CHƯƠNG IV
NHỮNG CON ĐƯỜNG ĐẾN TRƯỜNG HỌC
Năm 1929-1930, từ trường Gốc Ngái tôi phải đổi đi trường khác: trường Trong (25). Từ nhà tôi vào trường Trong qua mấy phố cũng không xa lắm, nhưng quái lạ, cho đến khi lớn, tôi vẫn còn thấy cả thời gian và không gian nơi đây chất chứa không biết bao nhiêu kỳ lạ.
-----
(24) Trụ sở cảnh sát.
(25) Trường mang tên một người Pháp: Jules Ferry.
Nhà tôi đã dọn lên ngõ Nhà Thờ. Ở nhà đi ra ngã tư là phố Bônbe, đường chính của thành phố, nhiều người cứ gọi là đường Vườn Hoa vì quãng này có một phần vườn hoa cũng to nhất của thành phố. Khỏi quãng này lên đường chợ Rồng, qua khu tòa án ta và trại lính khố xanh, thì đi vào một quãng đường rợp bóng hai hàng cây đến trường.
Nhưng ít khi tôi đi đi về về những đường phố nọ, tuy nhà cửa đông đúc rất thuận tiện trú mưa, tránh nắng. Tôi cứ chọn những quãng vòng vèo, cây cối vắng lặng như khu vườn hoa hay những quãng xa lạ và ghê ghê như sau tòa án Tây, sau nhà thương, sở mật thám. Hơn nữa, tôi còn phiêu lưu qua đường khu xà lim của sở mật thám, khu nhà xác của nhà thương và khu đề lao, gần như cách biệt hẳn thành phố. Về sau tôi lại còn đi tít mãi lên đường trại lính Tây, qua bãi Bia mà đến trường bằng lối ven ruộng gần đầm sen. Càng mưa gió lạnh lẽo, càng những buổi sắp tới giờ vào lớp, hay về nhà gần tối trời, tôi càng thấy bước chân, trí tưởng và tâm hồn bị cảnh vật quyến rũ.
Những đám mây hình thù mới lạ; những gốc cây, những bụi rậm ở đây lại tìm thấy thêm một ổ trứng, mấy xác rắn, xác sâu và bộ xương chim; những chùm hoa không tên ẩn nấp trên những chòm cổ thụ cao vọi; những hốc tường hốc đá và những gò đống bỏ hoang...; những chim chóc, bọ ngựa, dế...; những hoa chua me, củ chua me ở vườn bãi xa; những quả bàng, quả sấu cuối cùng trốn giữa những cành, những chạc hóc hiểm cao tít...; những vọng gác, những tháp chuông, những niên hiệu... Và trời mây vần vụ, đường nắng bụi, đồng lúa, núi xa lúc nào cũng có những âm âm vang vang mà tôi càng lắng nghe càng thấy như vời như gọi...
Khi cha tôi còn sống, không biết cha tôi đã dạy truyền miệng tôi lúc nào mà tôi thuộc được hai câu thơ sau đây của Bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà...
(Tức cảnh Đèo Ngang)
Ngoài sân gác thượng, trước chỗ cha tôi nằm, có mấy cây si, đinh lăng trồng trong chậu và ít được tưới tắm nên càng khẳng khiu, và một núi non bộ cũng vì cảnh làm ăn của nhà tôi sa sút, nên mốc rêu và nhiều khi tưởng chết khô hết cả mấy búi cỏ cây ghép trong đá. Nhưng chính với cảnh cây cỏ và núi non này, tôi đã tưởng tượng thêm ra sự heo hút của hai câu thơ trên kia. Rồi những buổi chiều mùa đông, nhìn ra cả đường phố vắng, tôi càng thấm buồn, thấm lạnh:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn...
Tuy tôi chỉ mơ hồ hiểu điển và nghĩa:
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ
Biết ai mà kể nỗi hàn ôn.
(Chiều hôm nhớ nhà)
Tuổi lên bảy, lên tám của tôi ấy lại còn được những rung động này nữa:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
(Tức cảnh Đèo Ngang)
Không ai bày cách cho tôi cảm xúc, nhưng tôi cứ nghe thấy những tiếng đanh đanh khắc khoải "cuốc cuốc" (26)vang lên. Và hai tiếng non nước dào dạt như có sóng. Sau đó cả cảnh vật đều lặng đi để dâng lên một cái gì bàng bạc và trong trắng như sương tuyết.
-----
(26) Hai tiếng cuốc cuốc ở trong bài thơ đồng âm với tiếng quốc là nước.
Phải chăng tôi đã "chịu Mình thánh" của những chuyện, những sự tích, những văn những thơ kia từ thuở mới có trí khôn? Lọt lòng mẹ, tôi đã được ôm đến nhà
thờ chịu phép "Rửa tội" và nhận lấy tên thánh là
Giu-minh-giê. Rồi năm tôi lên chín lên mười, bà nội tôi đã khảo tôi đủ các kinh để đi xưng tội lần đầu với một cha người Tây. Cả đêm ấy tới sáng sau, tôi chỉ được súc miệng chứ không được uống nước, rồi cùng bà tôi đến nhà thờ đi "lễ chịu Mình thánh Chúa lần đầu"... Phải chăng vì đã chịu phép thông công của Thơ Văn ấy trước cả phép thông công với Đức Chúa Giê-su, mà tôi không thấy bâng khuâng vui sướng, hay không cảm thấy bàng bạc trong trắng gì cả trong buổi lễ nghi đáng phải thiêng liêng nhất, để ấn tượng sâu xa nhất đối với Giu-minh-ghê đồng nhi là tôi kia.
Hay vì tôi không thành kính, tôn trọng? Không! Không! Tất cả những lề lối, lễ nghi nhất nhất tôi đều theo đúng cơ mà! Khi chùm chuông từ trên bàn thờ rung dội, cha kính cẩn giơ cao lên bình cô-mô-nhong vàng đựng Mình thánh Chúa, trong những tiếng rên rỉ và đấm ngực xuýt xoa của con chiên ran ran cả nhà thờ, kể cả các con chiên không phải dọn mình chịu lễ, thì tôi cũng đấm ngực, sấp mình xuống kêu rên để chịu ơn Chúa. Sau đấy tôi run rẩy cả người đi lên bàn thờ, quỳ tiếp theo hàng con chiên mà nâng khăn trắng, ngước mặt, lim dim mắt, he hé miệng đón lấy Mình thánh Chúa. Miếng bánh này tròn tròn như miếng bạc mỏng, tôi cố nuốt rất nhẹ để khỏi động đến thân thể và máu thịt đau đớn của Chúa ngự trong đó, làm thành ra nó và hòa biến thành máu thịt của con chiên. Tôi đã hoàn toàn tự mình đánh đồng thiếp để chịu lễ xong thì đọc kinh Cám ơn và ra về, vừa kiêu hãnh vừa hoan hỷ như tất cả những trẻ con có đạo được đi chịu lễ lần đầu! Nhưng, sao cả khi xưng tội, tôi vẫn cứ không thấy là có tội, cũng như khi chịu lễ xong, thì ngay mấy giờ sau đấy, tôi lại muốn phạm tội liền...
