← Quay lại trang sách

Chương XIV

Cha con ông lão Đông và Xin đi cả ngày cả đêm hôm ấy trong rừng. Sáng tinh mơ về đến Suối Cát. Ba người đương líu ríu về kẻ thăm người hỏi, và mọi người đương vừa buồn, vừa căm uất về chuyện con Hiền, thì một bà cụ chạy vào, thở không được, gọi:

- Các cụ các ông các bà ơi! Con chó con của bà cụ Trọng đã về rồi! Con Hiền nó về rồi!

Mọi người choàng lên. Bà cụ trở ra ngoài ban mai mờ mờ. Rõ ràng con Hiền lại nằm phục bên nấm mồ bà cụ Trọng. Rõ ràng cái trán, cái mặt như có bốn mắt của nó. Ông lão Đông nhìn sững giây phút rồi òa lên khóc hô hô. Ông ríu cả lưỡi vừa bổ ra cửa, vừa reo lên: "Hiền ơi! Mày hay là con chó nào đây?...!".

Đúng là con Hiền nằm phục bên nấm mồ bà cụ Trọng chứ không phải là chiêm bao mơ hoảng!

Con Hiền xoài hai chân trước, ấp một bên mặt vào nấm mồ như trước kia nó vẫn ấp chân bà cụ Trọng những lúc bà cụ ngồi khâu hay lúc bà cụ dạy bảo, dặn dò, đe mắng nó xong... Mọi người xô đến lay đầu, lay mình, lay đùi nó. Mãi, nó mới nghểnh lên. Cái đầu nặng nề nó vừa cất khỏi hai bàn chân thì hai bên mép nó xểu dãi ra. Và từ cái vết thương ở trán lúc nó còn nhỏ, máu cứ như đổ. Anh Đông và Xin ôm xốc lấy con Hiền. Một vũng máu đọng lại ròng ròng ở một bên lườn rỏ xuống. Mấy trai tráng vẫn đi săn với con Hiền cũng đỡ lấy nó.

Con Hiền thở rền rền, bíu lấy vai áo anh Đông và Xin. Anh Đông, Xin và các bạn trai tráng vội xé áo, xé quần quấn hai chỗ phạm của nó rồi lấy võng vực nó lên. Họ về nhà gánh nước pha muối rửa ráy và lấy thuốc lá rịt cho con Hiền xong, rồi võng nó đi ngay. Xin, lưng cõng cụ già Trọng, tay chống cái thuổng quay ngược lưỡi lên như cầm một thứ khí giới, đi theo võng con Hiền. Anh Đông quẩy các bọc, các bị quần áo và đem hai con chó săn đi trước mở đường.

... Hai ngày sau, khi đên khuya đến, cả xóm cửa rừng Suối Cát đã gồng gánh cày bừa, dắt trâu bò đi hết. Họ đi khỏi thì sáng ra người ngựa lại rầm rầm từ trên châu kéo đến. Lần này thêm không biết bao nhiêu súng ống, giáo mác, tất cả lính tráng của châu và tất cả tuần dõng của các làng kéo đến. Người reo, ngựa hí, chó sủa, gươm giáo loảng xoảng vây kín cửa rừng.

Nhưng xóm Suối Cát không còn một ai. Nhà ở, cái thì sập nát, cái đốt trụi. Những đống củi hãy còn cháy âm ỉ, rên rỉ khói. Đồ đạc không đốt thì cũng bẻ, cũng đập, cũng chặt hết. Không còn một cái ghế con, một niêu đất lành, một chiếc bát mẻ.

Bọn lính tráng phu dõng sục cả vào những làng chung quang bắt người tra hỏi. Nhưng không ai nói dân Suối Cát đi đâu. Không biết! Không biết... Ai cũng chỉ có câu ấy...

Dân xóm Suối Cát đi đâu?

Rừng núi đất nước của tổ tiên biết bao nhiêu phương đi, bao nhiêu chỗ trú! Họ lại đến một nơi xa khác. Họ lại bắt hoang dại biến thành đất sống. Họ lại bắt rừng sâu, lũng hiểm thành ruộng bãi, thôn xóm. Ở đây mồ hôi họ lại chảy ra và sẽ lại làm nên cơm áo. Ở đây họ lại càng thương yêu đùm bọc nhau.

Họ bỏ Suối Cát ra đi cũng như tất cả các thôn xóm cầy sâu cuốc bẫm đã có với nhau những khoán ước, những lời nguyền cha truyền con nối là phải cưu mang nhau, làm ăn sinh sống, hoạn nạn không bao giờ rời nhau, không bao giờ chịu hèn nhục, không bao giờ chịu những cảnh tàn bạo, bất công, nô lệ...

5-1960 - 2-1963 - 4-1969