← Quay lại trang sách

CHƯƠNG V

CHƯƠNG V

NHỮNG BÀI THƠ TẬP ĐỌC VÀ HỌC THUỘC LÒNG

Con cò mày đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

Ông ơi ông vớt tôi nao

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng...

Phải! Những cánh cò đó đã chới với, chao liệng suốt tuổi thơ tôi, trong khi ấy, một màu trắng và một làn hương cùng nhau ẩn hiện trong trí tưởng tôi: màu trắng và hương hoa sen tươi mát vô ngần.

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Nếu như tôi không nhớ sai, thì tám câu thơ đó ở trong sách tập đọc quốc văn lớp đồng ấu, gọi nôm là lớp bét, hay lớp dự bị, gọi nôm là lớp tư của chúng tôi ngày xưa. Cho đến bây giờ tôi cũng không thể nhớ lại hay phân tích nổi rằng tôi đã thuộc trước khi đọc, khi học, hay đọc và học rồi mới thuộc. Cũng như tôi không thể nhớ lại và phân tích nổi, tôi đã thuộc bằng mắt hay bằng ngân nga với những dòng chữ, nhìn những nét vẽ ngây dại thô sơ, hay bằng cả tưởng tượng nữa.

Trường tôi học mấy năm sơ đẳng ấy đặt với tên một viên quan Tây, nó vừa lòng thòng, vừa lủng củng, ngay cả những học trò trường Thành chung hay viết thạo tiếng Pháp khi đọc cũng thấy vất vả: Bờ-ri-e-rơ đờ lít-tơ (28). Mọi người và chúng tôi đều gọi là trường Gốc Ngái. Đúng là một cây ngái, lá to, quả nhiều, cội đã già trông cứ như mình rắn trăn, mình cá sấu. Cây ở phía trước mặt trường, bên cạnh có một cây găng cũng cổ thụ và xum xuê. Một cái miếu to như một ngôi đền, ngày càng xây thêm các thứ bệ, các thứ vòm, với các thứ khám thờ đầy những bát hương, bình hoa, mâm bồng, chân nến và các tranh, các tượng hổ xám, hổ vàng, hổ xanh, hổ trắng, hổ đen, hổ đỏ của khách thập phương đua nhau quyên cúng mở mang vì sự linh thiêng nơi đây. Vốn khu này đã xa các phố chính, phố buôn bán, lại có một cái miếu và hai cái cây, nhiều cả ma lẫn thần thánh nổi tiếng như thế, nên đêm đêm càng vắng. Và càng vắng thì lại càng kích thích cái bọn học trò tợn tạo chúng tôi bày đủ các trò, tìm đủ các cách, nghĩ đủ mọi mưu mẹo để nghịch ngợm phá phách. Nhất là để trêu tròng, báng bổ mấy thầy cúng, cung văn và người coi miếu đã coi chúng tôi hơn cả giặc, cả quỷ!

-----

(28) Brière de l'isle.

Khoảng hai ba năm đầu tôi học ở đây, thành phố khởi công xây cái bể chứa nước trên khu đất hoang trước trường học và đằng sau miếu Gốc Ngái. Những buổi êm ả, tôi phải nghe cả hai tai hai thứ tiếng khác ngược hẳn nhau. Một bên là những tiếng chập choeng đàn phách ríu rít, chầu văn thánh thót, mê quyến. Một bên là những tiếng búa sắt máy nện ình ình rung chuyển cả mặt đất đóng những cọc bê tông to làm chân móng. Và mắt tôi cũng phải chia ra mà trông, một bên là những cột bê tông ngày càng vút lên sừng sững như để chống trời, mây trắng nhiều lúc bay qua tưởng như bị xé ra, bị chặn lại. Một bên là những làn khói vàng hương chập chờn trên ngọn cây qua những đám lá xanh rì.

Tôi ngắm trông và lắng nghe như thế để rồi lại dần dần trông và nghe cả một đầm sen toàn sen trắng hiện ra với các thứ tiếng gió, tiếng sáo diều, tiếng chim, và man mát không chỉ là hương sen, mà cả mùi lá sen khô, mùi ngó sen ngọt xớt và mùi nhị sen bùi bùi đăng đắng. Rồi cánh cò lại dập dờn bay liệng. Một chân trời mở ra vừa lúa xanh vừa lũy tre long lanh sương khuya và nắng xuân, đón hết lớp cò này tiếp đàn cò khác bay đến.

Nhưng ô kìa! Sao giữa ban ngày nắng to mà trời cứ tối dần thế này, và, không còn cảnh mùa xuân nữa! Đêm vừa mưa vừa gió. Gió thổi các cành tre vặn mình răng rắc, đập vào nhau ào ào. Cả đầm sen và cánh đồng đen lại hơn mực trong mưa. Đúng, một con cò lướt sướt, gầy xương, đang lóp ngóp. Nó đang gánh gạo đưa chồng hay kiếm cái tôm cái tép cho con?

Ông ơi! Ông vớt tôi nao

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng

Có xáo thì xáo nước trong

Đừng xáo nước đục đau lòng cò con!...

Ông chài, ông câu hay ông soi cá nào kia! Con cò của tôi đấy! Con cò mẹ đang có mấy con đấy! Nó đang phải nuôi mấy con và cũng lại đang có mang đấy!... Ông mau mau vớt cò lên! Mà ông ơi! Ông đừng để cò van vỉ nữa! Nghe sao mà thương! Đứt gan đứt ruột người đây! Tôi sẽ mua thịt mua cá ở chợ về đổi cho ông! Ông đừng có xáo cò mẹ ông ơi!...

Càng thấy tiếng ve ran và hoa xoan tây đỏ rực, càng ở trong lớp, cố không cho mắt ríu lại, thì càng thấy những làn gió thổi rung rung những bông sen trắng và đưa thoáng hương thơm càng như ru như vuốt tâm trí.