Nghĩa là tôi lại đọc các sách ma sách quỷ, các chuyện ma chuyện quỷ, đúng trăm phần trăm cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Tôi lại đi chơi với Tôn Ngộ Không, Na Tra, Dương Tiễn. Tôi những muốn "Thế thiên hành đạo" như Lâm Xung, Võ Tòng, Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm. Tôi thích được đốt hương lạy tấm ảnh một ông tướng mà tôi gọi là Đức thánh Trần Hưng Đạo đại vương chung quanh có những Trần Quốc Toản, Dã Tượng, Yết Kiêu... chứ không phải là chúa Giê-su với những thánh An-tong Phê-rô, Giu-se... Còn cái nước của tôi lại nghe thì khắc khoải trong hai tiếng "cuốc cuốc" với những tên Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Vua Bố Cái, Lê Lợi, Lê Lai, Quang Trung Nguyễn Huệ và Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương chứ không phải "nước Thiên đàng". Thậm chí tôi thấy nếu cứ còn phải chịu lễ như ngày hôm ấy thì khổ như là và quá là chịu... tội!...
Tôi đã chọn những gốc cây, bụi duối rậm rạp, khất vắng để đọc những Tiếng sấm đêm đông, Vua Bố Cái, v.v... và chọn những tảng đá, những cành lá bày bàn thờ những anh hùng lịch sử. Đến trường, tôi vừa đi vừa đọc quên cả chung quanh. Tôi chỉ ước muốn sách đừng hết vội, hay có xong thì chỉ là mới xong từng đoạn, rồi lại tiếp theo, tiếp mãi. Cái gì bàng bạc và trong trắng như sương tuyết trong những tiếng Tổ quốc. Non sông, Giống nòi kia càng thấm sâu, càng dâng cao trong tâm trí tôi, về sau lại càng nghiêm nghị, nhất là từ khi - tôi không thể nói đích xác được từ khi nào - tôi được nghe nói mình là dân mất nước, còn nước Việt Nam, giống nòi Lạc Hồng đang là nô lệ trong tay người Tây, người Pháp, chính phủ Pháp.
Dưới trời mưa rét 1929 và sang xuân 1930, tôi lại phải đến trường qua những đường phố to đông đúc, đi cùng với các bạn. Có rất nhiều lệnh và nhiều việc nghiêm ngặt làm chúng tôi vừa sợ vừa lo. Nào đốc học Tây đã ra lệnh cấm điều này, điều nọ. Nào Sở mật thám đã bắt đám này, nhà khác. Nào công sứ đã sức cho các hộ phố cũng đi tuần, giữ người, bắt người. Nào mật thám của tổng đốc, mật thám của công sứ, mật thám chủ nhà máy sợi... Quan to nào cũng có mật thám riêng. Chủ sở, chủ nhà máy nào cũng có mật thám chân tay của mình. Tất cả đang cất canh ở các nơi, các chốn, khắp hang cùng ngõ hẻm, để nghe ngóng, theo dõi mọi người, không bỏ sót một động dạng gì, không để lọt một ai khả nghi hay có trát truy nã.
Chúng tôi chỉ được đến trường trước mười phút trống vào lớp. Hay đến đúng lúc trống báo cũng không được tụ tập đông ở các gốc cây, nhất là ở cổng trường. Còn sách, truyện đều bị cấm hết. Dù mỏng, dù thuộc loại gì, nếu không phải là sách học, khám thấy ở trong cặp là bị đuổi ngay. Bất kỳ giấy gì khác lạ, ai phân phát hay truyền cho đọc đều không được nhận, phải báo ngay thầy giáo hay đội xếp túc trực. Có nhiều tiền thưởng cho người tố cáo, nếu những thứ phân phát đó là truyền đơn chính trị và kẻ bị phát giác bắt giữ được ngay. Gia đình nào cũng phải xem xét con cháu khi đi học, về học và các truyện trò tin tức của con cháu thu nhặt bàn tán ở đường phố về. Các gia đình sẽ bị xét xử nặng nếu để con cháu phạm vào những điều nghiêm cấm, đặc biệt là a tòng với những kẻ có tội. Nhà nước cũng khen thưởng cả những gia đình có công ngăn giữ con cháu, dạy bảo con cháu.
Thế là ngay trong những bạn thân nhất cũng nhiều kẻ không đi với nhau nữa. Còn lại chỉ còn một hay hai đứa cố kết lắm mới dám rủ nhau đi học và ngồi chuyện với nhau.
Những bạn này, ngoài tình nghĩa thủy chung đồng sinh đồng tử với nhau, còn là kẻ gan dạ mạo hiểm và muốn có những hành động khác thường.
Anh Bùi Phú Túc, người cùng tôi cắt máu ăn thề, kết nghĩa ở những năm lớp bét, lớp tư đã đổi đi trường khác. Lên lớp và vào trường mới đây, tôi đánh bạn với một anh nhà mở hiệu đóng giày, người lớn hơn tôi, vui vẻ, đúng mực và đá cầu lông giữ bên trái rất giỏi. Nhưng anh không ăn mặc lôi thôi, không mê chuyện và không thích những cuộc chơi nghịch tợn tạo.
Cũng vì không còn bạn thật cùng cảnh và cùng tính nết, nên tôi càng thèm bạn và càng lớn lên càng say với Thủy hử.
