủy Tinh... Cái lúc đứng trên cao, sánh vai Sơn Tinh, nhìn xuống thủy trận tan tành, trai anh hùng gái thuyền quyên mặt mày rạng rỡ, chắc Mỵ Nương còn thấy Sơn Tinh đẹp đến thế nào?

Bánh chưng gói thường và ăn ngày thường đã ngon. Bánh chưng vuông, luộc ngày ba mươi trên bếp đun bằng gộc tre và ăn trong ngày tết lại càng ngon. Tấm bánh chưa lột hết lần lá trong cùng ra đã thấy một làn xanh mà không một màu xanh nào mỡ mượt như thế. Khi đặt chiếc lạt tước nhỏ xắn bánh thành miếng nhấc ra, thì này, làn gạo như người thường gọi: Ngọc! Phải, hột gạo nếp đẹp như ngọc! Còn nhân đỗ thì mịn màng thơm ngon tuyệt vời, với miếng thịt nhừ tơi điểm mùi hồ tiêu. Tấm bánh của vợ chồng người con trai nghèo nhất của Hùng Vương đấy! Trong kháng chiến chống Mỹ, có mấy tên giặc lái máy bay bị bắt ở miền Bắc đã run rẩy cả người khi cầm ăn những miếng bánh cổ truyền này của ngày tết Việt Nam. Rồi chúng đã ngước mắt lên, bàng hoàng nhìn hồi lâu những người cho. Họ còn nói cho chúng biết câu chuyện về tấm bánh cùng với ý nghĩa tượng hình về vũ trụ cách đây hơn bốn nghìn năm trong sự sáng tạo và mở nguồn triết học của một dân tộc mà chúng đã điên cuồng liều lĩnh xâm phạm!...

Khi ngồi kể những chuyện ngày xưa và cả trong nhiều lúc vui buồn khác, các bà mẹ Việt Nam chúng ta vừa ăn trầu vừa chuyện. Câu chuyện đau thương của hai anh em và hai vợ chồng mà kẻ hóa thành đá vôi, kẻ thành cây cau, kẻ thành dây trầu ấy, đã gộp lại trong một khẩu trầu cầm tay mời nhau, cùng nhau ăn, rồi đôi hồi các nguồn cơn nông nỗi, thế sự nhân tình...

Tôi càng chờ đón tết Trung thu hơn với chiếc đèn kéo quân bày trước bàn cỗ ngoài thềm nhà trăng soi.

Trong cái khung phất giấy mỏng, diềm cài hoa lá bằng giấy trang kim, đứa trẻ tên là Đinh Bộ Lĩnh kia in hình trước ánh sáng tụm bấc dầu lạc, không cỡi trâu nữa mà cỡi rồng qua sông, trên bờ có người chú ruột đã đánh đuổi mình, quỳ vái theo mình. Lúc này tôi yêu Đinh Bộ Lĩnh còn hơn cả Na Tra, mặc dầu Na Tra chân đạp Phong hỏa luân và tay tung Càn khôn quyện, và đã có một thân thể hình hài kỳ diệu: từ xương thịt đến linh hồn đều bằng hoa và hương sen. Đinh Bộ Lĩnh của tôi nhà nghèo, không có cha. Tương truyền mẹ Đinh Bộ Lĩnh thụ thai với con rái cá. Con rái cá hay chính là một anh thợ lặn, một người nước như kiểu Yết Kiêu và Quận He Nguyễn Hữu Cầu? Đinh Bộ Lĩnh đầu cạo trọc, để mỗi chủm tóc, gọi là hồng mao, mình mẩy chân tay bùn đất cóc cáy, cỡi trâu mà làm tướng. Còn võ khí và cờ tiết là tay không, và bông lau; uy quyền là lòng gan dạ và sức thu phục. Từ đồng cỏ Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh được đám bạn mục đồng tôn lên làm chủ tướng, và qua các trận giao tranh với trẻ các xóm, các làng, Đinh Bộ Lĩnh nổi danh vô địch. Từ Hoa Lư xuất quân, trăm trận trăm thắng, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp tan các sứ quân, được tôn làm Vạn Thắng vương, thống nhất đất nước!...