Phố tôi có nhiều cửa hàng cau và mấy nhà viên chức nhỏ. Đến mùa này, nhà nào nhà nấy phải nói là ngập trong hoa sen. Bà già, trẻ con, khách đến chơi, người mua hàng, người nghỉ chân tránh nắng... đều ngồi trên hoa mà tỉa nhị để ướp chè mạn, tranh thủ bán tháng hè và cũng để nhà uống. Nhiều đứa bé cởi truồng, tóc cun cút, trái đào hay kiểu mới Nhật Bản, tập tênh tênh, chạy chập chững, bò bò toài toài, cứ lổm ngổm giữa các đống cánh hoa cao có chỗ ngập đầu chúng. Những đứa lớn thì ú tim và đuổi bắt nhau chạy trốn trong cánh hoa và ném nhau, quật nhau với các gương sen, cuộng sen...

Tôi lại càng nhớ đến Na Tra. Tôi cùng Na Tra không bơi nghịch ở Đông Hải mà ở một đầm sen giữa cánh đồng, vừa tắm, vừa bắt cá đuôi cờ, vừa mò ốc, thỉnh thoảng lại lên bờ, đu lên những cây vối, cây si, nằm trên những cành thia lia mặt nước. Rồi tẽ những gương sen mà ăn nhân non.

Trong một năm lớp đồng ấu và hai năm lớp dự bị, tôi chỉ nhớ được hai bài tập đọc học thành thuộc lòng ấy, ngoài bài: "Công cha như núi Thái Sơn". Lên được lớp sơ đẳng, tôi còn phải học thêm cả tiếng Pháp, chữ Pháp, với những bài tập đọc và học thuộc lòng của người Pháp viết. Cứ đến giờ "Fờ-răng-se" này tôi lại lo như một kẻ sắp lên buồng tra của sở mật thám hay ra tòa xử tội. Bởi vậy, những bài học tiếng ta càng thêm vui thích sung sướng, tay các bài này dài hơn, nhiều hơn, nhưng lại rất dễ đối với tôi, và càng làm tôi mê sách mê truyện, nghĩa là càng thích mơ mộng, thơ thẩn.

Đêm qua ra đứng bờ ao

Trông cá cá lặn trông sao sao mờ...

Cảnh minh họa trong bài học có bóng một người đội khăn, mặc áo dài, chắp tay sau lưng, quay mặt trông trời lấp lánh sao, bên cái cầu rửa ở bờ ao tối mờ mờ.

Có lúc tôi đã nghĩ đây là một người quen thật của tôi, có thể là họ hàng ruột thịt kiếm ăn ở một phương xa đang hướng về cố hương:

Buồn trông con nhện chăng tơ

Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?

Tôi chỉ lơ mơ nghe thầy giáo giảng các nghĩa, các ý và so sánh hình tượng. Tất cả tâm trí và mắt nhìn của tôi càng như dính vào mạng tơ rung rung trước gió với một con nhện lơ lửng giữa khoảng không đang giơ giơ càng, vừa ra vẻ nghển trông, vừa ra vẻ vờn đón, ngạc nhiên và thất vọng. Tiếng gió khuya vu vu. Và chính bóng người chỉ thấy đầu đội khăn, tay chắp sau lưng mà không thấy mặt kia, đang nấc lên mà gọi trời, gọi sao, gọi nhện.

Đêm đêm tưởng dải Ngân hà

Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn...

Thì ra cái vùng sao như cát, như thủy tinh vãi kia ở trong tranh minh họa là dải Ngân hà? A! Sông Ngân! Sông Ngân! Thế là con sông điển tích mà tôi được biết bấy lâu, hàng năm cứ đến tháng bảy thì có một đôi vợ chồng tên là Ngưu Lang và Chức Nữ được quá giang gặp nhau, và chỉ được gặp nhau có một ngày thôi ấy, lại chính là con sông có một người không có tên nhưng tôi lại thấy quen quen và thân thương, đang ngước mặt lên trông ngắm mà nhớ thương, mà mong đợi. Mong đợi và nhớ thương không tả rõ là ai, là đâu, là gì, mà sao vẫn thấy có một người, có một nơi, có một tình, có một cảnh, vừa man mác, vừa bâng khuâng, vừa da diết vô cùng.

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.

Lại con sông Tào Khê này nữa! Hơn bốn mươi năm sau đấy, tôi đã được tới đứng trên bờ phù sa của nó mà trông trời mây sông nước rồi cả sao khuya. Sông Tào Khê vắt qua huyện Quế Võ tỉnh Hà Bắc, thông ra sông Cầu, nhỏ hẹp thôi, nhưng cũng chảy xiết lòng người, khiến những ai kia đã phải nghẹn ngào:

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

mà nói với sông:

- Ôi! Tào Khê! Nước Tào Khê làm đá mòn đấy! Nhưng lòng nước Tào Khê không bao giờ cạn chính là lòng chung thủy của ta!

Vì nhớ mà buồn, một bài không phải học kỹ mà cũng thuộc lòng ngay, cả nhiều bạn tôi xưa cũng thấy như thế.

Cũng năm lớp sơ đẳng, tôi còn nhớ bài này nữa và nó còn đưa trí tưởng đến những người và cảnh lạ hơn, xa hơn: Lính thú đời xưa:

Ngang lưng thì thắt bao vàng

Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài

Một tay thì cắp hỏa mai

Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền...