Thầy giáo dạy tôi năm ấy nghe nói là người ở nhà quê. Thầy đội khăn và nón dứa, mặc áo the thâm, đi giày Gia Định và thường đi bộ đến trường. Tôi vẫn nhớ như in nét mặt thầy rất hiền, gương mặt thầy rất sáng. Tuy hiền hậu và sáng sủa, thầy giáo trẻ này vẫn làm tôi chú ý đến cái vẻ nghiêm nghị đượm phần lo âu mà tôi nhận ra trong những phút thầy yên lặng trên bục giảng bài cũng như khi thầy lững thững một mình ở hàng hiên phía trông ra cánh đồng. Tôi còn được biết láng máng thầy đã có vợ, nhưng tôi gần như không được gặp cô giáo lên tỉnh ở với thầy bao giờ. Vì thấy thích hoa và cá lắm hay sao, nên tất cả những bìa vở cũng như giấy bọc sách, thầy đều bắt vẽ hoa và tô màu. Tôi vẽ rất vụng, đã mấy lần định nhờ bạn vẽ cho, nhưng tự ái, lại thôi. Tôi chỉ thích đi bắt cá cho lớp. Tôi lội tất cả những chỗ sâu và khó khăn nhất ở ngoài đầm hào dưới chân thành, sục vào tất cả những đám sen, đám bèo để tìm cá lạ. Những cá này thầy giáo thả ở những lọ, những bóng thủy tinh có những cụm rêu chọn rất kỹ.
Cũng nhờ việc đi bắt cá cho lớp, nên tôi đã được tự do ra giải "Thủy bạc" xa khuất đầy nguy hiểm, bí mật và liệt vào đất cấm trong những ngày nghiêm ngặt đó. Cũng vì thẫn thờ với những con cá bơi lượn và những làn rêu lấp lánh ở những lọ, những bình thủy tinh trên góc tủ, mặt lò sưởi và giá gỗ chung quanh lớp, tôi càng thấy những giờ giảng văn, giảng sử và những buổi chiều mùa đông lạnh giá thêm nao nuốt. Trí tưởng tôi không những chỉ theo đàn cá trong lọ thủy tinh mà còn vượt ra khỏi những bức tường, những cửa kính, cửa chớp, cuộn theo những sợi rêu, hóa thành những dải mây cùng với những đàn cá rất khác lạ chắp thêm cánh vàng cánh bạc cho tôi bay đi.
Những ngày giáp tết năm ấy, các nơi đường phố, đông đúc, các cửa hiệu, các mặt hàng, các thứ hoa lá, tranh ảnh, câu đối vẫn tấp nập rực rỡ; bến tàu bến xe, người buôn bán, kẻ đi làm phu làm thợ các tỉnh trở về vẫn lũ lượt đến khuya. Nhưng qua giọng chuyện trò bàn tán của nhiều người quen biết với nhà tôi hay của những người ngoài đường ngoài chợ, tôi vẫn không khỏi có một sự hồi hộp mà trí não non nớt của tôi khó giải đáp nổi.
Mồng một, rồi mồng hai, rồi mồng ba tết, tôi vẫn theo mẹ tôi đi mừng tuổi đủ các nơi như những năm trước. Rồi sang mồng năm, mồng sáu thì tôi thấy nhiều nơi trong thành phố vắng lặng một cách lạ. Không phải vì vẫn còn tết, vì chưa hạ cành nêu, vì ra Giêng chưa mấy ai ra đi mua bán sắm sửa... Thế rồi đến ngày vào trường, buổi đi học trưa về, tôi càng rạo rực và cả kinh ngạc nữa vì tin đồn có bạo động, có bạo động! Yên Bái bạo động! Yên Bái đã bạo động! Đúng là bạo động đã nổ... Thật là bạo động đã nổ!... Đúng là cách mệnh đã nổ súng vào chính phủ Pháp bảo hộ, và quân lính Pháp, quân lính chính phủ bảo hộ.
Yên Bái bạo động!
Những tên người khởi sự đã rành rành in lên mặt báo và đã thành những câu chuyện của đông người, chứ không thào thào thầm thầm như trước...
Tất cả những báo hàng ngày như không kịp in và chẳng cần rao gì cả. Khác hẳn mọi khi, báo trên Hà Nội xuống, cai lĩnh phát ở một ngã tư chưa xong thì đã thấy um lên tiếng trẻ con "Báo mới ơ... Báo mới ơ ơ...". Hình như cả người đón mua và các nhà mua quen đều muốn đọc ngay, đọc nhanh những tin chính để rồi lặng đi vì bàng hoàng và suy nghĩ. Trẻ bán báo cũng đọc lầm thầm và cũng như buồn buồn nghĩ ngợi, cả khi vừa được giao báo hay còn giữ được tờ báo sau cùng để phần cho khách quen chưa kịp lấy.
Cuộc bạo động đã bị dập tắt ngay. Liên tiếp đăng tin những người cầm đầu bị sa vào vòng pháp luật. Các báo đăng cả tin Ký Con và Nguyễn Thái Học bị bắt với những chức vụ trọng trách và những hoạt động chủ chốt nhất định sẽ bị kết án tử hình. Nhiều ngày tôi đã bồn chồn và thẫn thờ vì Ký Con... Người ký khổ làm cho hiệu tây buôn Gô-đa trên Hà Nội này thế mà lại làm trưởng ban ám sát của Việt Nam quốc dân đảng. Ký Con là một con hùm xám!... Ký con bị bắt!... Tất cả mật thám đã reo lên! Và Ký Con đã chịu tất cả những cuộc tra tấn, không hé răng khai báo, phản bội, hàng phục.
Tôi đã mong trông thấy ảnh Ký Con và cố tìm cho ra ảnh Ký Con nhưng không sao được. Một thằng bạn nào của tôi kia, mà chỉ cho tôi nhìn liếc qua ảnh Ký Con thôi, cũng đủ để tôi kiệu lên vai tung hô rồi muốn bắt tôi làm việc gì nặng nhọc, nguy hiểm thế nào tôi cũng xin nghe(!) Hay có đứa nào được biết một nhà cơ sở Ký Con đã ở vài đêm hay chỉ ghé qua trên đường trốn tránh, trỏ cho tôi hay và dắt tôi đi qua, thì cũng được tôi tôn trọng như thế.
Tôi đã nhất định tin theo như một số dư luận, rằng đây chỉ là một người khác mang tên Ký Con. Một người kính phục Ký Con chịu chết thay để Ký Con sống mà tiếp tục trọng trách. Hay đây là một người bị sở mật thám bắt phải nhận là Ký Con, chịu kết tội để tăng thanh thế cho bọn chúng và làm vừa lòng những quan trên ở cả bên Pháp! Tôi lại kín kín hở hở đặt ra những câu: "Giả dụ, hình như, nghe nói, nghe đồn, v.v..." mà bàn chuyện với các bạn!...
