Sóng Gầm Chương 2
Dâng gánh một bên cái hòm kính đựng diêm, thuốc lào, thuốc lá, một bên cái giành nước. Hôm nay nấu ấm nhỏ, bên giành nước nhẹ, Dâng phải thêm một hòn gạch cho cân. Cụ Ước nhìn theo đứa cháu gái họ, vội gọi:
- Dâng ơi! Mày tha thêm cái hòn gạch quỷ ấy làm gì cho tội thân?
Dâng cười:
- Khốn nhưng gánh lệch đi nó thế nào ấy. Ông có sợ mất hòn gạch đẹn bu gà, để lúc cháu về cháu kiếm hòn gạch hoa đền ông. Cháu biết khối chỗ gạch đẹp.
Dâng toan bước, cụ Ước lại gọi:
- Dâng này! Mày phải cẩn thận hai bó hoa của cô ấy nhé. Để ở trên cái bờ giậu tầm xuân ấy. Không cho ai mó máy, xem ngửi gì cả.
Cụ Ước cúi ho mấy tiếng khản khản, vuốt vuốt những cái nghẹn đưa từ bên trái ngực đưa lên; ông cụ lặng đi giây phút cố trấn đi cái choáng váng cứ rình kéo người ông cụ sập xuống. Giọng ông cụ càng thều thào:
- Cô ấy có đưa tiền thì phải cất vào túi trong và cài kim băng, không kẻ cắp như rươi, mày chỉ nghênh đi một tí là nó xẻo ngay. Rồi khi bán hết hàng thì nhớ đến hàng cơm bà Béo gần đấy, mua bọn lái trọ ở hàng hai cái nón cho mày một cái, con Ngọt một cái. Mua cả guốc nữa mà đi.
Tuy đã dặn kỹ nhưng khi vào nhà nằm, cụ Ước vẫn còn canh cánh tiếc không dặn thêm nữa. Nhất là những bó hoa đưa cho Huệ Chi mà hôm nay lại là ngày thứ sáu đầu tháng.
Có đến hơn năm nay ông cụ mới lại nghỉ nhà. Ông cụ vẫn không thấy ốm. Chỉ thấy mệt thôi! Mệt như người hết hơi vậy. Từ hôm qua giở giời ông cụ lại càng ho, càng mệt. Dâng ra đi, gánh hàng nhẹ lâng trên vai. Đôi mày rậm bạc phơ rủ cả xuống mắt và cặp mắt thì lóng lánh như nước của cụ Ước còn đi theo thấp thoáng ở trước mặt Dâng một quãng rất xa rồi mới chịu chìm giữa những hình ảnh rào rào cuồn cuộn của buổi sáng.
Mẹ La xách làn đi cạnh Dâng. Mẹ đội cái mê nón, áo rách cụt tay, cái quần thâm ngắn cũn bạc màu, vá đùm vá đụp, trông xa mẹ giống như một ông lão câu cá. Nhất là khổ người mẹ cũng gầy còm, bé nhỏ khòm khòm. Vừa đi mẹ vừa chuyện, nhiều lúc còn bắt cả nhời những người đi trước tuy mẹ chẳng quen thuộc gì. Mẹ cười nói nở nang cứ như gạo vàng khi bọn trai gái phu hồ ở trong ngõ đi ra nhập bọn. Có mấy người réo hẳn tên mẹ lên và gọi mẹ bằng "bá": "Bá La ơi! Lão Hươu nhà "bá" lại sắp lần về đấy phải không?"
Cũng giờ này thường nhật Dâng ra đi. Hôm thì ra Sáu Kho. Hôm thì lên chợ Sắt hay bến tàu Nam Định. Ra Sáu Kho, bến tàu Nam Định, Dâng cũng đội than như mẹ La. Còn ở chợ Sắt, ở đầu cầu Carông, được việc gì Dâng làm việc ấy: gánh gạch, gánh rau, gánh mía, có khi đội thúng cắp rổ cho người ta đi chợ. Không ai thuê thì Dâng lại kiếm củi vụn củi dạt về đun. Việc Dâng mong nhất là được đội than. Làm khoán thì ra món, làm ngày thì có công. Chứ làm tạp nham thì chẳng vào món nào cả, vừa phải tranh nhau với bọn trẻ bấu sấu thì Dâng sợ lắm. Nhất là cắp rổ, đội thúng, Dâng chỉ ngay ngáy lo mất thịt cá thức ăn của người ta. Nhiều bận Dâng lại còn bị chúng nó khoèo chân, xô đẩy tưởng đến ngã đổ vỡ hết mất!
- A! Cái con trán nứt này nó làm bộ chúng mày ơi! Cái con trán nứt nó lại được cắp rổ cho những như... bà phán, bà tham chúng mày này...!
Bước chân Dâng hôm nay nhịp nhàng và mau quá. Dâng hình như không thấy chung quanh mình có những gồng gánh xe cộ, người đi làm, đi chợ, không thấy những tiếng ồn ào và không thấy cả Dâng đương có gánh hàng trên vai nữa. Một cô Dâng xinh đẹp, gọn ghẽ, xa lạ cứ đi con cón ở trước mặt Dâng, ở liền bước Dâng. Cô Dâng này có chiếc nón lá trắng nõn bóng như lụa, quai bằng nhiễu xanh da trời đội hơi nghiêng dưới trời nắng. Cô Dâng này đi đôi guốc nước sơn còn nham nháp, quai da láng cũng nõn như lụa, bước cứ giòn như phách reo trên bờ hè.
Dâng tính nhẩm như thế là đúng sáu tháng Dâng mới lại có nón mới. Còn guốc, từ cái Tết năm mẹ Dâng còn sống, mẹ Dâng sắm cho Dâng được một đôi thì Dâng được biết đôi ấy là một. Còn Dâng đi làm chỉ đi đất. Tối về nhà rửa chân xong vào giường ngồi thõng chân xuống, chờ cho khô hay vội quá thì chùi chùi vào cái chổi lúa rồi đi ngủ. Có lần dọn hàng cho "ông", Dâng bắt được không biết của ai bỏ quên một đôi guốc đóng đót da, quai bằng da láng hẳn hoi, chỉ mới hơi vẹt ở gót. Đôi này đệm gót lại và đóng thêm mỗi bên quai một chiếc đinh thì còn đi được ít ra cũng ba, bốn tháng.