Cái người lính không có hồn của cỗ bài tam cúc mà tôi mê mải cay cú chơi cả ngày cả đêm với những người lớn suốt tháng Chạp, tết, sang cả tháng Giêng, tháng hai lúc trước kia, bỗng khác lạ hẳn! Tôi thấy họ thật là người sống, đi đi lại lại, ngoài những nón dấu, bao đạn, giáo và súng hỏa mai, xóc xách, lích kích trên người, lại còn thêm bao nhiêu thứ ở chung quanh, mà thứ nào cũng làm tôi phải suy nghĩ. Nhất là vẻ mặt, dáng người và sự lặng lẽ. Lặng lẽ không phải vì trong thơ, trong bài tập đọc không thấy có câu nào của họ nói, hay ở hình vẽ họ không thấy lắp bắp cái miệng. Đứng bên họ, có người vợ hẳn hoi, và là một người nhà quê rất thân thuộc, chít khăn, mặc yếm, áo nâu thắt vạt, tay bế một đứa bé lên hai lên ba, thằng này nhoài người ra với bố.

Thùng thùng trống đánh ngũ liên

Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa...

Tuy chỉ có hai tiếng "thùng thùng" trong một câu sáu chữ, nhưng tôi thấy âm vang rộn rực cả người, con sông cùng bến thuyền như sắp nhấp nhô cả lên. Và không thấy nét gì là châu lệ trên cả mặt người chồng và người vợ, tôi cũng vẫn nghe thấy tiếng òa khóc. Còn trên thuyền quan lúc bấy giờ, chỉ có mấy hình vẽ tí teo một người lính thúc trống và mấy người lính vác giáo đứng leo heo nhìn lên bờ, cũng không được tả mặt mày, thì lại càng làm cảnh xuống thuyền ảm đạm hơn.

"Nước mắt như mưa...". Tôi đã hỏi ai khóc như thế lúc bấy giờ? Chỉ có vợ chồng người lính thú hay cả mấy người lính trên thuyền? Và sao họ ra đi, chia tay nhau buồn thảm như thế?

Ba năm trấn thủ lưu đồn

Ngày thời canh điếm, tối dồn việc quan

Chém tre đẵn gỗ trên ngàn

Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai...

Lúc còn bé, tôi được nghe bà tôi cho biết mấy điều về lính đi thú. Sau đây, đọc sách, tôi lại được biết thêm vài nét cả về quan đi thú. Là quan thì phần nhiều bị giáng chức vì lỗi nặng, hoặc cũng có thể vì bị gièm pha ganh ghét, kèn cựa. Là lính thú thì hầu hết là nghèo hèn, không có tiền lễ lạt chạy chọt và cũng không dựa dẫm được vào cửa thần thế nào.

Làm thì như thế đấy. Còn ăn:

Miệng ăn măng trúc măng mai

Những giang cùng nứa biết ai bạn cùng...

Đi lên những chốn rừng thiêng nước độc, sống như thế thì cũng chẳng hơn mấy những kẻ tù tội, lưu xứ hay đi đày ở các đồn các trại của họ. Bởi vậy họ càng khao khát và đã cố tự an ủi mình với câu cuối cùng này:

Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng.

Sao? Sao lại là nước giếng trong? Sao lại cần đến nước giếng trong? Và sao lại là "con cá nó vẫy vùng"?

1882, Hoàng Hoa Thám và nông dân Yên Thế khởi sự chống Pháp. 1909, đồn Phồn Xương, doanh trại của nghĩa quân bị phá.

1913, cụ Đề Thám bị mưu hại.

1917, Đội Cấn và các binh lính Việt Nam và các tù án nặng trong đó có cụ Lương Ngọc Quyến và một số nghĩa quân cũ của Đề Thám nổi dậy cướp đồn, phá đề lao, đánh chiếm Thái Nguyên, chống lại rất quyết liệt với quân quan của chính phủ Pháp bảo hộ.

Mấy chuyện chống Pháp oanh liệt trước ngày tôi đẻ không xa, bà nội tôi thỉnh thoảng lại kín kín hở hở kể cho tôi nghe, làm ly kỳ bí mật thêm, có đoạn thành như giai thoại. Hay tôi cũng được nghe kiểu như thế trong những câu chuyện của những khách hàng ăn cơm ngủ trọ ở nhà tôi, và của cả một vài ông bạn rất lạ ở những đâu xa lắm, và đi nhiều nơi lắm, thỉnh thoảng mới lại về ghé chơi với cha tôi một hai đêm.

Tôi đã xuống chiếc thuyền quan với những người lính thú ấy. Tôi cùng họ ngược lên những vùng rừng núi chưa bao giờ được nghe nói đến, hay trái lại, cứ mỗi lần thấy nhắc đến tên thì lại càng thấy xa xôi, hiểm trở, bí mật, dữ dội. Tôi theo họ đi khiêng gỗ, vác nứa và kiếm măng trúc, măng mai. Bên cạnh chúng tôi có cả những người nhà pha đóng xiềng dòng từ cổ xuống hai chân. Họ đã thành những lính khố xanh, khố đỏ cùng những người tù rạc phần đông là nông dân nghèo đói cùng cực quá phải làm liều; những người tù chính họ canh gác và đóng xiềng nọ ngày đêm nghe ngóng vì tin rằng tất cả những vị thủ lĩnh yêu nước như các cụ Đề Thám, Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến vẫn còn sống và đang mưu đồ việc nước. Ngày ấy đã đến. Họ đã phá đồn, phá trại, phá ngục thất, kéo nhau nhập vào quân của cụ Đề Thám, của ông Đội Cấn kéo cờ nghĩa mà "nước giếng trong con cá nó vẫy vùng".

Lại những đoạn phim chiếu cuồn cuộn, bừng bừng trong trí tưởng tôi! Lại những trang tiểu thuyết vào loại Tiếng sấm đêm đông, Châu chấu đá xe mở ra dồn dồn trước mắt tôi trong những tiếng thùng thùng trống đánh ngũ liên không phải giục người đi thú mà gióng lên để tế cờ, đốc quân xuất trận...

