CHƯƠNG III
NHỮNG TIẾNG HÁT VÀ NHỮNG ĐÀO KÉP ĐẦU ĐƯỜNG
Rạp hát ấy ở phố Hàng Thao, ngay cạnh phố tôi. Nhiều đêm, tiếng trống, tiếng thanh la, tiếng hát, tiếng thét vẳng đến cứ rõ mồn một. Nhà tôi bán hàng cơm và chứa trọ. Thỉnh thoảng lại có khách cho tôi đi xem cùng. Khách đàn bà cũng có. Vì tôi thuộc nhiều tích, ngồi bên tôi, được tôi kể trước cho nghe, tán rộng thêm, các khách đó rất chiều tôi. Tôi có thể ngồi ghép nhưng cũng lấy cả vé, và tha hồ ăn quà!
Phố Hàng Thao này lại còn nhiều nhà hát cô đầu, mỗi nhà lại mở cửa hàng bánh hay tạp hóa, thợ may ở gian ngoài. Phần nhiều là hàng bánh, chuyên bán những thứ cho khách đi hát như bích quy, xu xê, bánh cốm, mứt, chè và rượu Tây. Phố còn có ba bốn hàng phở và hai hàng ăn dọn cả cơm tây, mùa bức bán kem, nước chanh, nước đá. Nếu không xem hát thì tôi cũng thích đến đây với các đám xẩm thường hát ở ngay ngã tư, chỗ các người kéo xe và hàng nước, hàng quà bánh tụ tập đông nhất với đủ các hạng người, hàng quà bánh tụ tập đông nhất với đủ các hạng người, từ lính khố xanh, khố đỏ, bồi bếp, cu ly, phu mỏ đến các người làm ăn nhỏ nhặt và thất nghiệp, đói rách lang thang.
Mặc dầu quần áo, mũ mãng rất đẹp, rất quý, diễn với các phông cảnh hết sức rực rỡ, choáng lộng và sắm những vai nổi tiếng trong các pho tuồng, pho truyện đặc sắc, được cổ động cũng rất rầm rộ, nhưng các đào kép ấy vẫn không làm tôi nhớ được tên và hình ảnh chính của họ... Tất cả những Quan Công, Lã Bố, Triệu Tử Long, Điêu Thuyền, Phàn Lê Hoa, Bàng Quý Phi, Ô Hắc Lợi, vân vân, chỉ còn được giữ lại trong trí tưởng tượng tôi vài ba nét chung chung mờ nhạt. Cũng như các màn, các lớp, các phòng sắp xếp rất công phu của những tối có các vai thi nhau sắm và quảng cáo rất ghê bầu gánh của mình, sau này đều bị tôi quên gần hết!
Nhưng, mấy người xẩm mù, mấy đám hát rong và mấy đào chèo đầu đường ấy, tôi lại nhớ rất kỹ. Thứ nhất là ông xẩm Mạc-xây-e hay còn gọi là ông xẩm Đèn Châu Đốc. Giữa mùa hè, những tối nóng oi nhất, cũng như giữa những đêm mùa đông giá buốt nhất, người xẩm mù này vẫn mặc áo vải vàng. Cái áo cũ lính Tây cổ đứng, cúc đồng to, nổi hình mỏ neo, cài kín quá bụng, bốn túi có nắp, cũng cúc đồng. Quần thì quần ta, vải nâu bạc phếch. Chân đi giày da bò cao cổ, khâu vá chằng chịt mà vẫn há mõm. Đầu đội nón sơn. Cái nón còn dùng để làm chậu ngả ra đón tiền của khách cho, khách thưởng. Cũng chống gậy. Nhưng là thứ ba toong bằng song mật hẳn hoi, chỗ tay cầm cong cong, đầu bịt đồng vỏ đạn.
Ông ít hát ở ngã tư hay máy nước. Thường thường tôi gặp ông ở mấy hàng cao lâu, hàng phở, ở trước mấy ôten (19)nhỏ hay hàng kem, bia. Cũng có khi ông hát ở hàng nước đầu ghế ngoài bến tàu thủy và xuống cả dưới tàu. Đi vào mấy hàng cao lâu gần phố tôi, ông chẳng cần ai dắt hay quờ quạng gậy. Ông lần bước qua thềm, qua bực cửa chính, qua cửa buồng rồi đến đúng ngay bàn, chỗ có người lính Tây hay lính ta đang ngồi, mặc dầu trong hàng rất đông, ăn uống ồn ồn, đi lại tấp nập. Mi mắt ông chớp chớp, mũi ông khịt khịt nháy nháy mấy cái. Ông dộng thẳng ba toong xuống đất, tay chống khuỳnh khuỳnh ra như điệu ông tướng già hay quan nhà binh nào đó trên màn ảnh, sau khi ông ngả nón, nghiêng mình, dõng dạc chào bằng thứ tiếng Tây bồi ngày đó:
- Bông-xua me-xừ xéc-dăng (kính chào ngài đội)
- Bông-xua me-xừ ca-pô-ran (kính chào ngài cai)
- Bông-xua me-xừ... vân vân.