Giấu đôi guốc dưới giành nước đem về đến nhà, Dâng nghĩ đi nghĩ lại liền cho cái Ngọt. Rồi những hôm giời nắng, đường nhựa chảy vữa ra, còn bờ hè xi măng thì nóng như chảo rang, lúc về tầm trưa và tầm chiều đi chân đất, hay những hôm kỳ tiền, Dâng thấy chị em ai nấy đều nón mới guốc mới đi đường cười nô chạy đuổi ríu rít với nhau, Dâng lại nao nao cả người. Dâng lại tự nhủ bao giờ có được món tiền thì thế nào Dâng cũng phải mua. Nhưng từ ngày ra Hải Phòng, Dâng không có kỳ tiền nào làm được lấy năm buổi cả, và cũng không có phiên chợ hay chuyến đò nào Dâng làm ra món hết. Đội than, kỳ được đồng hai, đồng ba là nhiều nhất, Dâng định đưa về cho bố một đồng hay đồng mốt thì nhà lại nợ tiền gạo lửa đồng sáu đồng bảy. Gánh hàng, đội thúng, cắp rổ chỉ được ba bốn xu thì lại nào phải mua dầu tây, mua mắm muối. Có những sáng đội than, gánh rau, Dâng đi trên máng cầu, đói rã cả ruột, mắt nổi hoa, đầu gối chỉ chực khuỵu xuống, tưởng như mình phải đi cầu vồng mà dưới sông là dầu sôi lửa cháy, chó ngao chỉ rình người ngã cắn xé, vậy mà Dâng vẫn cố nhịn đến trưa về ăn cơm, lại để dành cái đồng xu định ăn quà nọ tích dần mua nón, mua guốc. Hàng tháng mới được một hào, Dâng đã nhắm chọn hôm thì guốc, hôm thì nón, sắp sửa mua nhưng rồi thì lại tiền gạo... tiền mắm muối... tiền dầu... tiền củi. Chả nhẽ còn mỗi bữa tối cả nhà lại nhịn đói? Chả nhẽ lấy tay đút vào bếp làm củi đun? Chả nhẽ được miếng cơm nóng ăn lại chỉ có tí muối? Chả nhẽ để bố làm lụng mò? Chả nhẽ...
Dâng đã đi khỏi ngã tư Cầu Đất.
Sau lưng Dâng, tầng mây dần sáng. Khói nhà máy xi măng bay trắng một vùng giời. Những làn khói cuồn cuộn làm nhòa những lớp mây và cuốn cả những lớp mây đi. Phút chốc con sông Lấp đã dào dạt ở trước mặt Dâng. Nước lên. Dòng sông sang thu xanh nhờ, lấp loáng rạng đông, sóng vỗ như đập áo vào bờ. Gió lạnh lạnh, mặn mặn. Cây cối xào xạc. Những dây buồm rung rung leeng keeng. Dâng rẽ xuống lối cầu Carông đi ở bờ hè bên này. Bên kia là Vườn hoa đưa người.
Cái vườn hoa không có một đám cỏ, một luống hoa nào cả. Đất rắn đanh như xi măng. Toàn một giống cây núc nác tây vỏ gai, lá nháp, không thấy nở hoa mà lại có quả và quả thì đã khô như gỗ. Cũng có mấy hàng nước dọn ở đây. Khách uống không có. Vẫn chỉ thấy lảng vảng mấy mụ đưa người và mấy con bé kiếm tiền cũng bằng trạc Dâng, quần áo xộc xệch, cáu xỉn, nhàu nát, mặt mày bệch bạc võ vàng, vẻ mặt như ma, như tinh. Những người chầu chực đi ở bọn năm người, bọn ba người, đàn bà con gái trẻ con, cụ già lẫn lộn, vẫn ngồi rũ ra ở những gốc cây gần hàng nước. Vài chỗ vẫn còn những người nằm co quắp. Kẻ thì đắp chiếu, người ôm con, người hí húi không hiểu đun nấu gì, bếp bằng gạch, khói bếp khét lẹt có cả mùi hắc ín, mùi lông gà, lông vịt.
Đến quãng này, mẹ La đi tắt qua vườn hoa lên lán than chợ Sắt. Còn Dâng vẫn đi thẳng và bắt đầu phải chú ý tránh những người gồng gánh xuôi ngược. Cả bờ hè và dưới sông đều tấp nập rồi.
Có mấy người trông thấy Dâng gánh cái tủ kính và giành nước của cụ Ước thì hỏi gọi véo von. Dâng không biết là ai cả, sượng sùng chào lại họ. Dâng đỗ gánh ở đầu một ngõ trông ra bờ sông. Dâng đương luýnh quýnh dọn hàng, lại một người chân sào hỏi:
- Hôm nay cụ Ước không đi à? Cho tôi bát nước nào.
- Ông cháu mỏi nghỉ một buổi ạ. Các ông chờ cháu vào ngõ lấy ghế các ông ngồi.
- Vẽ chuyện! Ngồi hòn gạch uống cũng được. Rót cho chúng tôi ba bát.
Dâng phải khẩn khoản nói với mấy người khách quen nọ, họ mới chịu để Dâng dọn chõng ghế hẳn hoi.
Chợt một bà hàng hoa, áo the đổi vai, đeo khuyên vàng, khăn vuông xa tanh, đặt xịch gánh hoa xuống:
- Cụ Ước đâu mà mày lại bán hàng hở cái gái này?
Không để Dâng cầm, bà hàng hoa đặt hai bó hoa lên bờ giậu xi măng trộn sỏi mài nhẵn như đá hoa ở sau hàng Dâng. Một bó toàn hồng bạch. Có những bông nở to bằng chiếc bát sứ. Những bông hàm tiếu thì tươi mọng như một thứ búp, thứ quả gì có thể ăn được. Một bó là huệ và cúc trắng. Cả hai bó đều ủ trong những cành trắc bách diệp và cành ngâu, không biết còn đọng sương hay tưới nước mà cả hoa lẫn lá đều long lanh. Chưa đặt yên chỗ, hai bó hoa đã thoảng lên như cả một vườn hoa tỏa hương thơm đến.
Tất cả mọi người đều nghển trông và tấm tắc mãi:
- Không cho ai mó máy, xem ngửi gì cả đấy! Cô Huệ Chi có hỏi thì thưa với cô tuần này dưới trại xin đủ hồng bạch và cúc trắng hầu cô. Cái gái mày nhớ thưa với cô như thế cho tao nhé.
Dặn xong, đến đầu đường, người hàng hoa còn quay lại nhìn bó hoa rồi mới chịu xuống chiếc đò nhỏ để sang phố bên kia. Lại một bọn xe "ba gác", xe kéo đến uống nước. Cuối cùng là bọn chân sào thuyền Trà Cổ kéo lên gọi kẹo thuốc lá cứ phứa phựa. Dâng khấp khởi mừng. Thế này chỉ đến hơn tám giờ là Dâng có thể xếp hàng lại gửi bà lão bán xôi bên cạnh mà đi sắm sửa. "Sắp xếp ngay bây giờ thì vừa". Dâng tự nhủ, quét tước xong chỗ ngồi Dâng vào trong ngõ rửa tay. Nhìn trước nhìn sau không thấy ai, Dâng lấy cái gương tròn bỏ túi ra soi vụng ở một góc hàng hiên, vấn lại vành khăn.
Thế này mà những đứa độc mồm ác miệng chúng nó lại đặt cho Dâng là con trán nứt đây! Cái sẹo ở mé trán, Dâng kéo mấy sợi tóc xuống, hay Dâng đội khăn vuông che thì ai tinh ý lắm mới thấy. Hay cho dẫu có thấy thì có xấu gì đâu? Cái vết sẹo tuy sâu nhưng chỉ to hơn sợi tóc thôi mà! Còn Dâng tuy đen nhưng là đen giòn. Gương mặt lại gương mặt trái xoan. Hàm răng và đôi môi của Dâng các cô tân thời có tô son và đánh chuốt thế nào cũng khó mà ăn đứt. Môi Dâng vừa cắn chỉ, răng lại đen nhức, đều muốt đi... Chết! Chết! Kìa, sao Dâng lại ngắm vuốt giữa đường giữa chợ như thế này? Con gái con đứa mười sáu mười bảy tuổi phải ý tứ, giữ gìn chứ! Dâng dúi vội cái gương vào túi, chạy về hàng, vấp một cái đau điếng.
