Nguyên Hồng Toàn Tập 2

Nguyên Hồng Toàn Tập 2

Tổng số chương: 108

Gần tới cầu Caron, Trung đứng lại dưới một gốc xoan tây thưa lá. Trung chau mày và tự nhủ:

Đi đâu bây giờ?

Trời xám nhờ. Đường sông Lấp chạy dài trong một thứ hơi bạc mờ lạnh rợi. Gió thổi vun vút, hắt phần phật những lớp mưa phùn lấm tấm xuống mặt nước nâu lờ chững chững của dòng sông chật hẹp. Ở bên kia chợ Sắt và phố Khách, người và xe cộ dồn dập ầm ầm qua cái cầu tủn mủn. Các bóng dáng vội vàng và chen lấn lướt trên nền mưa bay lất phất, xuống tới đường thì tỏa ra mấy ngả, mờ chìm dần vào hơi nước và bóng chiều từ từ lan rộng.

Trung nhìn một gánh những thùng mẹt không vèo qua mặt anh với tà áo nâu soàn soạt.

Trung phân vân giây phút rồi kéo cao cổ áo, bước vội lên cầu. Gió thổi mạnh hơn. Những hạt nước lạnh buốt xỉa rát cả mặt Trung và thấm ướt cả gáy. Trung mím môi, càng rảo gót. Lòng Trung bỗng thắt lại, anh rung cả tâm hồn vì chợt nhớ đến một năm còn nhỏ. Dạo ấy cũng về tháng Chạp, trời vừa nhá nhem tối, một bà cụ già dắt cháu lẫm chẫm hỏi thăm hết người này đến người nọ. Mãi sau bà mới được một cụ ăn vận gọn gàng đi chợ về đưa đến một đầu phố, chỉ:

Cô cứ đi thẳng đây thì tới cầu Caron.

Không biết thuở đó bao nhiêu năm, cầu lúc bấy giờ cũng bằng sắt đen gỉ và ván gỗ xộc xệch, nhưng ọp ẹp tưởng có thể sập mất. Trong khí lạnh và gió lồng lộn tung lá khô và rác đường, hai bà cháu run cầm cập, còm cõi ngồi chờ dưới một mái hiên.

Đến lúc đèn điện vùng bật sáng, hai bà cháu ngơ ngác, bâng khuâng hồi lâu mới thấy một người đàn ông đứng tuổi, gầy, cao và gương mặt nâu sạm, hấp tấp xách cái gói ở một cổng lớn ra, nhớn nhác trông rồi chạy như vồ lấy bà cô, đưa cái gói và dặn dò cặn kẽ lắm. Bà cô rơm rớm nước mắt, nức nở mãi mới thốt ra được một câu:

Thôi, bố mày chịu khó làm ăn ở ngoài này đến ngoài Giêng, để trong nhà thu xếp cho được thật yên rồi hãy về.

Đứa cháu bỗng khúc ủa lên, chới với theo người đàn ông. Bà cô già nghẹn ngào không nói được nữa và cũng mếu máo. Một lúc lâu, bà bỏ cái gói của người đàn ông đưa vào cái bị, vừa lấy dải yếm chùi nước mắt, vừa dắt cháu đi ngược lên nhịp cầu tấp nập và ầm ĩ. Thằng bé mấy lần quay lại, nước mắt giàn giụa, nhìn theo người đàn ông đi đến một gốc cây thì dừng, vẫy tay:

Con và bà về nhé! Mau đi không tối mất và nhỡ đói.

Sau này, khi Trung đã lớn và đi học, mới rõ năm ấy vì cày cấy thua lỗ, bố Trung đã cầm bán ruộng vườn và còn mang nhiều món nợ của mấy người quỷ quyệt, tàn ác, phải bỏ làng trốn ra tỉnh để làm thuê và chạy vạy, gỡ khổ nhọc cho gia đình. Giờ hồi nhớ, sinh nghẹn cả lòng trước sự chua xót và đau đớn của một người cha đã phải lìa bỏ quê hương, xa mẹ già yếu, xa vợ và con nheo nhóc, lao mình vào những nơi chưa bao giờ biết để kiếm sống, cả trong những ngày Tết mà hầu hết mọi nhà đều tưng bừng, ấm cúng.