-----
(19) Khách sạn cửa hàng ăn.
Cũng không biết vì quen bàn, vì quen khách hay có một thứ giác quan và năng khiếu nhận xét gì đặc biệt, mà những người ông chào họ thường đúng là đội, là cai, hay là lính thường.
Rồi ông cất tiếng:
- À-lồng dằng-phăng đơ la pa-tơ-rí...
Lờ dua đớ gơ-lòa e ta-rì-vê... (20)
-----
(20) Allons enfants de la Patrie... le jour de gloire est arrivé. (Tiến lên hỡi các con của Tổ quốc... ngày quang vinh đã tới rồi...).
Hai câu đầu này trong bài quốc ca của Pháp hát bằng một giọng già yếu đã khàn khàn. Nhưng vẫn có một rung vang đặc biệt, và thường làm cả phòng ăn ngạc nhiên. Cũng có khi xong bài này rồi ông sang một bài hát khác, nhưng thường ông chưa dứt mấy câu đầu thì những đội Tây, cai Tây, lính Tây kia hoặc cho ngay tiền ông, hoặc khật khưỡng đứng ngay dậy, lắc lắc vai ông, lắc lắc tay chống ba toong của ông, bảo ông cho nghe bài hát mà là bài của ta, điệu bình bán hay hành vân gì đó, đoạn mới cho ông tiền.
Nhiều lần tôi thấy những người lính nọ, hoặc đang phừng phừng hơi men, hoặc đã say mèm, hoặc đã ăn xong, họ dúi cho ông cả khúc bánh tây và những miếng thịt bò, thịt gà ăn dở. Nhưng ông liền chắp một cánh lại để ngay trước ngực, khẽ cúi đầu nói: "Mét-xì... bố cu mét-xì me xừ" (21), rồi trả lại bàn, không lấy. Rồi cả khi bọn khách kéo nhau ra đi, người bồi bàn lấy giấy gói bánh, gói thịt lại đưa vào tận tay hay dúi vào túi ông, thì ông liền ẩy ẩy tay lại, lắc lắc đầu: "Xin cảm ơn! Xin cảm ơn!".
-----
(21) Cảm ơn… rất cảm ơn các ngài.
Bia hay rượu cho ông thì ông nhận, nhưng phải là bia là rượu mới rót hay rót bằng cốc khác, ly khác. Ông đón lấy cái cốc, cái ly nọ, cánh tay cầm giữ rung rung cho tới khi hát xong bài thì giơ lên, nghiêng mình mời lại và uống một hơi cạn.
Với các bọn lính ta hay người ta, thì ông xẩm lại bắt đầu bằng một bài cũng rất lạ, tôi không nghe thấy ai hát cả:
- Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc, đất nào dốc bằng đất Nam Giang, em tiễn đưa chàng hai hàng châu lệ...
Ông hát giọng... Sài Gòn (tôi đoán thế và tưởng thế, nhiều người cũng cho là như thế), gân cổ, gân mặt và gân tay, rồi sắc mặt, trán, thái dương và cả người ông rung rung, run rẩy như phải cố gắng quá sức.
Ông xẩm Mạc-xây-e hay ông xẩm đèn Châu Đốc kia chỉ đi một mình. Ông có vợ, có con hay không? Ông ở với ai và ở đâu? Sao ông lại mù? Ông mù từ năm nào? Cái áo vàng ông mặc là áo cũ của ông hay của ai cho? Nghe nói ông đã đi lính sang Tây, vậy ông là lính gì? Có đi trận đánh nhau với Đức hay với quân nào không?
Tôi còn nhớ rõ vì tôi đã rất chú ý đến mái đầu của ông, trán ông hói, đỉnh đầu nhẵn bóng, tóc lơ thơ bạc. Gò má ông cao, hốc mắt sâu trũng như liền da lại. Có lần ông hát bài Đèn Châu Đốc xong, ông xòe tay vuốt từ trán xuống mắt, rồi nấc nấc, thì tôi thấy hình như ông khóc, và khi ông vuốt qua hố mắt thì như có nước mắt giàn theo chứ không phải là mồ hôi vã!
- Đất nào dốc bằng đất Nam Giang
Em tiễn đưa chàng hai hàng châu lệ...
Ông xẩm già mù đã đi lính sang Tây kia ơi! Ông có đi qua Sài Gòn hay có ở Sài Gòn không? Ông đã nghe ai xưa hát, và ai xưa đã dạy ông bài hát đó vậy?