Bỗng tiếng còi từ từ ở ngõ trong vang ra. Dâng nhỏm dậy chùi chùi tay vào vạt áo. Một chiếc ô tô sáng lòa lừ lừ tiến ra. Các người và các hàng họ gồng gánh đi lại trong ngõ đều nép vào hai bên. Chiếc xe thoáng giây đỗ lại ở đầu ngõ êm như bướm đậu. Người lái xe quần áo tây trắng, mũ lưỡi trai nẹp kim tuyến, nhảy xuống mở cửa xe. Từ trong xe choáng lộng như một gian nhà bọc gấm, bọc nhung, dát vàng dát bạc và tẩm nước hoa, một người con gái mặc đồ lụa trắng bước ra, tóc kết bỏ lơi sau lưng, cài một dải hoa nhung màu cẩm thạch.
Dâng vội vàng hai tay đưa hai bó hoa cho người con gái như tiên hiện ở trước mặt Dâng. Huệ Chi nhìn Dâng, đôi mắt nâu trong lánh ướt thoáng vẻ ngạc nhiên. Dâng cúi cúi đầu, trống ngực đập thình thình. Huệ Chi giọng nói khẽ, hơi rung, cũng hỏi Dâng:
- Ông cụ hôm nay sao không bán hàng?
- Ông cháu mỏi nghỉ một buổi ạ.
- Ông cụ mỏi! Mỏi hay ốm?
- Thưa cô! Cháu chỉ thấy ông cháu bảo ông cháu mỏi, ông cháu nghỉ buổi nay.
Dưới cái trán cao hơi dô, đôi mày của Huệ Chi to và không tỉa chau lại. Gương mặt trắng mát đăm đăm. Người lái xe đứng cạnh xe, tiến đến một bước chờ đợi. Huệ Chi vẫn im lặng. Người lái xe cúi vào xe cầm cái ví xách da màu hồ thủy đưa cho Huệ Chi. Huệ Chi bấm tách, lấy ra một phong bì nhỏ đưa cho Dâng:
- Đây em đưa cho cụ Ước. Sáng mai xem cụ Ước mỏi thế nào thì bảo tôi, tôi cho thuốc.
Dâng đón lấy cái phong bì xinh đẹp, thơm tho thật là lạ lùng vô cùng nọ, lần đầu tiên trong đời Dâng được cầm mà Huệ Chi nhón bỏ vào tay Dâng. Huệ Chi đỡ lấy bó hoa ôm trước ngực. Như làm một việc bất thường nặng nhọc, Huệ Chi hơi ửng mặt lên, mồ hôi lấm tấm, bước vào xe:
- Em nhớ nhé! Tôi hỏi thăm cụ Ước nhé.
Cánh cửa đóng lại không tiếng động. Chiếc xe như một làn ánh nắng lao ra đường rộng. Tất cả những xe cộ trên đường liền ngừng lại, dạt về bên. Tất cả mọi người lại bàng hoàng nhìn theo. Huệ Chi sau khi thấm thấm chút mồ hôi và bụi ở trán lại lặng lẽ nhìn về phía trước, như mọi giờ thường nhật trên đường đến nhà thờ.
Cũng như Dâng ban nãy, Huệ Chi cũng không biết có những người đi, xe cộ, gồng gánh và sự huyên náo ở hai bên đường. Trong tâm trí Huệ Chi cũng chỉ phấp phới có một hình ảnh và âm vang. Đó là những bông hoa trắng và những tiếng đàn phong cầm trầm bổng rung ngân làm nền và nâng cánh cho một dàn vĩ cầm hòa bài Ave Maria mê kính của Huệ Chi.
Hai bó hoa này, bó huệ và hoa cúc thì dâng bàn thờ Quan thầy Đức Mẹ của ta một nửa, còn một nửa đi lễ xong ta sang bên bà sơ dâng bàn thờ bà thánh Anna Quan thầy của mẹ ta. Còn bó hồng chia đôi; một nửa đem xuống đất thánh viếng mộ mẹ ta, một nửa bày ở bàn sách, rồi đến đêm khuya ta sẽ chọn một bông mới nở đến bên ba, đặt nhẹ vào bàn tay của ba đương viết. Phải! Sáng nay xem lễ xong ta phải xuống viếng mộ mẹ ta đã rồi mới cho xe ra Đồ Sơn. Ngày thứ sáu đầu tháng và cả tuần lễ quan thầy này, xem lễ xong, sáng nào ta cũng phải đem hoa đi dâng bàn thờ Đức Mẹ, bà thánh Anna, đem viếng mộ mẹ ta rồi tối đến tặng ba khi ba thức khuya làm việc... Rồi ta phải đi chơi xa để thay đổi không khí.
Chợt trong ngực Huệ Chi bị xóc mạnh lên không phải vì xe chạy mà vì một ý nghĩ lại đột nhiên nổi dậy:
- Thế tuần sau và rồi đây Huệ Chi sẽ làm gì?
Huệ Chi lại nghĩ đến nếu mình được lên Hà Nội học. Lên Hà Nội và lại được đi học, Huệ Chi chỉ dám mong được ở lưu trú thôi, tuy rằng trên đấy ngoài những nhà người họ của cha Huệ Chi còn có nhà của người mẹ kế Huệ Chi và nhà của rất nhiều người quen thân với bà nội, với cha Huệ Chi nữa. Chính cha Huệ Chi cũng đã đồng ý cho Huệ Chi vào trường đầm học. Chiếc ô tô đưa Huệ Chi đi nhà thờ đây sẽ dành riêng cho Huệ Chi đi đi về về Hà Nội - Hải Phòng những ngày thứ năm, chủ nhật và các ngày lễ, tết. Giám đốc nhà trường cũng hứa sẽ có một chế độ ăn học đặc biệt cho Huệ Chi. Nhưng bà nội Huệ Chi và cả người mẹ kế Huệ Chi đều không thuận. Như với bà nội Huệ Chi thì còn có lý, chứ như người mẹ kế Huệ Chi đã từng du học ở Pháp, ở Ý, ở Thụy Sĩ, y nức tiếng ở Ba Lê về khiêu vũ, lái xe ô tô và các kiểu quần áo, mà cũng ngáng trở việc Huệ Chi đi học xa thì thật Huệ Chi không sao hiểu được.
- Hay cô Giáng Hương cô ấy muốn toàn quyền chiếc xe Lanhcôn này?
Huệ Chi lắc đầu:
- Không phải! Cô ấy thích toàn quyền thì ba sẽ mua luôn cái xe khác cho cô ấy. Không thì ta bảo bà bảo ba mua cho ta cái xe khác.
Một câu hỏi thầm khác:
- Hay cô Giáng Hương cô ấy sợ ta cũng sẽ lại sang Pháp, sang Thụy Sĩ, sang Ý du học như cô ấy?
Huệ Chi lại lắc đầu:
- Cho ta đi học là tiền của bà ta chứ có lấy tiền của ba ta đâu. Mà cho dẫu lấy tiền của ba ta đi học dù có tốn kém thì cũng chỉ hết một phần mười số tiền lãi của phần tiền riêng của mẹ ta gửi nhà băng là cùng thôi! Không! Chắc cô ấy không tính toán như thế đâu!