Anh hùng xưa nhớ hồi niên thiếu,

dấy binh lấy lau làm cờ...

Trước Cách mạng Tháng Tám, năm tôi ở trại giam Hà Giang về quản thúc trong một xóm nghèo ngoại thành Hải Phòng, khi trông trăng nhớ lại chiếc đèn kéo quân, bàn cỗ thời thơ ấu, và chợt nghe tiếng hát của đám trẻ đói rách học lớp tối của hội Truyền bá quốc ngữ mở, tôi không khỏi nao nao trong dạ.

Chuyện vợ chồng An Tiêm và quả dưa hấu tuy chỉ vẻn vẹn mươi dòng, nhưng lại đưa trí tưởng tôi đi xa còn hơn cả khi đọc Lỗ Bình Sơn phiêu lưu ký (17)dịch đăng làm nhiều kỳ trong Đông Dương tạp chí.

-----

(17) Tức là cuốn Rô-bin-sơn Cơ-ru-xơ của Đa-ni-en Đê-phô.

Những hòn đảo, bãi biển, sóng gió và cảnh hoang vắng chỉ có hai con người, tôi đã tưởng tượng ra nó ở ngay cái góc gian gác chật hẹp kê giường của cha tôi, trông ra một sân thượng và vùng trời ngày đó tôi thường tha thẩn ngước nhìn lên và thấy thêm các núi non, chim chóc và các thú kỳ lạ... Quý báu thay lưỡi kiếm sắt của bà mẹ giấu cho, mang được trong người khi bị đi đày! Kỳ thú thay những hạt dưa chim nhả xuống bãi đảo! Tuyệt vời thay những quả dưa lòng cát, đỏ như son, mát hơn nước suối, thơm ngọt như ở vườn tiên! Vợ chồng con cái An Tiêm đã ăn dưa thay cơm, uống thay nước giữa những trưa nắng, trời lặng gió, biển như dầu sôi và cát rang bỏng cháy.

Tôi đã nguyện đi theo cùng vợ chồng An Tiêm, làm một đứa con trong những con của vợ chồng An Tiêm, sống với lưỡi kiếm sắt để đào củ, chặt cây, chém thú, bật lửa, làm thịt chim, cá và bổ dưa ăn. Để ban ngày thì được trông vời ra sóng nước mênh mông, ban đêm thì ngắm trời sao và nghe sâu nữa những tiếng ca ru vời gọi của vũ trụ, của sự sống, của bí ẩn, của chiến đấu và của kỳ diệu!

Ngàn Tây nổi áng phong trần

Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên

Hồng quần nhẹ bước chinh yên

Đuổi ngay Tô Định dẹp yên Biên thành

Đô Kỳ đóng cõi Mê Linh...

Tôi nhớ được cuộc khởi nghĩa và mở nước của Hai Bà Trưng cũng không bằng bài học sử ký của nhà trường dạy, mà nhờ bài học thuộc lòng từ năm lớp bét. Có lẽ đây là một áng thơ đẹp nhất, ngân vang nhất trong tuổi thơ của tôi. Tôi không nhớ rõ đã đọc chúng bao nhiêu lần ở trong lớp rồi đem bài về nhà học mất bao nhiêu phút, mà tôi đã thuộc làu làu cho đến ngày nay! Tôi có cảm giác tôi thuộc bài đó ngay sau khi thầy giáo viết lên bảng cho chúng tôi chép, và sau khi chúng tôi đọc theo nhịp thước kẻ của thầy gõ xuống bàn chỉ xong lần thứ nhất! Cũng không phải vì tôi thông minh hay có khiếu về văn thơ, mà là tất cả chúng tôi đều thuộc ngay.

Năm kháng chiến chống Pháp, tôi cũng viết lại đoạn sử này cho các con anh chị Tạ Phúc Bình, Kim Lân và con tôi học ở trên Yên Thế, nơi mấy gia đình chúng tôi tản cư, thì kỳ lạ, ngay hôm sau, các trẻ con hàng xóm cũng thuộc rồi. Cả những đứa không biết chữ.