Nhưng chính phủ Pháp đã đưa những người khởi xướng cuộc bạo động Yên Bái đi xử bằng máy chém. Các báo đều đăng từng tên người bị hành hình và ngày giờ hành hình... Tâm trí tôi đã có những phút đen sầm lại và mênh mông thương xót. Những hốc cây, những bụi rậm và dưới chân thành của cái trường cũ kỹ càng trở nên thân thiết khác thường. Những hòn đá và những cành lá quý hiếm kiếm được trước kia bày làm bàn thờ những anh hùng lịch sử, nay lại đặt thêm những tên tuổi mới mà tôi chỉ biết gọi là những Nhà ái quốc. Những người bị chém ấy đã hiện ra ngời ngời trong hai lòng bàn tay tôi đầy nước mắt và tiếng nước, tiếng nghẹn.
Tôi lại chịu Mình thánh của những Nhà ái quốc để thấy thêm một sự bàng bạc trong trắng và nghiêm nghị như băng tuyết toát lên trong những phút mà cả tâm hồn tôi hoàn toàn tê lặng đi thầm niệm những tiếng Non sông, Nòi giống như người sùng đạo đọc lên tên chúa
Giê-su đến đoạn bị đóng đanh trên cây câu rút vậy.
Dạo này, thầy dạy tôi, người nhà quê còn trẻ, gương mặt rất hiền kia, lại nhiều lúc buồn buồn và nghiêm nghị hơn. Thầy vẫn đội khăn xếp và nón dứa, mặc áo the thâm, đi bộ ở một phố khá xa đến trường. Sau năm đó, tôi không được biết tin tức gì của thầy cả. Thấy nói có nhiều thầy giáo làm chính trị bị bắt, bị tù, tôi càng nghĩ đến thầy Ng.V.H. Gặp mấy thầy khác dạy cùng lớp, tôi đã đánh bạo hỏi, nhưng chẳng được thầy nào cho biết thầy H. còn dạy học, hay chuyển sang việc khác, hay đổi đi đâu. Kỷ niệm của thầy H. trong cái năm rất ghi nhớ này càng thắm thiết. Cuối học kỳ, tôi thi phần chữ Pháp của bằng Sơ học yếu lược lại không đỗ. Nhưng tôi vẫn được thầy H. xếp phần thưởng. Chỉ là phần thưởng xoàng thôi, và tôi đứng hàng bét. Anh em thì kẻ chín lần, kẻ mười lần được điểm cao và đọc tên trước lớp, toàn về tính đố, và tập đọc chữ Pháp, luận chữ Pháp, ám tả chữ Pháp. Còn tôi được có mỗi một lần và là lần tập đọc quốc văn.
Tôi không nhớ tên bài buổi thi đó. Cả lớp đều đọc và trả lời từng câu thầy hỏi. Gần hết giờ, thầy trầm ngâm hồi lâu rồi thong thả lên tiếng:
- Ơn nhờ bảo hộ (27)xa gần đều vui... Hừ... hừ... Ơn nhờ "bảo hộ"... Ơn nhờ "bảo hộ"..., - Thầy cười bĩu và dằn dằn hai chữ "bảo hộ"... - Có ai thấy hai chữ nào hay hơn, thay được hai chữ của câu kết bài thơ không?
-----
(27) Tức là chính phủ bảo hộ Pháp.
Cả lớp im lặng, chỉ có đôi tiếng lầm thầm đọc lại câu thơ trên.
Tôi đã giơ tay xin phép đứng dậy. Tôi khoanh tay, rụt rè:
- Thưa thầy... thưa thầy... Ơn nhờ bảo hộ xa gần đều vui thì... thì thay là: Ơn nhờ Tổ quốc xa gần đều vui... ạ ạ ạ...
Cả lớp đã quay lại nhìn tôi thêm, khi thầy giáo lặng nét mặt rồi gật gù, tươi tỉnh:
- Được! Được!... Thay bằng hai chữ Tổ quốc, được!... Ơn nhờ Tổ quốc xa gần đều vui..., được!
Đến ngày phát phần thưởng, bọn lớp tôi chờ thầy giáo dẫn vào hội trường mãi mà không thấy. Trong kia, các quan Tây, quan ta và các nhà giàu sang quyền quý của thành phố đều đủ mặt. Có cả dàn kèn đồng của lính khố xanh cử nhạc và các đội xếp mặc lễ phục trắng túc trực. Không phải chỉ có cấp sơ học chúng tôi mà còn có cả trường con Tây và trường Thành chung, lớp nào người nào đều in rõ thành sách. Sách này của thành phố biếu các quan khách và phát cho học trò kèm với phần thưởng.
Bọn chúng tôi không thể chờ thầy lâu hơn được nữa. Đã gần trưa. Kèn thổi hết đợt này đến đợt khác và những tràng vỗ tay càng về cuối càng nhạt. Đang lúc ngong ngóng, người như có kiến lửa đốt ấy, thì một học trò lớn tuổi trong kia chạy ra gọi chúng tôi, báo tin đích xác thầy H. không đến và bảo chúng tôi vào buồng phần thưởng mà lấy ra chia nhau vậy thôi. Có mấy lớp của các trường lẻ và ở xa cũng làm như thế!... Tôi cũng chẳng buồn biết hai người thứ nhất được phần thưởng danh dự và phần thưởng ưu tú cũng như cái thằng xếp trên bực đội sổ của tôi được những thứ gì. Tôi vồ ngay lấy cái buộc mỏng teo đề tên tôi và chạy thẳng về nhà ăn cơm, kẻo ra đi từ sáng sớm, tôi chỉ được mẹ tôi cho có xu rưỡi như thường lệ để ăn lót dạ. Ấy là tôi đã hơn hẳn em tôi những một trinh, vì nó là con gái học trường bà Sờ ngay cạnh ngõ nhà.
Ngày ấy cha tôi đang ho ra máu. Những đồ đạc đáng tiền trong nhà bán gần hết. Nhà tôi lại ở nhờ người bác họ. Mẹ tôi dọn hàng rau đậu ở chợ Rồng rục rịch bỏ chỗ cho người khác. Các vòng kê và thúng mẹt càng về cuối chầu càng lỏng chỏng với mấy mớ tỏi, cần tây, cà chua, đỗ úa héo... Quá trưa rồi mẹ tôi vẫn chưa về nhà. Gian buồng cha tôi quanh năm mờ mờ và ẩm nhớp vì không có cửa sổ cửa trần gì cả. Còn giường thì hàng năm giặt chiếu phơi màn vài ba lần. Chỗ cha tôi nằm mọi khi còn có cỗ bài tổ tôm chơi phá trận hay tập Tam quốc, Đông chu liệt quốc đọc đi đọc lại để khuây khỏa, nay cũng xếp xó.