- Hay cô ấy giữ kẽ với bà con trong họ nhà ta?... - Huệ Chi vội lắc đầu, giơ tay làm dấu thánh giá rồi cúi mặt xuống bó hoa thì thầm: - Lạy thánh Đức Bà Maria! Lạy Đức Mẹ hằng cứu giúp!... Sao con lại cứ lòng động lòng lo mãi thế này? Sao con lại cứ thấy buồn bực, nghĩ ngợi vẩn vơ thế này? Xin Đức Mẹ thêm sức mạnh cho con được giữ trọn vẹn lòng tưởng ngắm Mẹ, kính mến Mẹ, không bợn nhơ điều gì khác. Lạy Đức Mẹ hằng cứu giúp thương giữ đường ngay lối thẳng cho con!
Chiếc xe lại đỗ êm như ru đúng giữa cửa nhà thờ lớn. Như một người không hồn với bộ quần áo lụa trắng và ôm đầy một cánh tay toàn hoa trắng, Huệ Chi bước vào cái vòm âm u đương rền những tiếng cầu khẩn. Ở hai bên lối đi, trước những bậc thềm đá, ăn mày ăn xin kẻ quỳ, người nằm, người ngồi xếp thành dãy gần chắn lấy cả cửa. Những cánh tay lẩy bẩy, những bàn tay cóc cáy lều nghều, những rá rách mê nón bát mẻ, những cái chân sâu quảng, những cái đầu bù xù không thấy mặt, những lỗ mắt không có lòng trắng, tất cả vừa thoáng thấy tiếng giày và hơi người của Huệ Chi liền ngóc cả lên, ran ran ri ri... Người lái xe vội dúi vào những người ăn xin những đồng xu vừa mới lấy ở kho ra, đỏ như vàng khối. Y vừa phát tiền vừa nhăn mặt gắt vừa đẩy, đá những cánh tay, những cái đầu, những bàn chân gớm ghiếc kia đi, vừa dang dang cánh tay hộ vệ ở liền sau bước đi của Huệ Chi.
Huệ Chi vào quỳ xuống cái ghế bọc nhung trong hàng ghế đầu ở mé bên phải dành riêng cho nhà mình. Huệ Chi làm dấu thánh giá xong thì đèn điện ở các khám thờ và các cột treo ảnh tượng vụt bật sáng trưng. Cũng đúng như mọi hôm vừa lúc thầy cả đi ra. Hôm nay cha chính xứ làm lễ, mặc áo trọng thể thêu toàn kim tuyến, bốn chú bé choàng áo đỏ cầm nến và bình trầm hương chầu hai bên. Đàn nhạc cất lên. Những tiếng đọc kinh rào rào như những đợt sóng...
***
8 giờ lễ xong. Cả ba quả chuông lại cùng kéo. Tiếng chuông át hết cả mọi tiếng ồn ào. Những người kéo xe tranh nhau khách; ăn mày tranh nhau xin, hàng quà bánh rao, trẻ con gào khóc. Tất cả chỉ thấy có môi miệng mấp máy, lào thào lào thào...
Thanh đi qua con đường nhà thờ vừa lúc người đi lễ đổ ra. Thanh phải men sát bức giậu sắt mà vẫn còn bị những cái xô đẩy tối cả mặt mũi. Nhất là khi dãy ô tô của các quan Tây và các nhà giàu có tiếng ở thành phố nối nhau vùn vụt ra ngã ba, thì sự chen chúc trên bờ hè càng ghê hơn. Nhiều đứa bé đương khóc thét bỗng xanh xám cả người và ằng ặc kêu như sắp chết bẹp. Tiếng người gọi nhau, gắt chửi và tiếng ăn mày, tiếng rao quà bánh càng ồn ồn hỗn loạn. Chợt Thanh chừng lại. Trong cái ngột ngạt choáng váng Thanh còn thấy như có một mũi nhọn thúc vào tâm trí. Thanh không cần phải nhìn thấy Huệ Chi mà chỉ nghe thoáng tiếng còi điện rúc từ xa và cái mũi ô tô loáng lên là Thanh lại phải kêu thầm:
- Lanhcôn nhà Thy San. Xe Huệ Chi! Huệ Chi!...
Thanh vừa dứt tiếng thì chiếc xe mũi như cánh đao, lất phất một ngọn cờ đuôi nheo nhung đỏ thêu kim tuyến, đuôi xe dài vút như đuôi một thứ cá kình lườn màu xanh lam ánh bạc, lao đến phía Thanh với một người con gái như tượng cẩm thạch, đôi mắt nhìn ngây lặng, lạnh lùng. Thêm một lần nữa, chiếc ô tô lừng tiếng và cái bóng dáng cùng gương mặt của một người con gái cũng lừng tiếng ấy lại lướt qua mặt Thanh.
Lần đầu tiên, hôm Thanh lang thang trên bờ sông Lấp cũng thoáng thấy tiếng còi, cái dáng xe, màu sơn của chiếc xe nọ với Huệ Chi ngồi một mình trong xe. Thanh cũng đã kêu lên như thế. Tuy chỉ là lần đầu nhưng Thanh tưởng như đã gặp nhiều lần rồi. Vì qua những câu chuyện về các kiểu ô tô và đời sống của những nhà làm ăn hái ra tiền của đất Hải Phòng, bàn tán ở những bờ hè, đầu đường, lán phu, bến tàu, hàng quán mà Thanh la cà chầu hẫu, Thanh đã phải nhập tâm hình ảnh cả chiếc xe và người Huệ Chi lúc nào không biết. Nhưng khi thật được trông thấy xe và người Huệ Chi thì Thanh không những vẫn ngạc nhiên mà choàng hẳn người lên.
Thanh cũng kêu lên như hôm nay và khi chiếc xe đi khỏi Thanh còn đứng lặng một lúc, đầu óc choáng lộn, mãi sau mới trở lại bình tĩnh được. Rồi mỗi khi Thanh lại đếm bước trên bờ hè và chạnh nghĩ đến đời sống của mình, Thanh lại thấy chiếc xe ô tô và người con gái kia vun vút sập đến mặt Thanh. Thanh không choáng váng nữa. Tất cả não cân của Thanh căng lên rồi tê dại đi vì một cảm tưởng thấy trên người Thanh có một cảnh sung sướng đến vô cùng, thừa mứa đến vô cùng, đè lên, tràn đi. Thanh thấy cả cái khối thép, kền, máy móc, nhung lụa và vàng bạc, cùng với một nhan sắc được nuông chiều đến mức như là bà chúa nô lệ ấy, bon bon và giày mỏng nát đi tất cả những cái gì Thanh có trên người. Chao ôi! Cái mũ trắng đã gần tòi bấc và nặng đến nhức đầu vì trạt phấn. Cái áo the vá vai vá khuỷu màu thâm đã bạc kềnh kệch như màu nâu, còn cái quần trắng thì nếp là bằng lót xuống chiếu, và đôi guốc vẹt cả gót... Thanh không biết còn xơ xác tiều tụy thảm hại đến thế nào nếu Thanh vẫn chưa được công ăn việc làm, vẫn lang thang thế này!...