... Bà Trưng quê ở Châu Phong

Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên

Chị em nặng một nhời nguyền...

Con chị cõng thằng em, thằng anh cõng gái bé, dì bé ôm cháu gái, cái cháu theo dì bé... đầu ngõ cuối xóm, ngoài đồi, gốc ổi, gốc cau, bờ suối, bụi sim... đâu có trẻ con chơi là có tiếng ngân nga như hát với nhau. Không kể những lúc đánh võng cho em, hay vừa bế xốc, vừa ôm em để ru chúng nó ngủ... Cả các trẻ đi trâu, đi cỏ, cũng thuộc, cũng đọc.

Tới năm kháng chiến chống Mỹ, tôi ở trường bồi dưỡng anh chị em viết văn trẻ thường thường đạp xe đi về qua đường Hồ Tây. Những buổi sáng sương mù, những buổi chiều sương khói, đoạn sử kia càng nổi lên với không biết bao nhiêu hình tượng và màu sắc. Trên mặt hồ và như cả trời mây đều có bóng cờ, giáp mã, đao kiếm, tiếng voi, ngựa, chiêng trống và quân reo. Cái cảm tưởng thời thơ ấu vừa man mác vừa bâng khuâng lại sống lại, càng thấy quý báu vô ngần.

... Phải, trong sử đã ghi rõ ràng Hai Bà đã nhảy xuống sông Hát Giang tự vẫn, còn Trần Bình Trọng thì đã bị quân Nguyên đem chém. Nhưng sao cả khi đọc xong những chữ in trên đây và mãi mãi sau này, mỗi lúc tưởng nhớ, tôi vẫn thấy cả Hai Bà Trưng và tướng Trần Bình Trọng tuy không còn nữa nhưng không phải là chết!

- "Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc!".

Trong cuốn Sử ký giáo khoa thư, Trần Bình Trọng đeo kiếm, hai tay bị trói chắp sau lưng, người cao lớn, đứng ngẩng mặt lên mà nói câu trên đây trước đám giặc. Tôi cứ phải mang hình ảnh đó cùng với Hai Bà Trưng cỡi voi, vung kiếm, phất cờ ở cả trước mặt và trong tâm trí tôi, không những y nguyên mà còn thấy nhấp nhô, rùng rùng chuyển động và như có thể biến hóa làm thành nhiều thế khác, nhiều việc khác, nhiều cảnh khác...

Trần Bình Trọng thì giựt tung dây trói, tuốt gươm chém chết cả bọn tướng giặc lẫn quân canh giữ, cướp ngựa, vượt khỏi mấy trùng vây, trở về với Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng thì quay voi lại, thu thập lại tướng sĩ, dồn thành một đội quyết tử dữ hơn cả sư tử, nhanh hơn cả báo, mạnh hơn cả thác và vững hơn cả núi, thúc vào giữa quân Mã Viện mà đánh phá tung hoành, và lấy lại các thành trì...

Sự diễn biến kỳ ảo này không phải chỉ ở Hai Bà Trưng và Trần Bình Trọng. Nó ở cả những anh hùng liệt sĩ khác mà tuổi thơ tôi được đọc hay nghe kể chuyện. Những Phan Đình Phùng, Đề Thám, Đội Cấn, v.v... Nếu như tôi cứ mãi mãi cái tuổi lên tám lên chín và mười một mười hai, thì tôi vẫn thấy các Người ở đâu đây trong rừng, trên núi, ngoài biển, hay ở các làng, các ấp, các bản, các trại, các xóm, được che giấu bảo vệ, đóng tiền, đóng gạo, mua sắm khí giới hoạt động cho đến ngày Cách mạng Tháng Tám thành công!...

Tôi không được học chữ Nho ở một lớp có ông đồ, thầy trò đều nằm bò trên giường mà nghêu ngao. Tôi không được biết cái mùi tanh tanh mặn mặn của mực Tàu và của mũi dãi ngoen ra mồm mép. Cũng như tôi không được biết những ngọn roi mây quất cùng cục lên đầu, lên lưng mà vẫn cứ trêu chòng cấu véo nhau ngay lúc thầy vừa hiêng hiếng đôi mắt kính cúi xuống đọc sách hay nhìn ra sân, gà đang ăn thóc phơi, hay ra ngõ, trẻ đang dỡ rào, hái trộm quả cây vườn nhà.