Cha tôi lại ngồi bó gối, trông ra ngoài buồng. Cái thân hình còm cõi và xanh xao lịm đi như một pho tượng chết. Chạy từ trường về nhà, tôi vào ngay giường cha tôi, đưa cho cha tôi bó phần thưởng. Tất cả có ba quyển: quyển in tên học trò các trường được thưởng và danh vị các quan chủ tọa kỳ phát thưởng, một quyển đề "Cách nuôi tằm tơ" mà tôi không thấy bày bán bao giờ, và một quyển sách dạy tính cũng bằng tiếng Pháp, nhưng là loại sách chỉ để con Tây học hay dạy trẻ con học ở bên Tây...
Tháng mười năm ấy cha tôi mất. Bó phần thưởng cho điểm cao về tập đọc quốc văn của tôi có ba quyển sách tiếng Pháp kia, thỉnh thoảng tôi đi chơi về lại thấy cha tôi giở ra xem. Cha tôi để nó ở đầu giường, cạnh cái gối gỗ rỗng, nơi cất cái ví da cũ mà lúc khiêng xác cha tôi ra gian nhà ngoài, tôi lục tìm thì thấy còn một hào bạc và hai đồng xu. Trong gối còn một gói bánh Trung thu của một người họ cho, cha tôi ăn dè, vẫn còn mấy miếng đã khô và có chỗ hơi mốc...
Đầu năm 1930 ấy, giữa lúc lệnh đốc học cấm ngặt nhưng nhờ thầy giáo H. thích cá, thích hoa nên tôi đã được ra ngoài đầm và ngoài hào xa trường học, lang thang, bắt cá, kiếm rêu. Rồi cũng vì cha tôi ốm, nên tôi được vào khu nhà thương liền với khu đề lao và sở mật thám ngay cả giờ học.
Nhà thì xa, cha tôi vừa yếu quá, vừa không có tiền thuê xe kéo, nên tôi phải đi lĩnh thuốc hàng ngày. Nghe cha tôi nói chuyện, thì người y sĩ mà ai nấy đều gọi là quan đốc tờ trông coi việc khám xét và cho thuốc khu nhà thương "làm phúc" bây giờ, đã có thời kỳ học cùng với cha tôi ở một trường dạy cả chữ Nho và chữ Tây. Chắc vì có lời dặn của quan đốc, nên ông ký nhà thương già rất hắc, xếp phòng "làm phúc", đã phát thuốc cho cha tôi trước nhất và tôi được lĩnh thay. Toàn thuốc nước. Có bốn thứ: thuốc ho, dầu cá, thuốc bổ canh-ky-na và thuốc vôi.
Sáng sáng, trống trường ra chơi chưa dứt, tôi đã nhổm lên và khi cửa lớp vừa mở, tôi xách cái túi đựng bốn chai con, thúc "Thiên lý mã" chân, chạy vù đến nhà thương. Tôi sấn vào phòng phát thuốc, kiễng chân, rúc người giữa đám bệnh nhân đông nghịt, hôi hám quá chừng, chìa đơn thuốc và các chai ra. Rồi lại xách túi thúc "Thoại phong câu" chân, phóng về trường. Vẫn kịp đá bóng, đá cầu hay đánh mấy ván đáo.
Những ngày thứ năm thì nhàn quá! Muốn đi sớm đi muộn tùy thích. Nhưng tôi thường chọn lúc nhà thương đông nhất, có cả tù đi làm cỏ vê xin thuốc. Qua những câu chuyện của những người này, tôi càng bị kích thích vì những tin, những vụ mật thám khám xét, bắt bớ, tra tấn và tòa án hỏi cung, xét xử. Tôi càng băn khoăn muốn biết, muốn thấy những người làm chính trị, làm cộng sản gan dạ, kỳ lạ, phi thường kia là người như thế nào?
Cuối năm 1929, qua Giêng hai năm 1930, rồi đến gần vụ nghỉ hè, tôi càng nghe nói đến hai tiếng chính trị và cộng sản nhiều hơn. Tới khi bạo động Yên Bái bị dập tắt, tên tuổi và địa danh của các nơi khởi nghĩa dần dần chỉ còn ngùi ngùi trong dư luận, thì tôi bỗng thấy có một sự sôi sục hẳn lên, và rất khác lạ. Trước còn nhiều xóm, nhiều phố, sau hình như đâu đâu trong tỉnh cũng có nhà bị bắt, có người bị bắt vì làm cộng sản. Nhất là ở những xóm, những ngõ, những phố có nhiều thợ: những thợ máy sợi, máy tơ, máy chiếu, máy rượu, máy chai, máy nước, máy điện... Những người bị bắt này, kẻ thì tôi được biết ở thật nhà nào, làm ăn, tính tình, tiếng tăm ra sao, và thật tôi đã có lần nhìn kỹ mặt; kẻ thì em hay cháu họ đi học với tôi. Chính những quãng đường họ đi tầm, về tầm và làm những việc bạo thiên nghịch địa như rải truyền đơn, treo cờ đỏ búa liềm và đình công, mét tinh, v.v... tôi cũng thường qua lại.
Thế ra những sở mật thám với các buồng "săng tan", nào hòm điện, roi sắt, nước vôi, xà phòng, các thanh tra, cẩm khét tiếng ác đòn, dữ đòn, điên đòn, hiểm đòn, và những đề lao bốn năm lần tường đá với các xà lim bốn năm lần xích khóa kia... vẫn không đáng sợ! Nghĩa là nó không thể giữ yên được cái cảnh sống trái ngược giữa cùng cực và giàu sang, giữa quyền hành và bị áp chế, giữa người đói khổ và kẻ thừa mứa, giữa dân nô lệ, đồng bào đồng chí và bọn bóc lột, bọn cai trị khác máu tanh lòng?
Hay nói theo cách nôm na của ngày ấy thì là dân ta, dân "An Nam" ta vẫn cứ chống lại chính phủ cai trị, chống lại chính phủ Pháp và người Pháp cai trị. Ghê dữ hơn là ở xứ Đông Dương và ở ngay tỉnh Nam Định, ngay giữa thành phố Nam Định của tôi cũng có cộng sản, có những người làm cộng sản. Họ vừa chống lại chính phủ cai trị, vừa mưu đồ cho mọi người nghèo đói, khổ cực được ấm no, không bị đè nén, áp chế, và tất cả của cải, nhà máy, ruộng đồng đem chia cho nhau, cùng nhau cai quản làm ăn...