... Đầu phố tôi mở ra liền với hai ngã tư, từ đây vừa lên thẳng chợ chính vừa xuống thẳng bến tàu chính của thành phố. Từ năm có điện và nước máy, đêm đến lại càng đông người tụ tập. Những bàn quay số lấy kẹo bánh và lấy cả mâm đồng, chậu thau và đồng hồ. Những xe phở đóng theo kiểu Tàu Bắc Kinh, làm cả phở xào, phở áp chảo và bán bánh ngọt như một hiệu cao lâu. Những hàng nước dọn đầy chõng hoa quả, kẹo vừng, kẹo lạc và có cả tủ kính bày các thứ thuốc lá và dán ảnh chè, ảnh thuốc lá. Những gánh nước đá bào, thạch, chè sen có không biết bao nhiêu lọ, liễn đựng sẵn nước đường pha xanh đỏ thả các thứ hoa ngọc lan, hoa nhài, và cắm các thứ chong chóng, chim bướm bằng giấy bóng màu. Và những đám xẩm... xẩm xoan, hát chèo...
Có vài bọn chèo to gần như gánh chèo quê đi các làng các huyện. Không có hòm đồ, gánh gồng lếch thếch, mỗi người chỉ xách hay quảy mấy cái khăn gói, nhưng cũng đủ cả kép già, kép trẻ, đào già, đào trẻ. Khách xem thích thú muốn bảo diễn tích gì họ cũng chuyển theo được ngay. Bởi vậy, nhiều tối, khu ngã tư đông nghịt, người xem leo cả lên các xe bò, các cột đèn, đứng ra gần chật lòng đường.
Không phải chỉ có những người làm ăn nghèo hèn, lính tráng và phu phen xem, mà cả những ông chủ bà chủ và con cái nhà có bờ hè, có hàng hiên gần đấy cũng bắc ghế ra gần cửa, ra lan can gác mà thưởng thức... Hay nói nôm na là xem không...
Phần đông họ ở Hưng Yên, ở Thái Bình sang, hay ở Bắc Ninh, Hà Nam xuống. Tôi không thể so sánh được họ với những gánh tuồng, chèo, cải lương có tiếng và chuyên diễn rạp, hơn kém nhau thế nào. Tôi chỉ được nghe nói, nghe đồn rằng họ phải là những đào kép lão luyện lắm mới dám đi hát rong tứ phương thiên hạ như thế. Tôi chỉ còn nhớ, giữa ngã tư ồn ào xe cộ và trẻ con người lớn chen chúc nhau, nhưng tiếng hát, giọng hát vẫn trong ngần, vang lảnh và rõ từng cung bậc. Cả mấy ông kép già, mấy cô đào già, quần nâu áo vá, mặt mày đầu tóc chẳng phấn sáp, khăn mũ gì cả, nhưng điệu bộ vẫn duyên dáng, nhịp nhàng, khiến tôi cứ tưởng như họ đang ở trong các sự tích đã vẽ thành tranh hay in thành bản chèo, thành sách, thành truyện. Họ vừa cất tiếng hát hòa theo tiếng nhị, tiếng phách, tiếng trống là làm người nghe phải nhập đồng ngay.
Bọn xẩm vịn vai nhau đi hàng ba người. Hoặc hai đàn ông, một đàn bà; hoặc một đàn ông, một đàn bà và đứa bé. Thường thường là hai vợ chồng mù không con, hay đi với một đứa con. Có một ông già và một đứa bé con gái thường hát ở đầu phố tôi cũng rất đông khách. Riêng tôi, tôi rất thích ông xẩm và con bé xẩm này.
Ông già đặc nhà quê, đầu vừa cạo trọc vừa hói bóng như của một pho tượng La Hán trên chùa. Áo vải nâu da bò, cúc tết cài một bên may rộng. Quần sồi mộc, may lá tọa, vàng xỉn, vá đũng, đáp cả hai đầu gối, nhưng trông rất sạch. Có lẽ vì người ông gầy xương và gương mặt vẫn sáng vẫn tinh, nên ông có vẻ nhẹ nhàng thanh thản, phong độ một cụ kép tài hoa hơn là một ông xẩm mù lang thang vơ vất.
Cái bé gọi ông là ông, nhưng tôi thấy tuy không ra vẻ là ông cháu ruột, mà lại có một tình thân thương đặc biệt. Nó chũm mũm như một củ khoai bột, và, chắc được "ông" chăm chút, nên quần nâu áo nâu cũng rách vá, nhưng gọn ghẽ sạch sẽ như ông vậy. Tóc nó để cun cút, có hai trái đào, khi đóng trò thì quấn một vành khăn lụa màu cánh sen, bên cạnh ông già bịt chiếc khăn màu tam giang, vắt thêm một miếng lụa bạch trên vai...