... Thiên: giời, địa: đất, cử: cất, tồn: còn, tử: con, tôn: cháu, lục: sáu, tam: ba, gia: nhà, quốc: nước, v.v...

Tôi học theo hứng. Sách học bằng giấy Tây, in chữ Quốc ngữ cả âm, cả nghĩa, kèm theo chữ Nho. Hình như có một lúc thì thuộc hết cả... chữ của thánh hiền trên kia... Tôi thuộc miệng, thuộc vì còn được nghe những đứa khác đọc. Sau đây, dù lên được lớp nhì, học thành một buổi ba giờ vào sáng thứ năm hẳn hoi, và được một cụ đồ đỗ tú tài dạy thành bài và chấm bài, nhưng tôi vẫn không nhớ được mấy mặt chữ. Tuy có bài, có đoạn tôi còn thuộc đến ngày nay:

Khổng Tử viết: tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản (Thánh Khổng dạy rằng: từ thiên tử đến người thường đều phải lấy sự tu thân làm gốc).

Nhưng tên các hiệu bánh kẹo, cao lâu, chè tàu, xe đạp và rạp hát tuồng, rạp chiếu bóng, thì tôi lại rất nhớ. Thí dụ như rạp chiếu bóng Đại Quang, hiệu bánh khảo, kẹo lạc Trung Nguyên, hay hiệu cho thuê xe đạp Phi Mã, hiệu phở xào Văn Nhân, v.v...

Mặc dầu cung cách học tập và vốn liếng chữ Nho của tôi là như vậy, tôi vẫn nao nao tâm trí mà ngâm nga bốn câu thơ của Lý Thường Kiệt:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (18).

-----

(18) Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận ở sách trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Bay sẽ tan tành chết sạch thôi!

Tôi đã khoe với các bạn, tôi lỗ mỗ ngâm và ca tụng thêm những câu thơ nọ truyền rằng của thần đã đọc cho vị nguyên soái nghe trong giấc ngủ bên sông, và khi nguyên soái ngâm lại trước ba quân, thì tất cả chiến sĩ thảy đều nức lòng chiến đấu.

Rồi tôi đi tìm Lý Thường Kiệt.

Tôi phải đi tìm Lý Thường Kiệt để biết nhiều hơn nữa, thật kỳ lạ nữa.

Tôi đi tìm Lý Thường Kiệt trong tiểu thuyết. Tôi không nhớ đúng là năm 1928 hay 1929 truyện Châu chấu đá xe xuất bản. Nhưng có một số chi tiết thành ấn tượng sâu sắc trong tôi. Tiểu thuyết ra từng tập mỏng bán có ba xu. Không bìa. Trang nhất in hình một con châu chấu, càng rất to, đá hất một cỗ xe trận, dưới có hai câu thơ:

Nực cười châu chấu đá xe

Tưởng rằng chấu ngã ai ngờ xe nghiêng.

Hình như không có tên tác giả. Còn nhà xuất bản thì tôi thật quên hẳn.

Hiệu sách là một cửa hàng bán giấy bút, nhưng cả mấy tủ kính tủ đứng cũng như quầy bàn đều lèo tèo, không những đã ít hàng bán lại còn cũ kỹ bụi bặm nữa. Hiệu mở ở đầu đường hẳn hoi, ngay trước trường Thành chung bề thế nhất thành phố. Không có hai cô duyên dáng, lịch sự, chữ nghĩa, trông như hai cô giáo, nói chuyện, tiếp khách cũng bằng tiếng Pháp như hiệu H.K.; cũng không có một cô và bà bán hàng xuềnh xoàng và thường bán giá hạ hơn các nơi như hiệu T.N. cùng phố. Ở hiệu này tôi thường thấy một người đàn ông gầy yếu, có vẻ nho nhã, vừa ngồi đọc sách vừa bán hàng. Còn khách thì gần như chỉ có mấy đứa bé mê tiểu thuyết như loại chúng tôi và mấy người học trò lớn trường Thành chung, gọi là trường Ca-rô (Carreau) và trường Trong, gọi là trường Giuyn-lơ Phe-ri (Jules Ferry).