Đã bao năm, rừng núi và biển cả đã cuốn hút trí tưởng tôi. Biển cả thì có những Đông Hải long vương, Thủy Tinh cung, cá kình, thiên ngưu, hải mã và một thứ ngọc thần, ai mang được nó trong người đi xuống nước, thì nước phải rẽ ra, như đi trên mặt đất. Rừng thì âm u, cây cao chấm mây, rậm rạp, chằng chịt dây gai, không để lọt ánh mặt trời, hổ, báo, rắn độc không cho một ai vào đây sống nổi. Cửa rừng lại có một bà chúa không có đền, có miếu thờ, chỉ ở một hốc cây hay hòn đá, nhưng bất kỳ ai qua đây mà hơi có ý phạm thượng thôi cũng bị làm chết ngay. Những thợ sơn tràng, những người kiếm củi, kiếm nấm hương, mộc nhĩ, mật ong... được làm ăn, sống hay chết, đều do bà quyết định. Còn núi, núi lớp lớp, tầng tầng, và thường nổi lên một ngọn cao nhất lẩn trong mây trời, ở đây đóng một sơn trại tụ tập các tay hảo hán võ nghệ cao cường, bộ hạ hàng ngàn người vong mệnh chia nhau trấn giữ, rình đợi ở các quãng hiểm trở, sẵn sàng đánh nhau với triều đình vua quan thối nát.

Giữa lúc tôi nghĩ và tưởng tượng như thế, Bà Huyện Thanh Quan đã đưa tôi đến Đèo Ngang. Đến Đèo Ngang đúng vào buổi chiều tà chỉ có hai người trên đỉnh đèo mà ngắm cảnh:

Cỏ cây chen đá lá chen hoa...

Ngày trước tôi đã nghe mấy người thích ngâm vịnh thơ, đến câu này, họ thường tranh luận với nhau đại ý như sau: Bà Huyện nhà ta tả cảnh không thật, không đúng, vì cỏ cây chen đá thì được, chứ lá chen hoa thì phi lý. Hoa gì mà lại nhiều, lại rậm đến lá phải chen? Tôi còn bé, không được phép góp nhời vào những cuộc đấu khẩu, đấu trí về văn chương chữ nghĩa của những người lớn này. Nhưng tôi cứ thấy Bà Huyện Thanh Quan đúng và thơ bà cứ hay, mà tôi không thể phân tích và cũng không muốn phân tích.

Tới năm gần đây, trên một quả đồi của Yên Thế, nhà tôi có trồng thêm mấy gốc đào, gốc mận, gốc ổi, ngoài mấy bụi tre. Được hai năm, rồi ba năm, những gốc mận bắt đầu bói. Đến năm thứ tư, rồi thứ năm, thứ sáu, cây vừa to vừa cao xum xuê, hoa nở rất tốt. Đến giữa năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt đầu xuân 1967, một chuyến đi công tác về còn cách nhà khoảng mấy cánh đồng, tôi trông lên bỗng ngạc nhiên, hồi hộp vô cùng. Một màu trắng tuyết hiện lên trên đỉnh đồi phơi phới ở cả trong vườn và chung quanh nhà tôi. Hoa mận! Hoa mận nở rộ. Rồi bữa cơm hôm ấy ngồi trong nhà nhìn ra, nhiều lúc nắng rực, tôi như lóa mắt vì các cây mận sáng lên, tựa hồ có hàng vạn ngọn đèn treo bật lên với những tua pha lê, còn dưới đất thì cánh hoa che hết như trải đăng ten hay một thứ vụn bánh gì có thể ăn được.

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi...

Chỉ mới là một khoảng vườn mận đấy thôi, chứ là một rừng mai thì còn đẹp biết bao! Ngàn mai trắng xóa, gió xuân lạnh lùng từng cơn, từng cơn thổi dài, và có những cánh chim bay qua. Những cánh chim cũng giang hồ lữ thứ...

Rồi tôi được trông ra biển và nghe biển sóng của Nguyễn Du:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu...

Thêm một lần nữa tôi được thấy cái đẹp. Cái đẹp với bao nhiêu vẻ mà tôi cũng không thể phân tích sâu cũng như so sánh kỹ với những thứ khác.

Tôi không chỉ được hưởng cái đẹp mà mắt tôi có thể nhìn thấy, mà còn cả những cái đẹp tôi tưởng tượng ra và suy nghĩ thêm. Cái đẹp của cảnh vật hình như là phụ. Chính là cái đẹp của sâu xa, của vời vợi, của tuyệt vời trong nỗi nhớ, lòng thương và tình yêu - cái đẹp của Người:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Và chạnh nghĩ:

Sân lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Khiến người nghe hình như trẻ lại thì sự tiếp nhận lại càng linh diệu.

Tới đây tôi xin phép trở lại thêm với một bài tập đọc lớp sơ đẳng của tôi: Thác Khôn.