Ông già chỉ hát một vài câu hát xẩm, sau thấy đông khách, hỏi khách thích tích gì thì chuyển sang tích ấy với các màn trò sở trường của mình. Ông chuyên sắm vai hề. Còn con bé chuyên sắm vai học trò hay nữ đẹp. Từ chủ quán, hề đồng đến phù thủy, thầy cúng, lính lệ, phó lý, tuần phiên, mẹ mõ..., ông già sắm vai nào cũng cứ như mới ngoài hai mươi tuổi tinh anh, sắc sảo, ý nhị, linh hoạt và vững vàng vô cùng. Đám đông cứ phải cười rộ lên, cười sặc sụa, cười như thét, cười quặn bụng, cười giàn nước mắt, cười ngất, đấm nhau mà cười, ôm nhau, cắn nhau mà cười, cười đến khản cổ, đến lả cả người... Rồi lại khoác vai nhau, bá vai bá cổ nhau, lại mời trầu, lại kiễng chân, lại nghển cổ, lại hơn hớn mà nhìn mà nghe và lại cười nữa... cười nữa.
Trong khi ấy, ông già xẩm mù đầu trọc chít khăn nhiễu tam giang, quần bỏ lá tọa, phe phẩy cái quạt, nan to như những chiếc đũa cả, tay thước dắt bên hông, mặt mày cứ tỉnh như không, và chẳng còn một vẻ một dáng gì lão già gầy yếu hết! Nhưng mồ hôi ông đã ướt đẫm cả ngực áo, cả lưng áo, và trán cứ như có bụi mưa chảy đọng...
- Thế này mà ông lão không đi diễn rạp thì lạ thật!
- Không biết ông lão đã đi hát cho những gánh nào rồi vậy?
- Hề diễn như ông lão thì đúng là "cụp"! Các hề thiên hạ chỉ có đi bưng chiếu, cắp chiếu theo ông lão.
Nhiều người lặng hẳn đi, không cười, mãi sau mới gật gù nói với người đứng bên những câu trên đây.
Cả cái bé cũng cười. Nhưng nó chỉ mủm mỉm, xòe cái quạt Hới che miệng, đôi má bầu bầu ửng lên, cặp mắt lúng liếng sáng thêm. Rồi nó rất bình tĩnh nhập ngay vào Châu Long, Thị Kính, mẹ Trương Viên, Cúc Hoa, v.v... với những điệu hát chưa được thuần thục lắm, nhiều chữ nói còn ngọng, nhiều làn nhiều cung còn ngượng, rõ là trẻ con đóng. Người xem nào cũng vui thích, thưởng cho luôn, tiền cứ ném xoang xoảng xuống cái chậu thau xinh xắn như chậu thau của các bà hầu đồng dùng để rửa mặt bằng rượu hỏa thang hay nước hoa.
Ông già xẩm này không có tên và cũng không ai biết ông cháu ở đâu và từ đâu đến. Nhưng điều người ta biết chắc là hai người không phải ruột thịt, là họ hàng. Kẻ thì đoán cái bé là con hay cháu một người kép bạn. Kẻ thì bảo ông cụ xin được của một người ăn mày, một mụ chửa hoang nào đó, nuôi dạy cho ngay từ ngày tập ăn tập nói.
... Bẵng đi khá lâu, tôi bỗng thấy một đứa con gái giống hệt cái bé cháu ông già chuyên sắm các vai hề nọ, dắt một ông già khác cũng mù nhưng chỉ hoàn toàn hát xẩm. Không chính nó mà! Nó chít khăn sô, có ai hỏi thì bảo để tang ông trước. Ông trước mất đã được một giỗ. Ông bị cảm nặng chết ở ngay giữa một đám xem cũng đông nghìn nghịt. Cái bé đi xin tiền làm ma cho ông trước. Rồi nó phải vào hát cho một chủ rạp ngoài Hải Phòng. Nhưng chỉ được mấy tháng thì nó bỏ trốn, lại về Nam Định, và xin đi theo ông xẩm mới.
... Tôi có cảm tưởng những buổi tối mùa hè năm ấy nóng bức oi ả hơn ngày nay rất nhiều nhưng với tôi thì chẳng mùi vần gì cả. Trời càng tắt gió, sao mọc càng dày, bụi đường và không khí càng lầm càng đặc, thì đường phố chỉ càng đông vui hơn. Và thích nhất là nằm trải chiếu ngoài hè mà trông lên dải Ngân hà, tìm ông Thần Nông và con vịt rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết, sau khi đi nghe xẩm, xem chèo về khát uống hàng gáo nước mưa hay nước máy.
Đi nghe, đi xem, ngồi chồm hỗm dưới đất ở vòng trong cùng, phải chen chúc mãi mới vào được, nhiều lúc tay quạt và ống quần của người múa hát lướt ngay trên đầu và qua mặt mình... Đi nghe, đi xem mà ngước mặt lên nhìn rõ cả lằn gân cổ và nét mặt người hát, nhìn rõ cả hàng mi người hát lim dim và cặp môi hé hé... Đi nghe, đi xem mà thấy cả mùi trầu quế với các làn điệu thật từ miệng người hát phả ra... Đi xem mà trong lòng cũng reo lên đón từ những đồng trinh, đồng xu đến những đồng kền ném vào chậu thau mà người gõ trống phách cứ gõ trống phách, đang hát đang ca cứ hát cứ ca, một tay vẫn nhặt vẫn đếm... Đi xem, đi nghe, đôi lúc trí tưởng như vút lên để đón những cái gì như hoa thơm, như ánh sáng, như gió mát, như thần tiên... Đi xem, đi nghe mà bên tai thỉnh thoảng vẫn thấy ùm ùm tiếng còi tàu trên sông nước ở sau lưng mình và đâu đây hương hoa đêm sực nức... Ôi, kỳ khoái!...