Khu "trong tỉnh" ấy lại càng nhiều cái lạ đối với tôi, và tôi lại càng tò mò tìm tòi, nghe ngóng, tha thẩn ở đây. Bà tôi cho biết ngày Tây chưa hạ thành nghĩa là chưa chiếm tỉnh Nam Định, thì "trong tỉnh" là cả một thành trì trong hào, ngoài lũy, bờ thành ngựa chạy được, cột cờ và các cửa đều đặt súng thần công. "Trong tỉnh" chỉ có ba quan lớn ở và dinh trại, kho tàng Quan tổng đốc hay còn gọi là quan thượng có việc ra phố hay đi đâu thì cưỡi voi, rầm rập quân hầu, tiền hô hậu ủng.
Tất cả thành trì dinh trại nay chỉ còn một mảng thành lối cửa Bắc. Trường học tôi xây trên bờ thành đó, cạnh có trại lính khố xanh, trông sang tòa án ta. Sở mật thám và đề lao gần ngay tòa án. Đề lao xưa là kho thóc của cả tỉnh để nuôi quân trong thành, tường đá ong kiên cố, giờ xây thêm mấy lần tường cắm mảnh chai, mắc dây điện và lắp cổng sắt, hai góc phía trước có hai lô cốt rất cao, tầng nào cũng có lỗ châu mai, hàng trăm lính gác trấn giữ vẫn thừa chỗ.
Ôi chao! Cứ mỗi khi qua lại, chỉ liếc nhìn vào mấy nơi như nhà xác của nhà thương, những xà lim của sở mật thám hay những tầng lô cốt và nóc đề lao, tôi đều thấy gai gai chờn chợn mà vẫn cứ phải nhìn mà tưởng tượng thêm và suy nghĩ đến bao nhiêu chuyện tra tấn, cùm kẹp, bắn, chém, tù đày.
Nhưng những người làm chính trị, làm cách mạng, làm cộng sản, cũng như nhiều dân ta không sợ gì cả. Kẻ khiếp sợ chính là các quan lại, là chính phủ Pháp có quân lính, gươm súng trong tay và cả máy chém. Cụ thể là
Sa-pu-la, công sứ đầu tỉnh tôi. Một hôm Sa-pu-la thấy báo tin ngoài đường có mét tinh kéo cả cờ đỏ búa liềm và thợ đang diễn thuyết hô khẩu hiệu ở vườn hoa nhà kèn ngay trước dinh của hắn giữa tầm thợ máy sợi, máy tơ về, Sa-pu-la đã chạy cuồng ra cổng, đến giằng lấy cờ và cầm búa bổ vào người công nhân. Anh công nhân đã không lùi bước còn cướp lại cờ, ôm vào ngực, cứ hô khẩu hiệu và chửi Sa-pu-la.
Phải! Cuộc đấu tranh lịch sử này đã nổ ra ở khu nhà kèn và vườn hoa, một trong những cảnh đẹp của thành phố nhiều người vẫn đến đây chụp ảnh, và tôi đã nhiều lúc đánh bạo ngồi rất lâu trên ghế đá mà nghênh trời, ngắm các ngọn cây, chùm lá, vòm hoa, chim bướm, và nghe gió reo, chim hót. Cũng dọc đường này, thỉnh thoảng cỗ xe song mã của Sa-pu-la lại rong đi chơi mát buổi chiều. Hai người xà ích quần trắng bốp, mũ hẹp vành kim tuyến, cầm cương ngựa. Tiếng chuông, tiếng nhạc luôn luôn rung lên; vó ngựa rào rào; mùi phấn sáp nước hoa ngào ngạt. Người hàng phố, kẻ đi đường xớn xác trông theo như có vua chúa xuất hiện. Những ăn mày và những người lam lũ rách rưới đều phải giạt cả vào trong hè. Cút lít, hộ phố đứng lập nghiêm chào và giữ không cho một ai qua đường hay đi dưới lòng đường.
Trong phong trào ngày đó, tên tuổi Tống Văn Trân và hai tiếng cộng sản đã truyền đi khắp thành phố.
Tống Văn Trân cũng bị xử án chém. Tống Văn Trân bị giam rất chặt trong xà lim. Ở đề lao, Tống Văn Trân cắn ngón tay lấy máu viết lên tường một bài thơ. Bài thơ đó đúng là đã chắp cánh bay vượt ra với mọi người. Nghe sự tích bài thơ cách mạng và tinh thần người tù cộng sản ấy ở ngay tỉnh mình, tôi càng bị kích thích muốn được nghe nói về cộng sản và được biết thế nào là làm cộng sản.
Công nông hỡi đồng bào đứng dậy
Tuốt gươm ra giành lấy chính quyền
Dân cày cùng với thợ thuyền
Chữ duyên hợp nhất đi lên một ngày
Đế quốc Pháp ra tay đạp đổ
Phong kiến kia trừ bỏ chẳng tha
Bao nhiêu chế độ xấu xa
Tiêu diệt cho hết mới là công nông
Anh em hỡi! Đồng bào hiệp sức!
Nông nỗi này đã cực lắm rồi
Thân ta dù có thiệt thòi
Làm gương chiến đấu cho đời mai sau
Dậy làm cách mạng mau mau...
Chính tên công sứ Sa-pu-la đạo mạo, tóc bạc phơ, cao dỏng, thoạt trông cứ tưởng như một học giả rất hiền từ mà tôi thỉnh thoảng gặp đi lững thững chung quanh vườn hoa nhà kèn, và tên tổng đốc Trần V.T. kỳ cựu có hàng tá vợ và không biết bao nhiêu con lớn, con bé, nổi tiếng là phúc lộc thọ kia, đã xử Tống Văn Trân. Sa-pu-la làm chánh án, Trần V. T. tổng đốc làm bồi thẩm. Cả hai tên đã tái mặt khi Tống Văn Trân đứng lên trỏ tay vào mặt chúng mà kết án lại chúng và cả chế độ của chúng, rồi quay lại với đồng bào xem xử án kêu gọi hãy cùng cách mạng nổi dậy.