Không! Lần sau có sắp thấy chiếc xe và người con gái kia sắp qua mặt Thanh, Thanh sẽ hết sức tránh nhìn. Nếu cần Thanh sẽ quay hẳn mặt vào tường hay nhắm mắt, bưng tay che mặt đi. Rồi Thanh sẽ tâm tâm niệm niệm để nhắc nhở nỗi tủi cực nhất là chí phấn đấu của Thanh. Nhưng hôm nay Thanh quên mất sự rắp định kia rồi! Thanh không những không quay mặt, tránh nhìn mà lại đón đợi chiếc xe từ xa vút đến. Thanh không những chỉ nhìn theo chiếc xe mà còn cố nhìn cho rõ hơn, nhìn lâu hơn người Huệ Chi nữa! Nhìn như thế để rồi Thanh thêm tủi cực, chán nản vô cùng...
Cả đám đông đi lễ cũng đều nhìn theo chiếc xe và Huệ Chi. Nhiều con trai con gái đương cười nói bỗng lặng hẳn người đi. Thanh cố rảo bước để qua khỏi những đám trai trẻ lũ lượt đã đi giăng ra bờ hè lại còn líu ríu với nhau như cố ý để chung quanh thấy sự trẻ trung và những câu chuyện cho là ý nhị duyên dáng của mình.
Chợt Thanh cắn chặt lấy môi.
Thanh vừa dứt được hình ảnh Huệ Chi lại phải nghĩ ngay đến Dậu. Cuộn giấy bạc, hộp bông phấn ở chiếc ví xách của Dậu tung ra lại rần rật trong tâm trí Thanh. Những tờ giấy bạc cái gấp tư, cái gấp đôi có lẽ nhét vội nhét vàng vào ví khi nhận và không cần đếm, đã bị Thanh xéo bết hẳn xuống bãi thức ăn mà mùi ghê tởm đến giờ vẫn xóc lên trong cảm giác Thanh. Hộp phấn thì vãi tung, cái núm bông đập phấn cũng nhoe nhoét. Còn chiếc ví thì kêu răng rắc. Không hiểu khóa kền có gẫy không và các thứ ở trong đó có giập nát hết không.
Thanh nuốt nuốt như là một sự tức tối đưa lên cổ họng.
Chỗ giấy bạc kia giờ đây thế nào Dậu chả đương chùi gột. Món tiền ít nhất cũng phải là hai ba chục nếu chỉ có giấy năm đồng và giấy một đồng. Nhưng đây Thanh thấy có cả giấy hai mươi đồng và không phải chỉ một tờ mà đến ba, bốn tờ. Còn cái ví, nguyên cái ví thôi mà những buổi chiều phấn sáp xong Dậu nhảy xe đi lên nhà đăng xê (1)hay đi các ôten, Dậu cắp ở nách nâng niu kiểu cách, là ví hàng của nhà Pôn Xabô đấy! Hai tháng mẹ con Thanh ăn gạo và cả một cái vốn để mẹ Thanh lần hồi!
⚝ ✽ ⚝
[1] Tiệm nhảy.
Dậu cũng là người ở Nam Định. Hình như nó đã học ở cái trường tư ở phố Bônbe cũng gần trường của Thanh. Nếu Thanh không lầm thì cái con học trò nhảy dây vun vút như tung vú vào đám học trò con giai, có phim nào hay thì bất kỳ thứ hai, thứ sáu cũng đều có mặt hàng nửa giờ trước buổi chiếu, y cứ đứng ngay cửa rạp cắn hạt dưa tanh tách, nhai kẹo cao su, ăn quýt, ăn lạc rang, rồi cười, bĩu môi, đưa mắt cho chị em bạn khi thấy người ta, đặc biệt là bọn con giai để ý, chỉ trỏ vào mình... Phải! Nếu Thanh không lầm, thì cái con Dậu đi nhảy và kiếm tiền, tiêu khét tiếng, ở cùng xóm với Thanh hiện nay là cái con học trò chỉ bằng tuổi Thanh và đã đi học cùng đường với Thanh kia.
Nhưng không hiểu Dậu ra Hải Phòng từ bao giờ và làm cái nghề này đã bao lâu mà thay đổi khác lạ như vậy. Từ nét mặt, dáng đi, khổ người, giọng nói, nhất là nét mặt khổ người của Dậu, thì Thanh không thể nào tưởng tượng nổi, Thanh không thể nào còn thấy lại một chút dáng dấp khi xưa. Thế là từ những cái gợi nhớ, suy nghĩ về Dậu, Thanh lại phải nghĩ đến Huệ Chi.
Nhà Đức Sinh là bà nội Huệ Chi, trước ở Nam Định cũng có quen biết bà ngoại Thanh đấy!
Cha Thanh nghe đâu lại là con đỡ đầu của nhà Đức Sinh. Đức Sinh là mẹ thiêng liêng của cha Thanh. Chắc cha Thanh chỉ bằng trạc Thy San cha Huệ Chi thôi. Chắc Thy San cũng phải biết cha Thanh... Chắc Thy San ngày xưa...
Thanh cắn chặt môi thêm, lắc đầu. Thanh rảo bước nữa.
Theo thói quen Thanh lại lên phố Khách. Thanh ngồi ở mấy cửa kho, mấy tràn phu, mấy cửa hiệu to vừa xem khuân vác chuyên chở những sợi, đường, thuốc bắc, gạo đỗ vừa hỏi chuyện. Đúng chín giờ, Thanh rẽ ra sông Lấp. Thế là Thanh đã đi được một phần ba con đường đi hàng ngày để nghe ngóng công việc may ra Thanh sẽ xin được. Thanh đã từ nhà ra Sáu Kho, sang Xi măng, qua khu Máy chỉ, Pháo thủ. Thanh sẽ nghỉ ở hàng cụ Ước đón mấy người quen ở Carông và hãng Đờvanhxy để hỏi tin tức theo như nhời cụ Ước thì lại có việc mới, cai lấy người đi làm.
Thanh lại thấy ngại ngùng. Thanh càng đến gần cái ngõ cụ Ước dọn hàng và ô tô nhà Huệ Chi ra vào, bước chân Thanh càng như đeo xiềng vậy. Thanh ghê sợ nhất là đương ngồi bóc khoai ăn với cụ Ước, hay đương phải hỏi han công việc với người nhà của Thy San mà phải đứng lên, dạt vào mé tường, lấy lối cho ô tô đi, rồi Thanh gặp phải cái nhìn cao kỳ lạnh lùng của Huệ Chi. Trong khi tâm trí Thanh chùn lại và tối sầm thì Thanh lại bước gấp. Bỗng Thanh chớp chớp mắt, quay gót. Sao lại thế kia? Ông cụ Ước đi đâu mà Dâng ngồi bán hàng? Có bao giờ cụ Ước bỏ hàng đâu? Có bao giờ cụ Ước hẹn Thanh mà không ngồi đợi? Nhưng Dâng đã trông thấy Thanh rồi. Dâng nhỏm dậy, luýnh quýnh, không dám nhìn thẳng Thanh và mãi mới thào ra được hai tiếng khi Thanh sừng sững ở trước hàng:
- Cậu giáo!
"Cứ cậu giáo mãi! Cậu gì! Giáo gì!". Thanh còn đương dằn mình vì những tiếng chào, gọi nọ, vừa phần Thanh lại rất khổ vì Dâng khép nép sợ sệt cả ở trước mặt Thanh, thì Dâng đã kéo ghế, lấy khăn lau phẩy phẩy, mời Thanh ngồi và khe khẽ hỏi:
- Ở nhà ông cháu uống gì ạ? Ông cháu có ăn gì không?