Trung thở dài, đi nhanh hơn và rẽ ra phố Hàng Gạo vẫn nhộn nhịp người thúng mủng đong cân. Chợt gió thoảng đến mùi nhang thơm nức. Dưới mái hiên, từ một bệ thờ ngay ngoài cửa gác cao của một hiệu Khách, vài chiếc tàn vàng giấy khô giòn bay chơi vơi trong mưa bụi. Trung chợt thấy khóe mắt nhức nhối sau khi anh thầm tính:

Sắp sửa cũng đến giỗ mẹ mình rồi.

Thêm mấy gợn xót xa cứa dài lên lòng Trung, làm Trung bước dài luôn mấy bước. Đồng thời, bao nhiêu căm tức lại xâu xé tơi bời cả đầu óc Trung. Trung nén hơi thở và bật lên một câu ngắn:

Khốn nạn!

Tới đầu phố Hàng Cháo sáng trưng và vang vang tiếng gọi tính tiền và thức ăn, Trung đứng lại tránh một ô tô bóng loáng vun vút qua ngã tư. Đi thêm được một quãng, Trung giật mình vì đằng sau có tiếng gọi anh. Quay lại, Trung nhận ra Hữu đứng vểnh váo trước một tiệm ăn. Cổ hắn quấn cái khăn len to sụ và màu xám làm chết hẳn nước da sạm đen, và làm húp lại khuôn mặt gầy choắt. Tưởng Trung chưa nhìn thấy mình giữa lúc tranh tối tranh sáng này, Hữu đi nhanh lại lay vai Trung:

Thế nào anh, nghỉ việc rồi chứ?

Trung muốn giấu Hữu nhưng sau anh gật đầu và ngập ngừng:

Phải! Nhưng sao anh biết?

Hữu mỉm cười:

Tôi còn lạ gì! Cai Sáu nó đã nói ráo trước từ hôm kia. Và người nhà nó đã nhận tiền và dẫn thằng cha kia vào tập thử việc rồi mà!

Nhìn mạnh và sâu vào mặt Trung, Hữu nói gằn:

Cần gì! Không làm đây thì chỗ khác. Đui què đâu mà sợ chết đói?!

Trung yên lặng. Hữu chợt dịu hẳn tiếng đi:

Áo anh sao ướt đẫm thế kia? Anh vào đây uống chè với tôi chờ một lúc mưa ngớt hẳn đã.

Vừa nói Hữu vừa phủi những bụi nước lấm tấm trắng ở vai áo Trung và giục:

Đi anh! Ngoài này lạnh quá!

Vào trong hiệu, Hữu kéo thêm ghế bên cái bàn có một bọn đương ăn:

Anh ngồi đây.

Trung cúi chào. Hữu cầm lấy mũ của Trung treo lên một cái mắc chạy dài lơ lửng ở giữa nhà, đoạn quay lại nói:

Anh Trung cùng làm với em một sở, anh chị ạ.

Một người đàn bà thắt khăn vuông ba ga đen nhỏn, mắt sáng và sắc như nước, ngước nhìn Trung. Sau đó, y cau có bảo chồng:

Tầm rồi đấy ông Cả ạ, có mau lên không? Gớm! Mình lần chần mãi.

Người đàn ông vận áo dạ và lông mày rậm, liền lườm vợ. Đôi mắt đỏ như máu của y mở trừng trừng nhìn ra phía Hữu:

Tầm rồi cơ à, hả chú?

Hữu chưa kịp trả lời, y quay đầu đũa và hất hàm với người ngồi bên phải Trung:

Chú Kệ ngồi xích lại bên anh chị đây này. Chen chúc nhau thế kia thì gắp ghiếc thế nào được?

Và như đã quen thân Trung, y hỏi:

Kìa! Chú... chú gì nhỉ?

Hữu vội đón lời:

Anh ấy là anh Trung, anh Cả Liên ạ.