Hoàn toàn tôi không còn nhớ được một đoạn hay một câu trong bài này, cũng như không biết của ai soạn, ai trích. Hình vẽ cũng bình thường chứ không có núi cao chất ngất, rừng phủ âm u và suối khe cheo leo hiểm trở như của những tranh thủy mạc Trung Quốc hay tranh Tây, in ở các báo ảnh màu. Lời văn cũng thế, không có sự chau chuốt, nhịp nhàng, hoa mỹ như một số bài văn tả cảnh thời bấy giờ. Nhưng lạ thay, tôi vẫn cứ phải bâng khuâng, tâm trí cứ bị hút đi với những chữ, những cảnh của Nó. Thác Khôn của sông Mê Kông. Sông Mê Kông chảy qua Lào, Cao Miên rồi đổ ra biển với chín cửa, chín con sông, gọi là Cửu Long Giang của đất Nam Kỳ, cách tỉnh Nam Định của tôi gần hai ngàn cây số. Thác Khôn nổi tiếng của sông Mê Kông, không phải không xa xôi, không lạ lùng đối với tôi! Vậy mà sao tôi thấy tôi có thể đến với Nó, nhập vào Nó, muốn ngồi với Nó rất lâu mà ngắm trông, mơ tưởng, suy nghĩ về cái được truyền tụng là đẹp của Nó và của dòng sông Mê Kông đẻ ra Nó kia... Thác Khôn! Thác Khôn! Và để rồi đến năm1954-1955, tôi đã làm và làm được bài thơ Cửu Long Giang ta ơi!, coi như bài thơ đầu tay của tôi. Mặc dù đến tận năm này tôi cũng vẫn chưa được đến với những nơi kia!...

Đây Mê Kông và Cửu Long Giang của tuổi thơ tôi.

Đây Mê Kông và Cửu Long Giang của Người, Thác Khôn à!

Ngày xưa ta đi học

Mười tuổi thơ nghe gió thổi mùa thu

Mắt ngẩng lên trông bản đồ rực rỡ

Như đồng hoa bỗng gặp một đêm mơ

Bản đồ mới, tường vôi cũng mới

Thầy giáo lớn sao, thước bảng cũng lớn sao

Gậy thần tiên và cánh tay đạo sĩ

Đưa ta đi sông núi tuyệt vời.

Tim đập mạnh hồn ngây không sao hiểu

Mê Kông sông dài hơn hai ngàn cây số

mông mênh

Nguồn tự Trung Hoa có Vạn Lý Trường Thành

Có Hy Mã Lạp Sơn, Động Đình Hồ, Tây du,

Thủy hử

Mê Kông chảy

Cây lao đá đổ

Lan hoang, dứa mật, thông nhựa lên hương

Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn.

Ngẫm nghĩ voi đi

Thác Khôn cười trắng xóa

Rừng Lào - Miên rộng quá

Dân Lào - Miên mến yêu

Xôi nếp, nước trong sẵn sàng chia bạn đói

Ta đi... bản đồ không nhìn nữa...

Sáng mùa thu lại còn bướm với trời xanh

Trúc đào tươi, chim khuyên rỉa cánh,

sương đọng long lanh.

Ta cởi áo lội dòng sông ta hát

Mê Kông chảy, Mê Kông cùng hát

Rừng núi lùi xa

Đất phẳng thở chan hòa

Sóng tỏa chân trời buồm trắng.

Nam Bộ

Nam Bộ

Chín nhánh Mê Kông phù sa nổi váng...

Ruộng bãi Mê Kông trồng không hết lúa

Bến nước Mê Kông tôm cá ngợp thuyền

Sầu riêng thơm dậy đất Thủ Biên

Suối mát giội trong lòng dừa trĩu quả.

Mê Kông quặn đẻ

Chín nhánh sông vàng

Hồn Nam Bộ kim cương

Nông dân Nam Bộ gối đất nằm sương

Mồ hôi vã bãi lầy thành đồng lúa

Thành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa

Những Hà Tiên, Gia Định, Long Châu

Những Gò Công, Gò Vấp, Đồng Tháp, Cà Mau

Những mặt đất

Cha ông ta nhắm mắt

Truyền cháu con không bao giờ chia cắt.

Ta đã lớn

Thầy giáo già đã khuất

Thước bảng to nay thành cán cờ sao

Những tên làm man mác tuổi thơ xưa

Đã thấm máu của bao hồn bất tử

Những Minh Khai, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong,

Trần Phú

Những bông hoa dân tộc anh hùng

Mười sáu tuổi xanh xanh

Em Đuốc Sống đốt mình phá tan kho đạn giặc

Võ Thị Sáu vành răng cắn chặt

Giữ trung trinh cho đến phút cuối cùng

Đạn giặc xuyên lỗ chỗ ngực măng non

Đỏ thắm nụ cười

Chào Bác Hồ và Việt Nam bất diệt.

Đêm nay

Cửu Long Giang vẫn âm vang sóng cát

Sao khuya lấp lánh

Lửa chài thức sáng, nhịp hát hò ơ

Đồng Tháp xa đưa những tiếng mẹ ru

Hồ Chí Minh thành ca dao bát ngát...

Quê ngoại tôi ở làng Phù Long. Làng Phù Long chung đồng chung bãi với làng Vị Xuyên. Và cả chung chợ nữa: chợ Vị Hoàng. Con sông Vị chảy trước mặt chợ, qua đường phố Hàng Cót vòng ra sau phố Hàng Nâu. Nhà thi sĩ Tú Xương ở phố Hàng Nâu. Năm năm, cứ đến ngày tết, từ phố Hàng Cau chôn rau cắt rốn của tôi lên nhà bà ngoại tôi, mẹ tôi thường thuê xe kéo cho anh em tôi lên Phù Long mừng tuổi họ ngoại. Cái vinh hạnh bưng quả sơn son đựng một chục cam, một chục cau và một cân kẹo Sừa Châu là phần tôi. Cũng vì tôi là anh, cũng vì bưng quả đồ lễ này tôi được phong bao nhiều hơn em gái tôi. Thường thường là hai hay ba xu, xu đồng đỏ ối, cạnh và chữ còn sắc, đề ngay cái năm 1923, 1925 hay 1928, gói bằng miếng giấy hồng điều rất vuông vức.