Rồi về ngủ thiếp trên những cánh cò, những hương lúa, những tiếng trống; bên cạnh mình vẫn y nguyên những Thạch Sanh, Cúc Hoa, Thị Kính, Lục Vân Tiên và những hề đồng, những chủ quán, những cô đào chẳng son phấn gì mà thật mỏng mày hay hạt, những đứa bé rách rưới và còm cõi cũng bé dại như mình mà đã biết múa biết hát, và phải múa phải hát để có cơm mà ăn, tự nuôi mình sống...
... Nhà bác họ tôi lại phải tìm người làm mới. Một nhà hơn hai mươi người, bà cháu, bố mẹ, vợ chồng, anh em, con cháu... chẳng ai muốn, chẳng ai chịu cất nhắc chân tay dù chỉ là thổi lấy miếng cơm mà ăn, thì không có người hầu hạ sai bảo sao được? Những con sen, thằng nhỏ trước chẳng ai đậu được lâu ở nhà này cả. Bởi vậy, khi thấy người mới đến này, tôi rất ngạc nhiên, và chẳng phải việc của tôi, tôi cũng cứ nghĩ vơ nghĩ vẩn.
Con sen này cũng là người nhà quê, nhưng gọn ghẽ, xinh xắn, trắng trẻo. Không biết vì gia đình gặp vận hạn, bố mẹ túng thiếu, hay vì nhân duyên trắc trở ra sao mà phải đem thân ra tỉnh làm con sen cái nhài như vậy? Và không hiểu do ai mách mối, hay tính toán lợi lộc thế nào lại vào chốn này mà làm mà ăn?
Phải, nhà bác họ tôi tuy giàu có, nhưng hơn hai mươi bà cháu, bố mẹ, vợ chồng, anh em, con cháu toàn những người ăn không, nay đã giả môn bài, ngôi hàng sũ nghề nghiệp căn bản từ mấy đời bỏ hẳn, thì cái thế sa sút cũng rõ lắm rồi! Đã thế, cảnh ăn uống thắt bóp, khem khổ, chênh lệch, riêng tây, càng ngày càng như cái ung lên mủ chỉ rình vỡ ra. Như vậy, dù là phải đổ mồ hôi lấy bát cơm ăn, thì cũng chẳng nên ở đây mà sống!
Nhất lại là con gái, một người con gái đang thì, khỏe mạnh và có nhan sắc hẳn hoi! Từ hôm đến ở, ngoài việc say thóc giã gạo và thổi nấu hai bữa chính cho phần lớn gia đình ăn uống, cái sen còn phải đi ra máy gánh nước. Đang mùa bức. Nước tắm giặt đã có mấy bể nước mưa, nhưng nước thổi cơm cho bếp nhà dưới và nước rửa mặt cho bếp nhà trên, cũng phải hàng chục gánh. Hàng chục gánh ở một máy nước đầu ngã tư, mấy phố châu vào, rất đông gia đình lam lũ từ mờ sáng tới khuya cứ phải xếp hàng chờ nhau từng thùng, từng thùng... Vậy mà cái sen cứ đi hết gánh này tiếp gánh khác, nhanh nhẹn, dễ dàng, tươi bưởi như không!...
Tôi đã so tính những công việc của cái sen với bữa ăn hàng ngày. Tuy được ăn thật no nhưng vẫn là phải ăn sau, ăn thừa. Và cho dẫu ăn khỏe mỗi bữa đến mười bát cơm thì cũng chỉ ba xu gạo với một xu rau dưa, tương cà. Như thế, mười gánh nước giá một hào, hay giá thuê những ngày nắng, máy nước nhiều nơi bị hỏng bị khóa, là hào rưỡi, nếu tính trả cho cái sen thì vẫn dư tiền cơm. Vậy thì ở làm gì cho khổ, cho nhục? Dù có được tháng một hay hai đồng tiền công và hàng năm, quần áo, yếm, khăn vuông được may được sắm đủ lệ bộ!
Bỗng một buổi, tôi thấy cả nhà trên, nhà dưới xáo xác lên hỏi nhau:
- Cái sen đi gánh nước à? Cái sen ở ngoài máy làm gì mà lâu thế?
Tiếp đó tôi thấy ngoài cửa, ngoài đường cứ ồn ồn:
- Ra máy nước mà xem, ra máy nước đầu ngã tư ấy mà xem!