- Thế nào? Cụ Ước mỏi thế nào? Trước tầm nhất Máy tơ cụ còn chuyện với tôi cơ mà. Cụ mỏi gì mà không đi hàng!
Dâng vẫn cúi cúi mặt:
- Cậu giáo xuống phố lúc nào ạ?
- Sáng nay tôi dậy từ hai rưỡi. Chuyện với cụ xong tôi về ngủ lại, mệt quá! Ngoài Kho có tàu to về, các bà ấy đi làm mà cũng không biết. Gần bảy giờ tôi cũng ra Kho.
Thanh nhường cái ghế Dâng mời ngồi cho người khách mới đến. Thanh ngồi cái ghế nhỏ của bác xe kéo chạy bỏ ra đón hàng ở dưới bến đò lên. Dâng nghiêng giành múc thêm được ba bát nước. Khách chỉ còn ăn kẹo bột, hút thuốc. Họ hỏi Dâng về những chuyến đò chợ thường đỗ ở đây. Dâng một mặt đáp nhời họ, một mặt cứ ngập ngừng định nói chuyện với Thanh. Thấy Thanh cứ chực đứng dậy. Dâng bày kẹo ra đĩa:
- Cậu giáo không hút thuốc lá thì ăn kẹo. Thôi!... Cậu giáo xơi khoai. Khoai bà cụ móm vừa đưa cho ông cháu.
"Lại khoai!". Thanh càng bồn chồn. Chợt Dâng nghĩ ra. Dâng hết sức đánh bạo để nói ra câu, vừa nói Dâng vừa nghiêng nghiêng mặt để tránh cái nhìn có vẻ e ngại của Thanh:
- Cậu giáo cho cháu gửi hàng một nhát. Cháu sang chợ mua cho ông cháu mấy quả trứng ông cháu ăn cháo.
Thế là Dâng nhận nốt tiền của mấy người, thu bớt mấy cái ghế lại, đứng dậy xin phép Thanh đi. Sang bên kia cầu rồi. Dâng lại muốn quay lại trông mà không dám. Đôi mắt của Thanh hiện ra xoay xoáy thêm ở trước mặt Dâng. Đến bây giờ Dâng mới ngẩng lên và nhìn thẳng vào đôi mắt ấy. Gần đến chợ, Dâng mở ra chiếc phong bì của Huệ Chi đưa ban nãy. Mùi thơm càng sực nức. Tờ giấy bạc thơm phức. Dâng giở ra càng thấy run. Đó là món tiền thường lệ hàng tháng Huệ Chi cho cụ Ước từ hai năm nay gọi là tiền cái công cụ nhận hoa hàng ngày và cái công cụ già lão cẩn thận đã giữ cho đầu ngõ lối xe ra vào sạch sẽ, không có rác rưởi, nhất là không có cứt đái bậy bạ. Ngoài món tiền này, cứ thứ sáu tuần đầu tháng hay những ngày lễ Huệ Chi dọn mình chịu lễ, Huệ Chi làm phúc cho kẻ khó thì Huệ Chi lại cho thêm cụ Ước khi thì một đồng, khi thì hai đồng nữa.
Mấy lần Huệ Chi ngỏ ý muốn cụ Ước về làm bõ cho bà Huệ Chi nhưng ông cụ đều không nhận. Công việc chỉ có quét dọn các chỗ chung quanh phòng khách và chăm nom cây cối, vườn hoa. Ai biết chuyện cũng tiếc hộ. Không người nào được những chân việc tốt như thế ở dưới trại bà Huệ Chi hay trên biệt thự bà Huệ Chi mà không nổi dấn vốn. Có kẻ vận tiền về quê mua được cả ruộng. Có kẻ lúc xin ra mở hẳn một ngôi hàng xén. Vú bõ người nào cũng rủng rỉnh mấy bát họ, quần áo hoa tai vành cánh đủ lệ bộ.
Dâng vừa đi vừa ngắm đồng bạc. Tay Dâng đương cầm cả một đồng bạc đây! Dâng được cầm cả một đồng bạc mới nguyên mà tiêu, mà sắm. Dâng đã tính đem đổi cho hàng đổi tiền lấy một trinh các nhưng thấy cứ tiêng tiếc. Được một trinh thì mua được những hai chiếc kẹo bột cho thằng cu, hay mua dầu thì thắp được một tối. Nhưng cầm cả đồng bạc sắm guốc sắm nón, đưa cho nhà hàng thì lại được nể nang, tha hồ mà chọn, mà đổi đi, đổi lại. Cuối cùng Dâng nhất định đưa y nguyên tờ giấy bạc về cho ông. Dâng lấy tiền hàng hôm nay sắm cũng đủ. Hôm nay nguyên bán kẹo và thuốc lá cũng được ba hào rồi.
Đầu tiên Dâng vào hai hàng guốc, mỗi hàng Dâng đã nhắm một đôi từ mấy hôm trước. Dâng phải tranh nhau rửa chân ở cái máy nước gần nhà xí trong chợ rồi mới vào hàng guốc chọn lại, ướm thử. Hai đôi đúng hai hào hai. Dâng đến hàng trứng bán ở cổng sau chợ chỗ bến đò, mua năm quả, rồi ra hàng rau mua hành, tía tô để nấu cháo giải cảm cho ông.
Đi ra ngoài, Dâng đã mấy lần bỏ đôi guốc của Dâng xuống đất, sắp xỏ chân vào đi nhưng lại thôi. Phần thì Dâng thấy chân mình lại lấm tuy mình đã rửa ráy kỳ cọ, và khi mua guốc xong Dâng đã phải đến chỗ hàng bát, chùi chùi chân vào đống rơm ở lồ bát dỡ ra. Phần thì Dâng thấy như cả hàng phố đều nhìn vào chân Dâng, vừa nghe những tiếng guốc lộp cộp mà cười. Lại còn Thanh đây kia. Dâng chỉ đi guốc đến cột đèn bên kia ngõ là Thanh đã nhìn thấy rồi. Không biết Thanh có cười không. Có lẽ Thanh chỉ cười thầm. Dù chỉ cười thầm cũng vẫn là cười.
Càng tưởng tượng Dâng càng cuống. Bất giác Dâng cắp cả hai đôi guốc buộc lại với những mớ hành, tía tô vào nách rồi ù té chạy. Dâng đến hàng bọn lái nón trọ. Chọn được xong hai cái nón, Dâng toát mồ hôi, mặt bừng bừng như say nắng. Hai chiếc nón không hiểu tại sao lại những ba hào. Dâng phải đưa cả đồng bạc cho người ta giả lại. Bỏ bảy hào vào túi, cài kim băng lại, Dâng cứ díu cả tay! Một trinh tiền các với hai cái kẹo bột cho thằng cu thế là vì sự vụng tính và không cả quyết của Dâng mà bị mất! Cầm nón, guốc ra đường, Dâng càng bàng hoàng, mặt đỏ nhừ thêm. Dâng lại loay hoay. Để guốc, rau, hành, trứng vào nón cắp thì hỏng cả nón. Đội ngay từ bây giờ về đến hàng, thì người quen và hàng phố cũng lại nhìn thì sao? Dâng cứ chụp nón lên đầu rồi lại bỏ xuống.