Cả Liên nói tiếp:

À chú Trung, ăn đi chứ. Không! Hãy uống tý rượu cho nó nóng đã.

Cả Liên run run tay dốc hết cả cút rượu vào chén tống, đưa cho Trung:

Uống đi chú, nhấm nháp bừa đi cho vui.

Anh vội đón chén rượu, ngập ngừng mời mọi người. Vừa để lên môi, hơi rượu cay xộc lên tận óc Trung. Trung nhắm mắt tợp một hớp và nuốt ực. Dạ dày Trung sủi sùng sục và choáng váng thêm sau khi chất ngọt và thơm của sườn xào chua chảy xuống, nghe thấy rõ ràng kêu rào rào. Trung chợt có một ý nghĩ bâng khuâng và tự hỏi:

Sao cứ những lần như thế này mình hay gặp Hữu?!

Cả Liên bỗng hỏi Trung:

Tầm chiều bây giờ năm rưỡi hay sáu giờ hả chú?

Thưa bác năm rưỡi.

Vợ Cả Liên uống nước xong, lấy trầu cau bỏm bẻm nhai vừa sửa mái tóc soi trong chiếc gương tròn, nhựa hồng phớt:

Đã sáu giờ rồi! Trời rét chúng tôi thật.

Hữu vội nói:

Không! Làm gì đã đến sáu giờ.

Vợ Cả Liên hất hàm:

Thế sao bác ấy...

À... anh ấy vừa phải nghỉ việc. Bây giờ chỉ độ năm giờ là cùng.

Vài người đàn bà quẩy gánh không đi qua. Vợ Cả Liên nói như với mình thôi:

Phải rồi! Mới tan chợ. Vậy dưới ấy chắc chưa có gì.

Hữu đã rót thêm rượu vào chén của Trung và hỏi:

Thế nào, anh đã định xin làm ở đâu chưa? Và kìa, uống và gắp đi chứ.

Trung lại phải nâng chén. Lần này vị cay xé lưỡi của men nồng bốc ngùn ngụt lên tới đỉnh óc anh. Anh phải uống vội như người uống thuốc đắng và để lấn át cái cảm giác nóng rợn này, Trung xúc hai thìa đầy mỡ xào vào bát, ăn gọn một miếng. Rồi Trung nói nhỏ với Hữu:

Mai kia tôi định về quê, anh ạ.

Về quê à? Về quê làm gì?

Hữu, mắt sáng hẳn lên, thở hổn hển:

Ừ, như anh không làm ở tỉnh thì về quê cũng sống, còn như tôi...

Hữu ngừng lại và yên lặng một lúc. Hữu thấy một người như Trung dù lâm phải bước nào cũng vẫn không đến nỗi trơ trọi và khổ sở như mình. Thì ra Hữu vẫn đinh ninh rằng anh đầy đủ cả gia đình và có căn bản ruộng vườn ở cái nơi đã chôn rau cắt rốn ông cha mình, mình, và có lẽ rồi cả con cháu mình. Thực ra Trung phải nói tránh là về quê để đỡ ngượng với Hữu, với vợ chồng Cả Liên và Kệ, anh chàng to béo và mắt ti hí, trông đầy vẻ gian ác kia. Giờ, Trung có còn một ai là ruột thịt và một tấc đất nào đâu? Họ hàng, mấy người chú, dì ấy, dù Trung có chết, được tin họ chỉ "tội nghiệp" và chẹp miệng là đã thương xót và nghĩ đến Trung lắm đấy. Ngờ đâu, câu nói trên kia đã đánh thức dậy trong lòng Hữu bao nhiêu thèm muốn tưởng như đã tắt, và lại cũng làm Trung bùi ngùi thương cho mình, càng thấy cô độc và lạnh lùng với men rượu cay nồng giữa mấy người ngồi chung bàn mà Trung sợ sệt thấy xa cách mình quá đỗi.

Chai rượu trắng đã cạn và những đĩa nhắm chỉ còn trơ chọi những miếng xương bì. Tuần nước chè và bánh ngọt xong rồi. Cả Liên cởi phắt chiếc áo dạ cổ tròn, đưa như quăng cho vợ:

Mình về nhà trước với chú Kệ nhé. Tôi còn xuống dưới ấy đảo qua một chút đã.