Tôi lồng ngay đi. Tôi phải chen mãi mới vào được bên trong đám đông. Toàn những người đi gánh nước và là những trai tráng, những tay sừng sỏ ở đây. Nhưng không có đánh nhau, đâm chém gì cả như mọi khi. Cái sen nhà tôi đang đứng giữa đám đông, tay cầm tay một anh cũng gánh nước, áo may ô trắng, quần chúc bâu trắng, bịt chéo một mùi xoa ròng rọc hất trên trán. Mặt cô ta đỏ ửng, cúi cúi, mắt long lanh hơi đung đưa, môi trầu cắn chỉ cười e lệ:
Em về là anh chẳng cho về
Anh cứ... cứ giữ nón...
Ô hay! Thật cái sen nhà bác họ tôi đang hát. Còn cái anh vừa cầm tay kia không những chỉ giữ nón của cô mà còn giữ cả gánh nước của cô nữa. Thùng tôn đầy giàn nước ở dưới tay hai người. Một chàng ra vẻ đàn em đặt chiếc đòn gánh của mình tì lên một mép thùng để trợ sức đàn anh, và cũng như để đối phó cả với rất nhiều bà đứng tuổi, nhiều con gái khác. Họ cũng đi ở, gánh nước thuê, oai phong lẫm liệt, nhưng không sát khí đằng đằng, mà rất hoan hỉ về bè với cái sen này từ đâu mới đến ở số nhà 25, cũng biết hát và làm sao dám hát ngay với tay trai hát đám mà ai cũng phải chịu thua, ở khu bến gỗ và bến tàu đây!
Sau buổi đó, hễ cái sen cất gánh ra khỏi nhà là có người gọi, người theo. Nhất là các bà đứng tuổi chuyên mối manh ngoài máy và mê tuồng chèo.
Ít lâu sau, chị sen - tôi phải gọi bằng chị lúc nào không rõ - không gánh nước ban ngày nữa. Có thể vì nhà bác tôi ngăn cấm; có thể tối đến được rỗi rãi hơn và ngoài máy đông vui hơn. Rồi trời càng nồng nực, nước càng khan, thì quãng phố đầu ngã tư lại càng như họp chợ, như mở hội. Đèn các hàng nước, các gánh quà, mía, bưởi, bánh kẹo, cứ giăng giăng chung quanh các cột đèn điện. Không những mình chị sen nhà bác họ tôi mà còn nhiều người con gái khác nữa hát. Cũng như không chỉ có trai phố nhà mà cả các trai ở những phố trên hay ở các nơi cũng đến mời trầu và xin bạn hát.
Thế rồi nhiều tối, ở trước cửa nhà bác họ tôi và mấy cột đèn gần đấy, có cả người các nơi kéo đến tụ tập còn đông hơn ngã tư. Bấy giờ các bà đứng tuổi đàn chị được thể bèn "mời" các trai bạn phải đến nhà đến cửa nhà gái mà hát! Còn thiên hạ thì nghe hát chỉ là phần phụ, phần chính là để xem mặt nữ trống quân phố tôi tiếng tăm đã đồn thổi đi rất xa...
Phố Hàng Sũ tôi là một trong những phố buồn vắng nhất tỉnh. Tối đêm còn ai đi xem đi sắm săng ván? Chính nhờ những buổi đàn đúm hát xướng này mà nhộn nhịp khác hẳn. Bực thềm nhà tôi trở thành như một bục lễ đài long trọng của những buổi hội bà thánh Giăng-đa hay hội Cát-tó (22). Đứng trên đây là mấy bà loại ăn nói và những bạn sắc sảo của chị sen. Cố nhiên có các trai gái, con cái mấy nhà hàng phố. Dưới hè và mặt đường, người xem đã đứng kín, lại còn các hàng, các gánh, các xe cộ. Để giữ cho đám hát không bị lộn xộn, mấy tay có tiếng là "anh chị" và cũng là tay tỏ ra mình lịch thiệp ở máy nước, thân đứng trấn chung quanh, dẹp cho rộng chỗ chị sen và trai bạn đứng hát, cách nhau hẳn ba bốn sải tay, có cọc đóng rất chắc. Từ đầu cọc bên này sang đầu cọc bên kia, căng thẳng một sợi dây thép ghì trên mặt một thùng sắt tây sáng như tráng thiếc. Mỗi bên đều có người chạy lăng xăng để mách nước và cũng để áp đảo đối phương.
-----
(22) Ngày kỷ niệm cách mạng Pháp 14 -7-1789.
Tôi không nhớ được đã bao nhiêu đêm hát. Tôi cũng không nhớ hết được bao nhiêu trai đến hát với chị sen. Điều tôi nhớ chính là có tối, luôn ba bốn trai bạn phải thay đổi nhau "vận" với chị sen, nhưng cuối cùng đều phải chịu bỏ cuộc. Có những trai có những câu đố rất hay, rất ác về các thứ hoa quả, chim cá, núi sông, và giọng cũng rất hay, tưởng chừng nhất định sẽ là người làm chị sen không thua, thì cũng lúng túng!