Ngày ấy tôi chưa biết gì về nhà thơ Tú Xương. Nhưng cái phố quê hương của thi sĩ vẫn có một vẻ gì đặc biệt, làm tôi hồi hộp, u hoài một cách lạ. Những dãy nhà ở đây cũng cổ kính như mấy dãy nhà các phố xưa của Hà Nội. Đã thế lại là những cửa hàng bán toàn những thứ rất thân thuộc, như song, mây, mâm bát, nâu, vỏ, từ cách bày hàng đến đồ đạc và người trong nhà, trông cứ như ở tranh vẽ hay chuyện kể từ đời Cảnh Hưng hay xa xưa hơn nữa. Ngoài ra còn một hiệu bánh khảo nổi tiếng vì ngon, tinh khiết, không bao giờ đơn sai và được coi là gia đình nền nếp: hiệu H.T.

Tôi ôm cái quả sơn, đầy một lòng, tấm áo mới may bằng hàng tô bóng có hoa chìm lại càng đẹp thêm, quý thêm, của tôi thêm! Những tranh tiền tài tiền lộc, những câu đối, những vuông giấy hồng điều nền kim sa chữ đen ánh, những xác pháo, những hình cung tên và bàn cờ kẻ vẽ bằng vôi trắng tinh ở trước hè, bực thềm, những cành nêu leng keng trong những vườn nhà ở sâu phía trong..., tất cả những thứ đó ở quãng phố Hàng Nâu, Hàng Bát, Hàng Cót lên đến nhà bà ngoại tôi, cũng đều khác hẳn, có vẻ tết hơn những thứ như thế ở phố Bôn-be, phố Khách, phố Máy Tơ, Ngã Sáu...

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau.

Từng khúc bốn câu của bài thơ về Tết của Tú Xương, cứ từng năm từng năm trước những ngày Tết và sau những ngày Tết, đã trở lại trong trí nhớ tôi và ngân lên bằng một giọng sang sảng, nghe sao mà thấy chua chát, buồn bực, day dứt và rất lạ, khác hẳn các thơ khác, mặc dầu người nghe và thuộc lòng nó là tôi chỉ mới lên tám, lên chín tuổi.

Phải! Tôi chỉ được học có một bài thơ "Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau" của Tú Xương qua sáu lớp và chín năm ở nhà trường tiểu học. - Tôi bị học đúp ba lần ba lớp! - Nhưng sao tôi cứ thấy có một sức gì nằng nặng ở trong tâm trí tôi với tác phẩm đó, và, tên tuổi Tú Xương cũng khác hẳn với bà Huyện Thanh Quan mà tôi vừa được cha tôi dạy truyền miệng, vừa được học ở nhà trường, nghe giảng kỹ hơn cả, và tôi ngâm nga luôn. Nhất là khi đọc bài đó, thầy giáo tuyệt nhiên không nói gì đến thân thế và sự nghiệp của nhà thơ. (Có phải vì thầy không nghiên cứu hay vì thầy không biết rõ chăng?). Đã thế, ngày đó, tôi lại gần như không được đọc một tập nào có nhiều thơ Tú Xương hay nghe nói một bài giới thiệu nào về Tú Xương cả.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau...

Những tiếng súc sắc súc sẻ hay những tiếng đàn nhạc bát âm càng nhộn nhịp, ríu rít trong những ngày tết và ngày hội hè, khao vọng, đình đám vui xuân bao nhiêu, thì những khúc thơ lạ nọ càng lọng lên bên tai tôi, làm tôi thấy Tú Xương khác biệt, không thường, mà rất gần mình, rất là của mình...

Tôi cũng phải kể thêm rằng, tuy làng ngoại tôi ở ngay cạnh làng Vị Xuyên và tôi thường đi lại đường phố Hàng Nâu có nhà Tú Xương, nhưng tôi gần như không được một lần nào bà con hay khách khứa của cha mẹ tôi kể cho tôi biết một chuyện nhỏ về đời sống và văn thơ Tú Xương!...

1965, trong chuyến đi về Nam Định công tác với nhà thơ Tế Hanh, một đêm thành phố đang căng thẳng đón đánh máy bay giặc Mỹ đến bắn phá, đồng bào sơ tán gần hết, chúng tôi đã tìm đến gian nhà xưa của Tú Xương. Anh bạn trẻ của quê hương Quảng Ngãi đã được cha đặt tên là Trần Tế Hanh để tỏ lòng yêu mến và phục tài nhà thơ Trần Tế Xương kiệt xuất của thành Nam kia, sau khi từ giã ngôi nhà cũ qua bao nhiêu cuộc biến thiên chỉ còn giữ được mấy bức tường và một tầng nhà nhỏ hẹp thắp sáng một ngọn đèn dầu lửa, anh đã ngùi ngùi bảo tôi rằng kỷ niệm dọc đường này sẽ là kỷ niệm sâu thẳm nhất của đời anh.

Tế Hanh ơi! Thế ra chỉ có Tế Hanh giữ kỷ niệm đó thôi ư? Còn tôi, cùng chôn rau cắt rốn với Tú Xương trên đất non Côi sông Vị này, cùng chứng kiến bao nhiêu nghịch cảnh, bao nhiêu đổi thay xé ruột sôi gan, rồi khi lên chín lên mười tuổi, tôi đã được học và học một bài thơ Tú Xương, vậy mà cho tới đêm ấy tôi mới được biết thật nhà và đến trước nhà của Tú Xương... như thế còn tôi, phải, còn tôi thì sao?!

Ngoài những bài được học truyền miệng từ lớp tư đến lớp nhất, tôi còn được học thơ của Nguyễn Khuyến. Nhưng, Nguyễn Khuyến cũng như Tú Xương, tôi hoàn toàn không được biết là ai, là như thế nào cả! Đã thế lại còn có những bài thơ của Nguyễn Khuyến chỉ thấy tên bài mà không đề tên tác giả, nên đến tận phút viết đoạn này, nếu không có những sách mới ra nghiên cứu và giới thiệu Nguyễn Khuyến, thì tôi vẫn cứ tưởng là thơ... của không biết ai!