Tống Văn Trân còn đứng lại trước thềm tòa án, rút lá cờ đỏ búa liềm trong người giương lên và nói về Lê-nin, vì hôm đó là kỷ niệm ngày sinh Lê-nin. Tất cả người đi xem tòa xử án và người qua đường đã rùng rùng kéo theo Tống Văn Trân và mười hai tù nhân khác bị kết án khổ sai đến tận cổng đề lao mà nghe anh em hát Quốc tế ca. Khi các anh em quay lại chào đồng bào lần cuối thì đồng bào lại cùng các anh em hô theo những khẩu hiệu, và bấp chấp sen đầm, cảnh sát, mật thám đe dọa, thét đuổi, cứ nấn ná bịn rịn mãi mới chịu bỏ đi về... Chính khu vườn hoa và những cổng tòa án, cổng đề lao kia tôi vẫn đi qua, trên đường đến trường học. Chính các vùng đồng quê có lớp lớp núi xanh ở phía xa, tôi thường ngồi một mình ở sau lớp trông hút ra, là hai huyện Phong Doanh và Ý Yên, quê hương chôn rau cắt rốn của Tống Văn Trân. Nơi đây Tống Văn Trân học xong sư phạm thì về dạy học rồi hoạt động cách mạng. Không biết Tống Văn Trân có ra cùng khóa hay học gần khóa với thầy Ng.V.H của tôi không? Sau đây tôi được nghe tả thì Tống Văn Trân cũng trẻ đẹp, nhưng không biết có giống như thầy Ng.V.H. không?
Tôi không khỏi có ý nghĩ ao ước, nếu tôi được học Tống Văn Trân: một thầy giáo làm chính trị và làm thơ, một thầy giáo cộng sản. Cũng như tôi đã có lúc thầm mong cả thầy Ng.V.H. cũng làm chính trị, làm cộng sản và hành động được như Tống Văn Trân.
... Người tù cộng sản Tống Văn Trân giảm án tử hình đi đày Côn Đảo đã đóng thuyền vượt ngục về Nam Kỳ lại hoạt động và lại bị bắt. Lần này tên chánh mật thám Đông Dương đã ra lệnh cho bọn tay sai đánh chết ngay Tống Văn Trân ở trước mặt nó, vì sau không biết bao nhiêu trận tra tấn, Tống Văn Trân lại không khai báo nửa nhời mà còn đàng hoàng thuyết phục lại bọn chúng. Trong kỳ lễ để tang Phan Chu Trinh ở bãi tàu bay, bọn học trò lớp bét chúng tôi cũng băng đen đeo tay và buộc ở mũ, nhưng hẹn nhau sai và lạc đường nên không dự được, đã có thầy Tống Văn Trân. Thầy về làng còn tổ chức cho cả trường nhà với lớp của mình làm lễ truy điệu. Càng được biết thêm về Tống Văn Trân, tôi càng man mác nhớ những năm 1929-1930 và cái trường trên bờ thành cũ mà tôi chỉ được học có một năm thôi kia...
Ngoài nhà máy sợi rộng lớn có hàng vạn cu ly, thợ và cai ký, không hiểu sao tôi đã chú ý đến nhà máy chiếu và nhà máy chai là hai nhà máy rất xập xệ tồi tàn.
Nhà máy chai ở gần bờ sông, chỗ bến tàu chạy các đường chính, như Hà Nội, Hải Phòng và gần cái chợ thóc gạo gọi là chợ Bến Thóc và cái phố buôn bán thóc gạo gọi là phố Bến Thóc của thành phố. Khu nhà máy cứ vắng ngắt gần như bỏ hoang. Cũng không phải vì bên nhà máy rượu ra ít rượu hay ty rượu các nơi bán ế. Đây, khói lò và mùi gạo rang, mùi bã rượu không lúc nào không bốc lên nghi ngút và sực nức ra cả ngoài bờ ruộng.
Tất cả các khu nhà máy chai đều xây tường cao, mái lợp tôn, ra vào bằng một cổng sắt to có lắp đường ray nhỏ cho xe bàn. Tôi gần như không thấy người đàn ông nào đẩy xe, mà toàn bà già, phụ nữ đứng tuổi và trẻ con. Cũng đôi xe có con gái lớn mặt mày xinh tươi và ăn mặc sạch sẽ. Người ta bảo đấy là người nhà của cai hay là người của xếp Tây, của ông chủ đã chấm. Trừ bốn buổi tầm đi về hay có xe to ra vào, cổng chính mới mở. Người làm và xe bàn chỉ được đi hai cổng nhỏ, cũng bưng tôn kín mít và có người gác khám xét. Trẻ con, một lớn một nhỏ bám một xe. Bà già, hai người một xe. Nhưng nhiều chuyến chỉ có một trẻ con hay một bà già lấy hết gân sức đẩy một xe xếp đầy những thùng vỏ chai cao sập đầu.
Tôi cứ phải nhìn rất lâu những đứa bé con gái nhom nhếch và những bà già gầy còm làm cu ly nọ. Hầu hết đều gầy gò đen nhẻm và rách rưới. Có mấy bà già che vuông khăn vải tây điều hay vải màn nhuộm nâu sùm sụp dưới khăn vuông, không rõ vì sợ nắng, vì đau mắt hay để che bụi. Sau tôi tò mò hỏi mấy người bán quà thì được biết có một bà đã gần mù và một bà thông manh, nếu để chủ biết thì bị đuổi, nên phải che vải, cố làm ra vẻ khoẻ mạnh mỗi khi thấy tiếng, thấy hơi của chủ!
Những trẻ con và bà già ốm yếu, bệnh tật lĩnh lương đã rẻ, làm cả ngày chỉ được một hào hay bảy tám xu, nhưng lại còn phải cho cai ăn mỗi thẻ một hay hai xu để được đi làm và làm đều... Đàn ông, trai gộc thì đẩy thùng. Chỉ có ít người thôi. Hình như việc này lương cao, cai xếp biệt đãi, người làm phải thạo, phải khỏe mới được cắt vào chân ấy. Mỗi người một cái gậy con đẩy bôông bôông cồng cộc liền liền hai chiếc thùng gỗ to, đai sắt nối nhau lăn bên đường cứ như làm trò xiếc. Những năm tôi được lên học lớp trên, lúc đói rét và cả sau đây đỗ được bằng Sơ học Pháp Việt, ra Hải Phòng, đi các nơi các chốn mãi mà xin không được việc gì làm, tôi lại nghĩ đến việc đẩy thùng. Tôi đã cồn cào cả người tưởng tới một sự bất ngờ, tôi trở về... Nam Định xin được chân cu ly nhà máy chai, thì thật không còn hạnh phúc gì bằng!
Nhà máy chiếu cũng nhiều đàn bà con gái. Nhưng người làm ở đây gọn ghẽ, trẻ và vui. Nhìn vào những cỗ máy chạy sầm sập, những người đứng máy thoăn thoắt đôi tay, giữa trưa nắng chang chang dưới mái tôn nóng bỏng, không khí bụi mờ, các cửa sổ đều bưng lưới sắt... tôi cũng không khỏi nghĩ ngợi vì được nghe những chuyện hãm hiếp, ăn lễ, ăn bớt, nhất là cách đối xử với những người đàn bà con gái bụng mang dạ chửa, hiền lành và có nhan sắc cứ phải sống chết bám lấy nhà máy.