Vợ Cả Liên đón lấy áo, gấp đôi lại trên cánh tay. Xoảng! Một tiếng lạnh và giòn dội lên. Kệ vội cúi nhặt cái vật ở áo rơi ra. Anh liền liếc nhìn. Đó là một lưỡi dao sáng loáng. Nó chỉ dài hơn gang tay, mỏng dính và nhọn hoắt. Cả Liên hất hàm, nháy Kệ, rồi cười to:

Chú cầm lấy "con bút" này về gài lên kẽ liếp ở đầu giường cho anh, để đêm chị chú khỏi giật mình.

Vợ Cả Liên lườm một cách đong đưa:

Thế mấy giờ mình về, có phải mua thuốc không, hay đêm nay anh em lại chết dí ở tiệm thì thôi?!

Trung nhìn nhanh Cả Liên. Đôi môi y xám xịt, giọng khàn khàn: một người nghiện nặng không thể lầm được. Đuôi mắt xếp nếp nhiều và hai vệt lằn ở gò má bên phải và gần cằm, tỏ rằng y ngược ngạo và già dặn. Thỉnh thoảng y nhấc mũ dạ lên gãi, để lộ mớ tóc lởm chởm. Trung ghê rợn hơn vì chắc chắn y vừa ở tù ra. Trung nhìn thoáng thêm cô vợ y và nảy ra ý nghĩ:

Phải là một ả giang hồ, không sai được!

Người hầu bàn đã đến, xếp đĩa bát và tính tiền. Hữu vội móc ví và rút ra mấy tờ giấy bạc. Vợ Cả Liên gạt ngay tay Hữu, lườm dài:

Chú Hữu! Chú để anh trả.

Cả Cả Liên cũng trừng mắt trông Hữu. Y đứng dậy gừ gừ mấy tiếng rồi ra quầy ngoài. Vài anh xe nhao nhao lên mời. Vợ Cả Liên quay lại:

Cả chú Hữu cũng đi với anh nhà tôi chứ?

Hữu, hai tay đút túi quần, khật khừ lắc đầu:

Không chị ạ! Đêm nay em xin phép chị đi chơi với anh Trung.

Cả Liên nhảy phóc lên một xe, duỗi dài chân ra:

Đêm, anh tìm chú ở đâu?

Thôi, anh đừng tìm tiếc gì cả. Chúng em liên miên suốt đêm, biết đâu mà tìm.

Hữu và Trung chào vợ Cả Liên và Kệ xong, cùng bước đều. Trời tối. Mưa phùn đã tạnh nhưng gió vẫn ẩm ướt. Nền mây đen nhờ lúc đó đổ thấp hẳn xuống những nóc nhà có đèn sáng. Riêng một góc trời bảng bạc rồi mờ dần vào lớp sương. Hai người cùng thấy lạnh, cùng yên lặng. Hữu tiếp thuốc lá cho Trung đoạn đi sát cạnh Trung, hỏi bằng giọng thân mật:

Ngày mai anh về quê à?

Lúc đó kim đồng hồ treo ở một cửa hiệu mới chỉ sáu giờ mà cả con đường ngoài bờ sông chỉ còn lác đác vài bóng người và không một chiếc xe như là quá khuya. Vài tiếng rao hàng ở thuyền gỗ dưới sông đưa lên, khàn khàn và uể oải. Trung đưa mắt nhìn những ngọn đèn điện bên này và bên kia sông, vàng nhờ và hiu hắt trong những làn hơi xám đục và chập chờn.

Thế nào anh, mai về quê à?

Trung giật mình vì câu hỏi dồn dập thứ hai này của Hữu. Anh luống cuống:

Chưa chắc anh ạ! Nếu đây có việc...

Rồi hai người cùng nhả ra hơi thở dài rất rõ. Giữa lúc ấy, văng vẳng, xa xôi, tiếng còi tu tu... Hữu nói tiếp:

Nhưng nếu về, anh có ra đây nữa không?