Đúng lúc Dâng đi qua tấm gương to của một hàng thợ cạo ngồi ở bờ hè. Dâng thấy tóc mình rủ cả xuống tai, xuống cằm, mồ hôi thì giỏ giọt, cái vết sẹo trên trán thì trật ra hồng hồng nham nháp, Dâng rối hết ruột gan:
- Biết thế này thì không sắm sửa gì cả! Vừa tốn tiền vừa thế nào ấy.
Sực nhớ đến bác La dặn Dâng buổi sáng khi nào sang chợ thì đến tràn than bác làm cho bác gửi gạo thức ăn về cho các con, Dâng kêu khẽ "Chết! Chết! Quên bẵng đi mất!" rồi quay lại, lên cầu. Được lùi thời giờ giở về hàng, Dâng mừng quá, lại bước như chạy...
***
Mẹ La cũng mồ hôi rỏ giọt. Nhưng khác Dâng, trong ruột mẹ cứ như lửa đốt. Tám giờ... tám rưỡi rồi! Bây giờ đã gần mười giờ mà vẫn không thấy hồn vong bóng vía Dâng đâu. Thỉnh thoảng mẹ lại nhìn cái làn đã sẵn sàng gạo, cá khô, rau cải, mẹ lại nghển trông ra xa xem có Dâng không, tuy thúng than nặng trĩu cứ ấn mặt mẹ xuống. Hôm nay than về nhiều, mẹ sẽ làm cả buổi trưa rồi tối khuya mới về. Mấy tuần nay mới lại được một chuyến sà lan chở nhiều như thế. Dâng bị "xúi", được buổi làm kiếm bữa cho bố cho em thì lại đi bán hàng cho cụ Ước.
Trên bờ sông, dưới các gốc xoan tây, từng tốp đàn bà cũng rách rưới như mẹ La và những con gái cũng ít tuổi như Dâng đương ngồi bắt chấy, tuốt trứng cho nhau. Bọn trẻ con thì cứ lượn như diều hâu ở mấy thuyền chở khoai sắn, mía, rình rình những củ vương vãi, những cây sâu. Chúng rình cả những lái buôn nữa. Chỉ có quãng bến này là có hàng họ và người mua bán. Còn từ đây suốt đến cầu Carông chỉ tấp nập được lúc sáng sớm rồi trên bến dưới thuyền và các lán, các hàng lại xờ xạc, toàn những người ngồi không, những mẹ con ăn mày, những trẻ con thất thểu.
Từ sáng đến giờ đầu mẹ La vẫn đau ê ẩm. Không phải chỉ ở chỗ tóc bị trụi đi thành sẹo bằng đồng bạc mà cả một bên đầu nhức nhói. Suốt từ Sáu Kho sang Xi măng, trên sông Cấm, Tam Bạc, sông Lấp, ở các bến tàu từ của Tây điếc sang tay ông ký Bưởi đến các bến của hãng Thuận Thái, Phúc Sinh, cụ Ước đã làm ở đâu thì mẹ La cũng làm ở đấy. Mẹ chỉ đội than. Từ năm mười hai mười ba, nay mẹ đã ba mươi bảy. Người ta thường gọi mẹ là cháu bảy mươi đời của bà Nữ Oa lưu lạc đến cái đất Hải Phòng này. Mẹ đã đội hết cả mấy quả núi than Hòn Gai, Đông Triều!
- Cái mồm mày rộng, cái lỗ mũi mày huếch thế kia, mày uống được cả rượu, ăn được cả thịt chó, thì làm gì mà mày chả túng, chả khổ, chả rách?
Nghe người ta nói, mẹ La chỉ cười. Mẹ cười và chửi:
- Cha tiên nhân chúng nó chứ!... Cả cái mỏ than Hòn Gai, cái nhà băng Năm sao, cái nhà Máy điện, Xi măng, các chủ hiệu tàu của Hải Phòng này... Chúng nó ngoạm vào xương vào tủy người ta, vào quần vào áo người ta, thì còn gì nữa! May mà còn có một cái cố giữ được, không có thì chúng nó cũng ngoạm mất!...
Đầu mẹ La đã thành chai, còn da dẻ mẹ thì cóc cáy lại. Những buổi làm than luyện, ai cũng phải trát bùn vào mặt, vào cổ, vào tay để khỏi rộp vì mạt than và hắc ín. Duy có mẹ La chẳng trát bùn và cũng chẳng trùm khăn gì hết. Mấy cụ già làm cùng với mẹ La thấy mẹ cứ đầu không dưới giời nắng chang chang đều lè lưỡi! Bên cạnh sẹo ở đỉnh đầu, mẹ La còn hàng chục cái sẹo khác. Cái vì leo cầu trượt ngã. Cái vì hàng rơi, sắt đổ. Cái vì thằng chồng nó đánh. Cái thằng bạc ác bất nhân kia! Nỡ nào đương bữa ăn nó cầm cả cái bát ô tô đựng canh hắt vào mặt người ta, rồi cứ thế nó ghè xuống đầu, xuống gáy người ta. Các trận đòn giận cá chém thớt, khảo tiền đi uống rượu và đánh xóc đĩa ấy, làm mẹ có trận ốm hàng nửa tháng. Ốm no bò dậy, mẹ La lại đi đội than. Thằng chồng lại mò về. Vai mẹ, lưng mẹ, nó cũng đánh phũ như thế. Bạ cái gì vớ được nó dần cái ấy. Có lần ở chung với ông hàng phở, nó vớ lấy cái xương ống cẳng bò mà thụi mà giọt. Quân thiên lôi hà bá trị! Những hôm giở giời như hôm nay mà phải làm cố, càng nghĩ đến những trận đòn bị liên chi hồ điệp, mẹ càng thấy phải từ nó... từ nó...
Bụi than bết với mồ hôi đã làm đen nhẻm cả mặt mũi mẹ La. Trông mẹ chỉ còn hai con mắt trắng chớp chớp, và cặp môi đỏ nhợt mấp máy! Nhiều lúc mồ hôi rỉ cả xuống mắt, mẹ La chỉ nhắm chặt lại, chớp chớp mấy cái cho tan đi. Khổ nhất là những lúc đương đi trên cầu. Cầu rùng rình trên mặt sông và trên những cọc nhọn hoắt, người khác đi sau cứ giục. Mẹ La cứ phải cứng mắt ra, chịu xót, đi mò như người bịt mắt đi dây làm xiếc. Cho tới lúc đổ ào thúng than xuống đống, ném cái thẻ tre vào ngăn gỗ để ghi công, bước trở ra, mẹ La mới cúi cúi mặt lấy một ngón tay khều lần vạt áo trong lên mà dụi nhẹ con mắt.