Không biết tôi đã được nghe đồn từ đâu hay nghe ai nói mà tôi phải đi tìm mua ngay truyện đó. "... Truyện hay lắm! Sách vừa ra đã bán hết ngay! Sách hình như cũng bị Sở mật thám chú ý rồi đấy! Sách này mà không bị cấm thì còn là chạy!...".

Tôi chỉ mượn đọc được hai số. Cuối cùng, thấy hàng chỉ có mình bà chủ ngồi, vẻ đăm chiêu, còn tờ quảng cáo Châu chấu đá xe in to, dán ở cái bảng treo ngoài cửa thì bị lột đi từ bao giờ rồi.

Hình như hai số tôi đọc là hai số bị cách quãng đến bốn, năm số. Hình tượng Lý Thường Kiệt mà tôi đi tìm thế là vẫn mơ mơ hồ hồ, chung chung như những hình tượng các anh hùng hào kiệt nổi tiếng, cỡi ngựa đeo kiếm, ngồi uy nghi dưới lá cờ súy phấp phới trước ba quân, hay đang ruổi ngựa bụi mù đi chiến đấu. Còn đoạn cô bán rượu được tả rất xinh, rất đẹp gánh hàng đi bán và rao bằng những câu thơ khích động lòng yêu nước, cứ làm tôi phải tự hỏi có thật như thế và có người như thế không? Tôi thấy khác hẳn những trang tôi được học trong tập Sử ký địa dư giáo khoa thư hay trong cuốn quảng cáo của nhà thuốc ông Phật mập. Cũng như trong một số sách khác, không hiểu tại sao lại không có tích, có việc, có người như thế?

Tôi đã được biết về cuộc chống xâm lăng và chiến thắng toàn bộ quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền qua truyện Tiếng sấm đêm đông, và cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng qua truyện Vua Bố Cái xuất bản cũng khoảng 1928-1929 ấy.

Sau khi được biết tin chính thức đã có lệnh cấm và khám bắt Châu chấu đá xe, tôi lại càng cố ý đi qua cái cửa hàng sách đã phải đóng cửa nọ. Tuy từ nhà tôi đến trường, qua đường này vừa xa, vừa vắng, vừa lạ, nhưng tôi cứ đi một mình trong những buổi chiều rất lạnh.

Nghe bà nội tôi kể chuyện và tả cảnh, thì khu trường Thành chung với ngã tư này ngày xưa là khúc sông Vị Hoàng chảy trước cửa Đông của thành Nam Định. Đây, trên bến dưới thuyền còn đông vui hơn cả bến tàu thủy. Đủ cả các ghe mành xứ Thanh, xứ Nghệ, và cả xứ Quảng xa xôi nữa. Họ chở nước mắm, dừa, đường, lụa Đàng trong, đỗ san sát từ gần cửa chợ sông Vị Hoàng, qua phía sau phố Hàng Nâu, Hàng Song, đến cái chợ gọi là chợ Bến Đò Chè, trước mặt phố Bến Gỗ. Dân Nam Định có câu nói cửa miệng "Bao giờ sông Vị Hoàng hết nước thì làng Vị Xuyên mới hết trạng nguyên và khoa bảng". Bà tôi đã thẫn thờ nói với tôi: "Tây nó hiểm lắm, nó cho lấp con sông Vị thì long mạch tỉnh Nam bị cắt, làm sao còn phát được nữa?!".

Bà tôi còn thì thầm, ông Cử gì cháu đích tôn một cụ đốc học bị cuồng chữ, Tây đánh thành xong liền cho ngay người gọi ông ra làm quan nhưng ông nhất định không nghe! Mỗi lần lên cơn lại đi lững thững chỉ cười một mình ở bến tàu thủy... Và mỗi lần thấy tàu của Tây đi qua là ông quay lưng lại, lấy quạt che mặt mà khóc hu hu...