Thường nhật, trong xưởng, nhiều khi sự săn sóc của Hữu đối với Trung, thường làm Trung chán ghét. Hữu vốn bông lông, tuy là thợ đấy nhưng nào nghề nghiệp có thạo, chỉ mồm miệng đỡ chân tay. Hữu một phần lớn không sống với số tiền lương mà chỉ do sự kiếm được của cờ bạc và những mánh lới chơi bời khác. Như thế, Trung cho rằng Hữu có thân với mình cũng chỉ để cám dỗ mình vào các cuộc ăn chơi hay lợi dụng mình thôi. Nhưng nay, sự vồn vã hỏi han của Hữu, Trung thấy có tính quyến luyến thành thực. Túi rỗng đột như Trung, trông mong gì trả lại. Và, với sự giao du hẹp hòi và tính tình khờ khệch của Trung, một kẻ lọc lừa dại gì đặt vào đó những sự tìm tòi kiếm chác cho mình?

Trung bùi ngùi, anh muốn Hữu hiểu mình, không chút giấu giếm, nhất là bây giờ, nghĩ lại Trung thấy ngượng và hối hận. Trước kia, đã nhiều phen Trung lộ hẳn vẻ khinh miệt Hữu trước mặt một số người: "Các anh xem, nó có bộ mặt gian giảo và những điệu bộ cắc cớ, trông ghê sợ là! Chẳng khác gì thằng du côn!"

"Chẳng khác gì thằng du côn", phê bình Hữu như thế, dù không muốn Trung cũng đã tỏ ra mình hơn vượt hẳn Hữu về nhân cách và tính tình. Anh vừa đứng đắn, vừa có học thức nghĩa là có thể nói được tiếng Pháp: một điều quý hiếm trong những bọn thợ nghèo.

Trung nín thở. Anh không dám hồi tưởng thêm vì lo sợ thấy hình như Hữu biết được ý nghĩ của mình. Trung vội cúi mặt xuống, thở gằn ra một hơi rồi chẹp miệng, thong thả buông tiếng:

Rồi phải ra chứ, ở mãi nhà sống và chịu sao được?

Buột miệng, anh nói không kịp kìm hãm:

Vì có gì là lạ, tôi cũng như anh...

Hữu cướp lời:

Như thế nào được?! Tôi là một thằng không cha, không mẹ, không vợ con, anh em, họ hàng gì, ra đây với hai bàn tay trắng, đến bây giờ vẫn trơ trọi và trần trụi. Tôi sở dĩ phải làm việc nấn ná và sống đến ngày nay chỉ vì...

Hữu ngừng lại, nhưng không để Trung phải hỏi, anh vội nói tiếp, tràn qua những hơi thở nồng men rượu:

Chỉ vì muốn vui với các anh em quen biết cũng cùng khổ như mình. Nếu không, ở cái tình cảnh tôi, tôi sẽ đi bừa đi, muốn tới đâu thì tới, muốn thế nào thì thế!...

Hữu im bặt, còn Trung, trống ngực đập dồn dập, bọng nước mắt nhói nhức chỉ chực vỡ ra. Qua cửa bốt cảnh sát, chiếc đèn xanh nhạt treo giữa cổng, lờ mờ hắt dài bóng hai người xuống mặt đường ướt loảng vì nhờn dầu mỡ sau một buổi dài tải hàng hóa chuyển ở tàu lên.

Một luồng gió lồng lên, rào rào. Những chỏm cây lao xao, nồm lộp độp lá và nước xuống đất. Hữu vội ngẩng lên trời đen kịt và vang vang tiếng gió:

Có lẽ sắp mưa to.

?!!!

Hữu nắm ghì lấy cánh tay Trung:

Anh ạ, thôi đêm nay đừng về nhà trọ nữa, đi chơi với tôi.

Trung chưa kịp đáp, vòng tay Hữu càng khoá riết:

Thế nào anh cũng phải đi với tôi chơi hết đêm nay.

⚝ ♪ ⚝

Danh sách chương


Sách tương tự