Ông đứng làm chi đó hỡi ông?

Trơ trơ như đá vững như đồng

Trông ông mà ngán cho ông quá (29)

-----

(29) Bản in của Nhà xuất bản Văn học:

Đêm ngày gìn giữ cho ai đó

Non nước đầy vơi có biết không!

Nước cạn non mòn có biết không?

Cả cô ruột tôi cũng thường đọc mấy câu thơ trên đây khiến tôi thuộc thêm.

Nếu như sắp đến Tết Trung thu, quang cảnh các phố Hàng Thiếc, Hàng Giấy, Hàng Đường, Hàng Vải Màn, Hàng Đàn và các chợ, các hiệu bánh ở rải rác trong thành phố đã làm tôi náo nức mong mỏi bao nhiêu, thì bài thơ Vịnh tiến sĩ giấy cũng góp phần như thế:

Cũng cờ, cũng biểu, cũng cân đai

Cũng gọi ông nghè có kém ai

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng

Nét son điểm rõ mặt văn khôi

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ

Cái giá khoa danh ấy mới hời

Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.

Những bài in trong sách giáo khoa (hình như mấy bài không đề tên tác giả) có năm chúng tôi tập đọc, có năm chúng tôi phải học thuộc lòng. Bài trên có tám câu, nhưng tôi chỉ nhớ có hai câu đầu và hai câu cuối. Tuy vậy, cứ mỗi lần đến tết Trung thu, thì tất cả ý và tứ của thơ Vịnh tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến lại càng thấy rõ, thấy đúng thêm. Vì bàn cỗ nhà nào cũng bày ông tiến sĩ ấy! Đó là ở Nam Định chứ còn ở các thành phố khác thì tôi không dám nói chắc.

Các nhà giàu, nhất là những nhà buôn bán to, ở phố to, và đông con đông cháu, các cháu gái đẹp, gái đảm, gái tài... mặc dầu cỗ đã có những bánh mặt trăng, bánh nướng bằng cái sàng, cái nia, bày với không biết bao nhiêu thứ bánh khác và hoa quả, con giống, đèn các kiểu, các màu, đầy cả ba bốn mặt bàn kê từ trong nhà ra ngoài hè, nhưng vẫn phải có một ông tiến sĩ. Cũng như những nhà chỉ bày cỗ cho con một nải chuối, một quả bòng, mấy quả hồng, hai bát mía tiện ra từng đốt, bổ đôi, xếp thành hình tháp hay bày "to" hơn với một chiếc bánh nướng mỏng như bàn tay và một đôi oản như bánh khảo, thậm chí không có cả chuối, cả bòng, cả oản khảo nữa, thì cũng phải có một ông tiến sĩ!

Trên những bàn cỗ đúng là cỗ, ông ngồi nghênh ngang giữa tấm bánh to nhất, dưới bệ có các long, ly, quy, phượng bằng bột chầu, trên đầu treo các thứ đèn xếp, đèn ông sao, đèn thiềm thừ, cá vàng, cá bạc...

Những bàn cỗ nghèo thì bày ông cao hơn đĩa ngũ quả. Và nhà nghèo quá nữa thì ông ra tận bờ hè, bệ là hai hòn gạch, chẳng có bánh trái gì cả, cùng trông mặt trời ban ngày và mặt trăng ban đêm với mấy đứa bé mũi dãi ngoen nhờn, quần áo rách mướp, lúc đầu rất ghê, tranh nhau khiêng ông, kiệu ông, rước ông, sau thì bỏ mặc ông, trơ trỏng ở đầu hè, xúm nhau chí chóe ăn ốc vặn khêu bằng gai chanh, gai bưởi ở giữa sân trăng, đoạn đưa nhau đi chơi chỗ khác, để ông ở lại với đứa lành nhất, sợ sệt nhất, hay cũng là hạng dở hơi dở hám nhất, là "thần giữ của" trong nhà!...

Còn ông tiến sĩ thì đều một kiểu. Mặt bằng đất thó hồ bột và vôi trắng phếch, lông mày như sợi chỉ, lim dim vừa ra vẻ thú vị, vừa ra vẻ mô phạm. Mũ cánh chuồn. Áo thụng và đủ cả cân đai, cờ biển trên người, trước mặt và sau lưng. Tất cả bằng nứa phất giấy. Nếu đặt cập kênh hay bị gió thổi mạnh là đổ kềnh... Nghe đâu có mấy nhà giàu đã bàn với nhau đặt làm ông tiến sĩ ở bên Tàu hay bên Tây, phỏng theo ảnh của cố ông nội, cố ông ngoại, ngày xưa cũng đỗ tiến sĩ, nhưng khi bày cỗ thấy như thế thì là đặt tượng cúng cụ mất, và trông thế nào ấy, không vui bằng tiến sĩ giấy của ta, nên đành thôi!

Lên lớp nhì năm thứ hai, chúng tôi phải học cả bài thuộc lòng tiếng Pháp. Những bài tiếng Việt thì dài hơn. Nhưng được học thơ ta, tôi vẫn thích, hơn nữa, vẫn nhiều hứng thú, khoái cảm và nhớ lâu. Đến năm này, đọc các tiểu thuyết cũng như đọc sách quốc văn, tôi đã bắt đầu chú ý đến văn, ngâm ngợi văn và hay bình văn với một vài bạn ra điều am hiểu văn thơ, đọc nhiều văn thơ, nhất là văn thơ có vẻ cổ. Chẳng hạn:

Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta

... Cũng có lúc chơi nơi dặm khách

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo

Có khi tầng gác cheo leo

Thú vui con hát liệu chiều cầm xoang

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp

Chén quỳnh tương ôm ấp bầu xuân...