Cũng chính trên quãng sông Vị đây, tàu chiến Pháp đã kéo cờ chạy từ ngoài sông đào vào, một mặt đổ quân lên bờ, một mặt bắn súng đại bác vào thành. Cùng lúc đó, quan Pháp và những tay súng giỏi nhất còn lên cả nóc chuông nhà thờ, chiếu ống nhòm xem xét binh tình trong thành và bắn tỉa quân ta.

Bởi vậy tôi càng bâng khuâng trước hiệu sách cửa đóng lạnh ngắt mà tiếc tập truyện không được ra tiếp để đọc thêm những trận đánh chắc chắn sẽ diễn ra còn phải kỳ lạ hơn, với những đoạn văn ái quốc, cũng sẽ còn lâm ly, hùng tráng hơn, về chiến thắng lẫy lừng của vị danh tướng Lý Thường Kiệt kia.

Sau đây đọc Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, tôi còn biết rõ rằng, nơi Lý Thường Kiệt nằm mộng được nghe thần đọc thơ là ở đền thờ Trương Thống, Trương Hát. Còn nơi Lý Thường Kiệt ngâm thơ trước toàn quân là bờ sông Như Nguyệt, ngày nay là sông Cầu. Cách đấy vài cây số phía trên là đền thờ Trương Hống, Trương Hát, phía dưới là làng Thổ Hà vừa chuyên làm đồ gốm vừa chuyên nấu rượu. Rượu Thổ Hà ngon có tiếng và đã thành thơ. Không biết cô hàng rượu xinh đẹp xưa gánh rượu đi bán và hát những câu hát để khích động lòng yêu nước của mọi người tả trong Châu chấu đá xe có phải là gái Thổ Hà không?

Rồi tôi được đọc Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, tôi lại được biết thêm người anh hùng mười sáu tuổi, kéo lá cờ thêu sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân", một trai tráng và đem quân bản bộ cùng toàn dân đi đánh giặc nước thời nhà Trần, là Trần Quốc Toản ấy, đã truy kích quân Nguyên đến đây rồi bị tử thương.

Sông Cầu nước chảy lơ thơ

Đôi ta thương nhớ bao giờ cho nguôi...

Ai thương nhớ ai đây? Những đôi trai gái quê hương Quan họ chèo đò trên sông hay cuốc bãi, hái dâu, tra ngô, xới đỗ bên sông, khi cầm tay nhau hát, làm sao mà lại không thấy vẫn còn trên sóng nước Như Nguyệt những ngân vang của bài thơ xưa và tiếng quân ta hò reo?

Tiếng sấm đêm đông, chuyện Ngô Quyền đánh quân Nam Hán viết thành tiểu thuyết cùng với Vua Bố Cái chuyện khởi nghĩa của Phùng Hưng, cùng xuất bản thời kỳ này, tôi phải mua ngay vì nghe nói sách ấy rồi cũng đến bị cấm. Chúng tôi đã truyền tay nhau đọc rất nhanh và đã chọn những bạn thật tốt, thật thân mới cho mượn và để giữ sách. Tôi không nhớ người cuối cùng trong bọn tôi được cái vinh dự và lòng tin cậy đặc biệt của anh em và được anh em giao sách là ai. Tôi cũng không nhớ chúng tôi còn giấu giếm và đọc thêm bao lần nữa, sau khi thấy nói chính thức có nghị định cấm và sách bị thu, bị bắt. Cố nhiên không đời nào tự tay chúng tôi đốt hay xé đi, mà hình như một nhà nào đó vẫn cứ giữ sách... Vì thế những khi muốn tỏ ra mình can trường và quan trọng, chúng tôi vẫn kín kín hở hở với một số bạn rằng sách vẫn còn. Hay kiêu hãnh kể lại một vài đoạn văn mình thuộc, bảo sẽ còn nhiều đoạn ghê hơn nữa, và lại kín kín hở hở cho biết chỗ giấu sách cũng như người giấu sách ấy rất là bí mật!