Khu gia đình tôi ở cũng hầu hết là người nghèo túng. Có thể gọi đây là một xóm. Nó gồm có một gia đình Hoa kiều, chồng chuyên nghề bán cháo quẩy, chè đỗ xanh, chè vừng, vợ làm nghề bán canh bún, bún riêu. Nhà đã đông con, chuyến đẻ sau cùng lại sinh đôi, hai thằng bé rất bụ, bú rất phàm. Mấy nơi hiếm và giàu có đánh tiếng nhờ người đến mua một hay cả hai đứa bé càng tốt, nhưng vợ chồng chú S. nhất định không chịu bán, cứ giữ con, nuôi toàn bằng nước cơm nước cháo, có khi cho ăn cả nhá nhót. Một gia đình làm hàng phở và bánh cuốn có người em trai làm thợ nề. Một gia đình chồng đi kéo xe, vợ đi đội than. Còn lại là mấy gia đình công giáo vùng biển bị bão lụt và đói kém, không có ruộng bãi gì cả, kéo hết một chi họ lên tỉnh chuyên nghề gánh nước thuê, nghĩa là sống chỉ bằng có đôi thùng sắt tây. Mấy gia đình này cũng đông người, cũng lắm trẻ con. Rách rưới, ăn uống cơm niêu nước lọ, chạy gạo từng bữa và ăn nói giữ gìn, mua sắm rất chặt chẽ. Nhất là mấy nhà có cha mẹ già.
Hình như cả ngày họ đọc kinh. Sáng dậy, đọc kinh từ lúc còn tối đất. Trưa ngủ dậy, đọc kinh. Tối, trước khi đi ngủ, đọc kinh. Hai bữa ăn, mọi nhà thường chỉ làm dấu cám ơn và xin phép Chúa, thì họ cũng đọc kinh. Giọng rền rĩ, nghe ban đêm trong nhà không thắp đèn và những buổi trưa gió bão ù ù, sao mà buồn thảm! Lúc nào, câu mở đầu của họ cũng là: ơn Bề trên, ơn Chúa, lạy Chúa, ăn mày Chúa, cầu xin Chúa, sáng danh Chúa, sáng danh Cha cả, ơn Đức Mẹ, xin Đức Mẹ và Giê-su-ma lạy Chúa tôi... Giê-su-ma lạy Chúa con...
Bác gái nhà hàng phở và thím S, bán bún riêu bán cháo thì khác hẳn. Nói tục còn hơn đàn ông và văng "đếch" cả với giời! Luôn luôn tôi thấy hai người chửi bọn đội xếp, bọn lấy vé chợ và chửi cả những nghị viên nghị hòn, mồm miệng làm sao mà cứ như ngậm hột thị, đã chẳng biết và chẳng chịu nói năng gì để giảm bớt thuế vé cho dân, lại cứ gật bừa đi với các bố nọ, ông kia để cùng sung sướng cái thân cái đời!...
Cuối năm 1930 sang 1931, 1932, những tin về cuộc "phiến loạn cộng sản" ở Nghệ An và những hoạt động cộng sản ở Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác, ở hầm mỏ, nhà quê... cứ một ngày một nhiều, một dồn dập thêm. Trong các vụ xử án, các báo phải đăng cả những câu hô khẩu hiệu như "Đảng cộng sản Đông Dương muôn năm" hay "đả đảo quan tòa, đả đảo chính phủ" của những người cộng sản ra đứng trước vành móng ngựa. Nhiều chi tiết khác cũng ghê lạ quá sức, như tung cờ, rải truyền đơn, mà không biết làm thế nào, họ ở trong tù, bị khám xét cấm đoán nghiêm ngặt đến như thế, mà vẫn có và mang ra ngoài được? Rồi cả vượt ngục nữa!!!
Toàn những án khổ sai, cầm cố. Từ mười năm, hai mươi năm đến chung thân và án chém. Nguyễn Đức Cảnh bị chém ở Hải Phòng. Lý Tự Trọng hay Trọng con (những người thường phạm còn gọi là Ông Nhỏ hay ông Tám Hui) bị chém ở Sài Gòn.
Cũng không hiểu từ sách nào, báo nào hay từ ai mà những: Nước Nga cộng sản, Thế giới đại đồng, Đời sống làm ăn sung sướng như nhau, Cách mạng cộng sản, Tiến lên chủ nghĩa xã hội... đã không những chỉ thành chữ mà còn thành những hình ảnh, những ấn tượng trong tâm trí tôi nữa!
Thế là bên cạnh những Tôn Ngộ Không, Na Tra, Trương Phi, Triệu Tử Long, Lỗ Trí Thâm, Lâm Xung, Lý Quỳ... Những Ngô Quyền, vua Bố Cái, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu, Trần Quốc Toản... bên cạnh những Hoa Quả Sơn, Lương Sơn Bạc, rừng Yên Thế, Vườn Trầu Nam Kỳ và các núi rừng, sông biển xa xôi hiểm trở của cái tủ tiểu thuyết và của cái đầu óc giàu sự mơ tưởng là tôi ấy... nay lại chất ngất thêm bao nhiêu hình tượng, vang dội thêm bao nhiêu tiếng gọi.
Những hình tượng và những tiếng gọi vẫn đầy bí ẩn, đầy thơ mộng và thật là mới lạ, đã gợi dậy cho tôi biết bao ý nghĩa cao quý và kỳ hùng mà tôi chỉ mới cảm thấy một cách ngây dại về Tổ quốc, về xã hội và đời sống.
... Tôi vẫn đến trường học bằng tất cả những quãng đường thương yêu nhiều kỷ niệm nhất, vẫn tìm những gốc cây, những bụi rậm đọc sách, đọc báo một mình, vẫn bữa no bữa đói, bữa nhịn mà so sánh, nghĩ ngợi về bao nhiêu điều bất công, bao nhiêu sự trái ngược, bao nhiêu nỗi tủi nhục, đau xót, bao nhiêu cảnh nghèo hèn, buồn thảm ở ngay cùng nhà tôi, ở chung quanh tôi và khắp nơi khắp chốn bấy giờ.
Đứa bé mồ côi mười hai tuổi ấy vì thế lại càng mơ ước và khao khát. Không phải chỉ là được no ấm mà phải còn được thêm những sự công bằng, sự tươi sáng, những sự thiêng liêng, sự cao quý phải thật và đúng như ý nghĩa của nó! Và phải làm sao, phải tìm cách nào để được có, được hưởng thật, và đúng như thế.