Cho tới năm học bài đó, tôi vẫn gần như không biết gì về tiểu sử và thân thế nhà thơ Nguyễn Khuyến. Thậm chí tôi còn cho Yên Đổ là một người, Nguyễn Khuyến là một người, và không biết Yên Đổ là ai, Nguyễn Khuyến là ai. Những bài tôi học có khi chỉ đề tên Yên Đổ không thôi. Và Yên Đổ được tôi nhớ, được tôi phục, vì là cụ Tam nguyên, đã đỗ đầu ba kỳ thi. Nghĩa là được vào kinh ăn cỗ yến của vua khao, rồi "cỡi ngựa rong chơi trong vườn Ngự Uyển", mặc áo mũ của vua ban, các công chúa trông thèm rỏ dãi!".

Tôi thấy nhà thơ trạng nguyên - tiến sĩ này còn ung dung, nhàn hạ, sướng hơn tiên. Bạn ông cũng vào bậc tiên cốt, tiên khí như thế:

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua

Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết

Viết đưa ai ai biết mà đưa

Giường kia treo những hững hờ

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn...

Càng về cuối, những câu thơ càng man mác và đọc xong, thuộc rồi, càng bâng khuâng:

Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở

Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương

Tuổi già hạt lệ như sương

Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan.

Thế ra không phải chỉ có Khổng Minh khóc Chu Du, Trương Phi khóc Quan Công, mà cả những bạn thơ và là bạn già thân thương khóc nhau, nghe không những buồn, những tiếc, những đau, những xót, mà còn "hay" đến như thế kia?!

Tuổi già hạt lệ như sương... Cánh tay gầy, áo thì rộng, đưa lên gạt những giọt nước mắt giả mù, rồi cầm vội ngọn bút lông viết những dòng chữ cuối cùng cho người tri kỷ. Ở vào một tuổi đã gần đất xa giời, bạn bè thân thiết mỗi ngày một không còn nữa... cụ Yên Đổ ơi! Làm gì mà thơ cụ không thành hồn của một đứa học trò nhỏ yêu văn, và mãi mãi long lanh trong trí nhớ nó?!

Tới năm tôi sắp phải thôi học, bài học thuộc lòng tiếng Việt tôi nhập tâm, vẫn là thơ Yên Đổ.

Một sự tình cờ trùng nhau với khi tôi học thơ Tú Xương, là thời kỳ sắp tết.

Nghỉ học ăn tết thì "Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau".

Nghỉ học ăn tết thì gặp:

Trong thiên hạ có anh giả điếc

Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây.

Anh ta đã "Sáng tai họ điếc tai cày!" khiến cho không phải chỉ nhà thơ mà nhiều người phải: "Lối điếc ấy sau này em muốn học". Và không chỉ "Sáng tai họ điếc tai cày" thôi, mà còn "Khi mọi người nói chuyện và cười cợt thì ngây ra như gỗ, nhưng đêm khuya leo trèo thì thoăn thoắt như khỉ" (30). Rồi lại:

Khi vườn sau khi sân trước

Khi điếu thuốc khi miếng trầu

Khi chè chuyên năm bảy chén,

khi Kiều lẩy một đôi câu

Và cứ:

Sáng một lúc lâu lâu rồi lại điếc

Càng khiến mọi người:

Điếc như thế ai không muốn điếc

Nỗi điếc anh ai học được ru mà! (31)

-----

(30) Tọa trung đàm tiếu, nhân như mộc

Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu.

(31) Mấy câu thơ này tôi cũng ghi theo sự nhớ tự ngày xưa (N.H.)

Vậy mà:

Hỏi anh anh cứ ậm à!

Mô Phật! Mô Phật! Gần đây tôi giới thiệu bài thơ này cho một anh bạn thân Nam Bộ làm nghề nặn tượng chứ không làm nghề văn, thì anh liền chắp hai tay mà vái và đòi tôi đọc lại cho anh chép ngay! Vừa chép anh vừa ngâm nga, lắc đầu tấm tắc và càng ngạc nhiên. Vợ anh, mấy người bạn cùng miền Nam cứ khen hoài khen hoài, cũng đòi anh đọc lại.

... Bài thơ đó tôi học ngày gần tết, và một bạn cùng lớp đã giơ tay xin ngâm theo điệu hát ả đào khi thầy giáo hỏi đi hỏi lại cả lớp xem ai biết ngâm với điệu này để làm hoạt động thêm giờ giải trí của chiều thứ bảy cuối năm.

Có nên nói như thế này không: cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến là một trong những người đã dạy tôi biết cười và đặc biệt biết mỉm cười! Cũng như cụ đã dạy tôi biết tả người rất cường điệu mà vẫn thấy rất thật. Tôi nói rất thật vì trong phần ghi chú về bài thơ này của nhà thơ trào lộng giả mù, bỏ quan, bỏ chức, bỏ dinh, bỏ phủ, bỏ lương, bỏ bổng, bỏ lộc... về quê nhà vùng chiêm khê mùa thối, túng thiếu cùng cực, để không làm việc với giặc, với quỷ ngoại bang kia, có chi tiết sau đây:

"... Ông đồ Cự Lộc, bạn của nhà thơ quê ở Nam Định, đỗ cử nhân đời Tự Đức và được triều đình gọi ra làm quan, nhưng ông giả vờ điếc để lấy cớ chối từ không chịu đi. Nhân đó, nhà thơ làm bài thơ này để chế giễu". (Thơ văn Nguyễn Khuyến - Nhà xuất bản Văn học).

... Người thầy ấy, tôi chỉ được nghe tiếng nói và thơ sang sảng trong không gian, qua thời gian, mà không được biết mặt!