Cuốn sách viết về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên tôi được đọc thì không viết thành tiểu thuyết, và tôi cũng không nhớ tên. Hình như vào loại nghiên cứu nhưng lại viết một cách văn hoa, do đó tôi càng say mê thêm với các tướng như Dã Tượng, Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão. Còn Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ Ngọc, Thoát Hoan đối với tôi thành những tướng giặc man rợ, mỗi kẻ một mặt mày hình tượng đặc biệt gớm ghiếc mà tôi tưởng tượng lấy. Tuy không được vào chương trình giáo khoa, nhưng bài Hịch tướng sĩ cũng in sâu vào trí nhớ tôi và tôi cứ phải ngâm nga:

Mẹo bạc gian khó đạc mưu quân

Vợ con thêm bận vướng chân

Ruộng vườn khôn chuộc tấm thân ngàn vàng

Đầu giặc dễ có vàng mua được

Sức chó săn đuổi chước giặc sao

Rượu ngon giặc chẳng lao đao

Hát hay giặc chẳng hơi nào điếc tai...

Chao ôi! Liêm sỉ của một người dân sống lúc non sông Tổ quốc đang ở trong cảnh nước sôi lửa bỏng.

Bên cạnh Uất Trì Kính Đức, một sự tích xưa nữa được Trần Hưng Đạo gợi thêm để binh tướng suy nghĩ:

... Nuốt than Dự Nhượng đền bù nước non...

Nghĩa sĩ Dự Nhượng trong Đông chu liệt quốc đã tự hoại một phần thân thể để biến hình thành tàn phế mà ra đi làm kẻ ăn mày báo thù cho chúa, khiến vợ qua mặt mà cũng không biết đấy là chồng mình. Nhưng có một người quen, đi đường nghe tiếng Dự Nhượng kêu van thì nhận ra ngay, bèn lừa lúc vắng gọi Dự Nhượng bảo cho hay điều đó. Dự Nhượng liền nuốt than cháy bỏng cho giọng mình thay hẳn. Cuối cùng, Dự Nhượng đã vào được đất kẻ thù và trả được thù...

1929-1930, tôi vào học trường Trong ở một khu thành trì còn lại. Lớp tôi cũng như lớp nhì, lớp nhất khác, được ở trên mặt thành cao, từ dưới đất lên có đến hơn hai mươi bậc gạch. Ngay trước hàng hiên cửa lớp, có những cây bàng, sấu, cơm nguội, xoan tây rất to và những bụi duối, găng, ô rô. Hàng hiên phía sau chạy dài hơn mười lớp, trông ra một dải đầm sen và những ruộng lúa. Đầm này ngày trước là hào, nay vẫn còn nhiều chỗ nước ngập đầu. Dãy lớp cuối cùng ở mặt thành trông ra xa về phía đồng quê mấy huyện Vụ Bản, Ý Yên, và dãy núi Ninh Bình.

Những trưa nắng, đến trường sớm, chúng tôi thường rủ nhau chúi vào những bụi duối, những hốc cây đọc truyện. Riêng tôi, hay đi sớm hơn cả, tôi thường tìm những chỗ rậm rạp, gai góc và hẻo lánh, kiếm lá cây trải ổ mà nằm thơ thẩn. Nếu không ở những chỗ này thì tôi lên bờ thành, ngồi trên tường lan can mà nhìn về phía xa có chân mây và núi mờ xanh. Càng gần cuối năm lạnh giá, mặc dù không một học trò nào dám ra chỗ hiên sau hút gió ghê gớm, tôi vẫn cứ ngồi. Tôi thấy da thịt càng tê cóng thì sự tưởng tượng càng thắm thiết và trí nghĩ càng man mác.

Những Phù Đổng Thiên vương, An Tiêm, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Đinh Bộ Lĩnh, Trần Quốc Toản, Dã Tượng, Yết Kiêu, Lê Lợi, Lê Lai, Quang Trung Nguyễn Huệ... và bao nhiêu cảnh non sông càng thăm thẳm, vời vợi và ngời ngời kỳ diệu với bốn tiếng Tổ quốc và Việt Nam.

Ôi! Tổ quốc Việt Nam trong sử sách đã nhập hồn vào tuổi thơ tôi.