Càng những buổi như thế, dù phải đối đáp lại hai ba người thay nhau vào hát với khí thế rất hăng, rất vững, và được người xem reo hò khích động rất mạnh, chị sen lại càng bình tĩnh.
Chị bình tĩnh như chẳng thấy mùi vần gì cả. Mặt chị không chút biến sắc. Cặp mắt long lanh đôi khi như không nhìn cả người ở trước mặt. Nhưng không phải vì thế mà ra bộ kiêu kỳ, vì chị vẫn có vẻ bẽn lẽn, ý nhị. Tiếng hát của chị càng về sau càng trong, càng ngọt với những câu vận càng sát, càng sóng, càng lạ hơn. Hình như được cha sinh mẹ đẻ ra, trong người chị có cả một cuốn sách đủ các câu, các vần để gặp bất kỳ câu hát nào của bất kỳ ai, chị cũng vận được. Và những câu trong sách ấy thì không phải chỉ có một ai hay ở một nơi nào làm ra, mà là sự thông minh, óng chuốt, sắc sảo của không biết bao nhiêu đám truyền bảo cho nhau kết đúc lại.
Còn giọng hát của chị thì như là lụa đào phơ phất, thoang thoảng hương cau, hương lý.
... Tết trông trăng năm ấy các phố Nam Định vẫn đủ các hàng, các nhà bán hàng tết và bày cỗ.
Hàng Thiếc ban đêm đèn cứ như sao sa với các kiểu ô tô, xe đạp, tàu thủy, tàu hỏa, quả đào mở ra cụp vào có tiên đồng ở trong, thỏ gõ trống, và ca nô đốt bằng dầu tây chạy xình xịch trong những chậu nước to, v.v...
Hàng Vải Màn cũng thế: đèn kéo quân, đèn xếp, đèn lồng, đèn ông sao, đèn quay, đèn thiềm thừ, đèn cá vàng và các ông tiến sĩ, các cụ Lã Vọng, thỏ bông, chuột bông đánh vòng, hoa quả, chim cá tí xíu bằng bột nhuộm phẩm màu và đầu sư tử các kiểu các cỡ.
Hàng Đường và Hàng Dầu chuyên làm bánh. Ai vào các hàng cũng phải hắt hơi và ngào ngạt vì mùi đường, bột và nước hoa bưởi.
Ở mấy phố khác như Hàng Giấy, phố Khách có những gia đình muốn khoe giàu của, giàu con, nhất là con gái, thì bày những bàn cỗ suốt từ trong nhà ra cả bờ hè. Có những chiếc bánh to bằng cái nia, trên mặt bày mấy hộp bánh nướng, mấy lớp con giống và hoa quả mà vẫn không che kín. Không chỉ một chiếc ở giữa bàn, mà ở hai mé bàn bên trong, hai mé bàn bên ngoài, đều bày bánh to như thế. Chung quanh lại thêm tầng tầng lớp lớp các hộp, các đĩa bánh khác: bánh xu xê, bánh cốm, bánh phục linh, bánh bột lọc, bánh gai, bánh nhân ngọt, bánh nhân mặn, các hoa quả được tỉa gọt và sắp xếp thành các tháp, các cây, các con giống, và treo các kiểu đèn giấy của nhà làm lấy...
Tết này là tết thứ hai anh em tôi lại không có cỗ và nhà cũng chẳng có bánh hay thổi xôi nấu chè gì cả.
Em gái tôi phải thôi học. Nó bòn nhặt được bảy tám hào làm vốn mua bưởi bổ bán ở ngay cổng trường học cũ cho các chị em bạn của mình. Nhiều hôm nó còn mua quả xoan tây về bóc lấy nhân luộc bán thêm với táo, với khế chua chấm muối ớt. Tôi vừa phải nịnh em, vừa như cướp giật để ăn vèn mấy múi bưởi khô, mấy quả táo, quả khế giập của nó. Tôi quên bẵng đang ngày rằm, những nhà ở chung trong kia nghèo nhất cũng mua được cho con, cho em một cụ Lã Vọng hay ông tiến sĩ bày với mấy quả bưởi, mấy tấm mía chẻ ra xếp thành tháp và mấy con kỳ lân, cá hóa long bột xanh đỏ.
Tối hôm ấy, mặc dầu trăng rất tròn, rất sáng, các đám múa sư tử ở đường phố trên rất vui, tôi cũng không theo trẻ con đi xem các hàng và các nhà giàu bày cỗ, hay các đám rước sư tử tranh giải như mọi khi. Phố tôi nhà nào nhà ấy lại đóng cửa đọc kinh từ sau phút lên đèn, và gần như chẳng có trẻ nào đi chơi. Nhưng trước cửa nhà bác tôi, mới chập tối, trai gái các nơi đã dập dìu kéo đến. Thế rồi, lúc trăng vừa sáng tỏ, thì từ ngã tư vào cứ đông nghịt, ồn ồn. Lần này trống đặt giữa đường, hai cọc dây thép đóng ở hai mép hè. Mỗi bên có hai hàng ghế dài và một ghế đẩu. Các bà đứng tuổi mượn thêm một khay gỗ đựng trầu cau để các cô đàn em mời khách thiên hạ và trai bạn đến hát. Ngồi phù chị sen có hai bà đã đứng tuổi cũng nổi tiếng là tay đã giữ nhiều giải, hỏi và vận rất ác, mới ở tỉnh xa về quê thăm gia đình, nghe tin phố nhà lại đóng đám hát trống quân liền bỏ cả chuyến tàu, ở lại chơi với các bạn cũ và xem tài các bạn mới.
Cạnh nhà tôi là khu nhà tu nuôi trẻ mồ côi và trường học của bà sơ. Trước mặt nhà tôi là khu nhà thờ chính. Trăng như một đĩa kim cương chiếu chênh chếch trên những tầng gác cửa xám lặng ngắt, những nóc nhà đen sạm mọc khẳng khiu những cây câu rút và trên cả đỉnh gác chuông im lìm nghiệt ngã. Trăng rọi qua những mái hiên kẻ thành vạch dài và tỏa sáng xuống cả những cỗ săng bằng gỗ tạp để bán cho nhà thương làm phúc và các người chết vô thừa nhận, cất vào chỉ làm bộn thêm trong nhà nên xếp thành đống đóng nẹp liền với nhau, bỏ ở những xó hè rúc rích tiếng chuột và muỗi đói kêu như ri. Nền mây, lúc như dát vàng dát bạc, lúc như có gấm có vóc bồng lên, càng mở rộng ra. Mấy ngôi sao xa ẩn hiện long lanh. Tôi ngồi ngay bờ xi măng bực hè gần ghế chị sen. Chị sen vẫn đội khăn vuông và mặc sống (23). Khác chút, là tối nay ngoài chiếc yếm hoa dâu trắng bong, chị lại mặc áo sồi chuột nõn cất kỹ trong bọc bấy lâu. Chị không hát đầu tiên mà để hai chị sen phố trên ngồi trống trước. Có lẽ đã bảo nhau rồi, nên hai chị này chỉ vận có hai ba câu rồi để bà chị cả xin phép nhường trống lại cho chị sen nhà tôi.
-----
(23) Váy.
Đúng lúc trăng lên giữa trời và có gió. Anh trai bạn hát đấu với chị sen đêm ấy, nghe đâu là người của bọn trai khu phố trên đã lên tận tỉnh Bắc đón về...
Người chịu không vận được nữa và luống cuống phải xin thôi là... chị sen! Cả đám đã nhốn nháo tưởng như có thể đánh chém, đâm giết nhau. Đồng hồ nhà thờ chính côồng côồng điểm mười hai giờ, mọi người mới chịu ai về nhà nấy. Tôi thấy tâm trí như bị dằn, bị xẻo và hẫng cả người, không sao tưởng được lại có cơ sự như vậy. Vì cho đến câu cuối cùng, trước khi chị ngừng tay trên dây trống và bẽn lẽn nói... "Chúng em xin có nhời với...", tôi vẫn tin rằng chị sen lại hạ bên kia. Tôi nằm cứ chong mắt lên mà nhìn bóng tối. Tôi vẫn phải thấy không có lý gì, không thể vì lẽ gì chị sen chịu không vận được, xin thôi hát...
Sau đấy tôi lại càng không thể tin được rằng chị sen thế là đi hẳn... Trong đêm ấy chị sen đã trốn đi. Chị sen trốn đi với người trai hát của vùng Bắc ấy. Tôi càng ngơ ngẩn. Nếu như trước kia tôi đã nhiều lần có ý nghĩ chị nên bỏ nhà bác tôi, bỏ cái đời đi ăn đi ở, dù có được no được đủ, được yên thân hay sung sướng chăng nữa, thì nay tôi lại tiếc, lại buồn vì không còn được thấy chị ở bên mình.
Làm sao tôi còn được nghe chị sen hát, được trông chị sen hát nữa? Làm sao tôi được gặp lại một người con gái nhà quê phải đi làm con sen con nhài lạ lùng như thế? Chị trốn đi cũng vẫn chỉ có cái khăn gói quần áo của mình; tiền công tháng trước và nửa tháng ấy cũng bỏ cả. Một bà có tuổi gánh nước thuê ở ngoài máy đã đến đòi nhà bác tôi, nhận rằng chị gọi bà ta bằng dì, và chị nhắn lại cho "dì" món tiền đó. Nhà bác tôi đã không trả lại còn dọa đưa bà lên bót (24)vì tội có cháu chuyên đi nếm cơm thiên hạ để đánh đĩ và làm nhiều tội khác!...