Cái ống thẻ của mẹ đã được non nửa rồi. Buổi nay nếu mẹ làm đến mười giờ đêm mẹ sẽ được bảy hào hay ít nhất cũng sáu hào. Tuần gạo cho mẹ cho con ăn no đấy. "Cái con động đực đi đâu mà mất mày mất mặt thế này?!". Mẹ La lại rủa thầm Dâng. Chợt có tiếng "cháo lòng...tiết canh..." của bác hàng xứ Nghệ rao ở cạnh hàng nước dưới gốc xoan tây. Tới giờ mẹ La mới để ý đến. Mẹ lại càng sốt ruột. Thường lệ bác cháo lòng đến là gần mười giờ. Bác chỉ bán quệt nữa ở đây là hết hàng. Đổ xong thúng than, mẹ La cũng theo mấy bà ra hàng uống nước. Cái cồn cào từ sáng tới giờ lại càng dữ. Hai củ khoai của cụ Ước đã veo đi ngay từ lúc bảy giờ. Mẹ La vừa uống nước vừa khịt khịt mũi. Mùi hạt tiêu, mùi húng dổi, mùi lạc, mùi dồi mỡ xương sông thoảng đến rõ từng vị một. Đưa mắt nhìn đã thấy mấy bác chân sào lên đánh chén. Ba bát tiết canh đỏ rói lổn nhổn như hoa như vẽ những nhân gan, sụn nạc, lạc rang, hành, húng. Lại còn một đĩa tây lòng, hai cút rượu và đĩa rau thơm đầy có ngọn.
Mẹ La nuốt nước bọt đánh ực, quay vội mặt đi. Nhưng xuống đến sà lan, đỡ thúng than lên đầu mẹ lại thấy đau chói ở bên óc, và mẹ bước đi thấy trong bụng cứ róc rách, lục sục, mẹ La lại thấy thèm. Thôi! Buổi này mẹ làm được tiền thì cũng phải ăn chứ. Mẹ ăn một bát tiết canh hai xu thôi. Tiết canh mát, hạ hỏa, có khi mẹ đỡ nhói đầu cũng nên. Rồi mẹ ăn xu cháo lòng, thêm một xu gan. Tất cả bốn xu thôi mà. Đội cố lấy chục thẻ. Nhất là được ăn bát tiết canh. Đến hơn năm nay mẹ không đụng đến cái món này. Thôi! Hôm nay...
Lên bờ đổ xong thúng than, mẹ La nhìn vào bác hàng cháo thái cứ ngọt xớt những miếng gan và dồi mỡ, mẹ La lại nuốt nước bọt nhưng quay mặt đi. Tiếng rao vẫn lanh lảnh. Mẹ La lại nhìn. Mẹ thấy trong tủ kính chỉ còn mấy khúc dồi tiết, gan và dạ dày... Chợt mẹ La quăng thúng xuống gốc cây, chạy đến một người đàn bà đeo hoa đeo xuyến, trên đầu gối lùm lùm một cái thúng sơn đựng tiền, tráp giầu và cam quýt, ngồi bệ vệ nói chuyện với mấy ông chủ thuyền:
- Thưa bà cho em vay thêm năm xu nữa. - Mẹ La ngượng ngùng hỏi.
- Lại vay! Sáng hai hào của tôi rồi.
- Bà cho em vay năm xu nữa thôi... Em mua cho các cháu năm xu lòng.
- Chỉ được cái thế! Chưa hết buổi làm đã lấy hết lần này sang lần khác! Tối nay phải ở lại làm cho xong để sà lan của ông chủ còn về Cửa Ông đấy! - Ông chủ nhé! - Mụ nọ quay ra cười với bọn khách - Chúng nó bốc xong sớm, còn mấy tấn than lẻ, ông phải bớt cho đấy.
Mụ nhón lấy đồng kền năm xu quẳng vào bàn tay mẹ La đen như nhọ chảo và run run. Mẹ La cầm tiền đứng dậy cười, tong tả đến hàng cháo lòng:
- Bác cho em khúc dồi và miếng gan này.
- Có mua cả thì tôi bán.
- Nhà em chỉ mua ba xu về cho các cháu.
- Đã bảo ai mua cả tôi mới thái.
- Thì nhà tôi mua năm xu vậy. Bác cứ cho các cháu chỗ gan và dồi ấy.
Mẹ La phải mua chung với một bà bạn. Mẹ La xin thêm miếng lá sen nữa để gói. Mẹ đến chỗ treo gạo, rau, mắm. Mẹ nhấc làn xuống, xếp mười con cá khô vào một góc. Mẹ lót một miếng lá chuối khô ngăn ra rồi để gói lòng. Cái vị tiết và xương sông mằn mặn thơm thơm, cái vị gan ngậy ngậy, làm mẹ lại mở gói ra ngắm nghía:
- Cái dồi tiết này thằng La thích lắm đây! Cái gan này con bé con ăn sạch cam đây. Không biết đưa về chúng nó có chia nhau yên lành không, không lại đánh nhau ầm cửa ầm nhà lên thì lại quá khổ.
Mẹ La nhón một miếng dồi nhai. Rồi thêm một miếng gan. Mẹ đã nhấc lên nhìn miếng dồi nữa. Nhưng mẹ bỏ xuống. Mẹ bỏ xuống miếng dồi và nhấc miếng gan lên nhìn. Nước bọt cứ ừng ực. Mẹ lật đi lật lại hai miếng dồi, miếng gan bé nhất... Nhưng mẹ bày lại rồi gói ghém buộc lạt. Đậy nắp làn lại treo lên chỗ cũ, đoạn mẹ La quay ra lấy thúng đội than. Mẹ vừa đi vừa lẩm nhẩm. Thằng La cõng em chạy tong tong lại hiện ra trước mắt mẹ. Một sáng, mẹ quẳng cái gái cho nó. Nó hỏi nhà có còn cơm nguội không, mẹ bảo hết. Nó xin tiền ăn xôi, mẹ ném ra chiếu cho nó một trinh vừa rít lên:
- Chỉ nạo... chỉ được cái nạo tiền! Còn một trinh đây, mày với cái gái con mua khoai mà ăn.
Thằng La xốc em lên lưng, chạy theo mẹ, bĩu cái mồm ra nhè nhè:
- Đây tao còn một trinh đây... Mày với cái gái con mua khoai mà ăn... Hai đứa được những một trinh... Những một trinh mua khoai... Cõng em vẹo cả xương sườn... Mẹ thương mẹ cho những một trinh mua kho...oai..ai...
Nhớ lại câu gai ngạnh xếu mếu của thằng con, mẹ La
lại cười:
- Cha tổ bố con với cái như thế đấy! Hôm nay những năm xu lòng thì con còn đay mẹ không?
Thoáng thấy Dâng tong tả những nón guốc ở trên cầu Carông đi xuống, mẹ La quay ngoắt lại. Mẹ chạy đến, lườm dài, gí ngón tay vào trán Dâng:
- Không biết phải lòng phải mặt, hẹn hò chuyện trò với thằng nào mà đến bây giờ mới vác mặt sang hở cô ả?
Thấy Dâng càng hơn hớn nét mặt, mẹ La càng nguýt và xỉa xói:
- Đây là ghét cái mặt nhà cô lắm rồi đấy! Đây hú hồn hú vía nhà cô từ nãy đến giờ. Dào! Hôm nay tiền đâu mà sắm sửa nhiều thế này? Dạo này... ấy lắm rồi đấy! Rồi đấy...!
***
Dâng tay xách nách mang các thứ về đến hàng. Khi Thanh đứng lên đỡ cái làn và nón guốc của Dâng, Dâng lại cúi đầu, khe khẽ nói:
- Cháu xếp ghế, xếp tủ hàng rồi thì... về ạ.
Thanh nhấc cái ghế dài:
- Gửi cái ghế này ở đâu? Tôi dọn với...
- Cậu giáo mặc cháu.
Trống ngực Dâng còn đương đập rối lên vì sự tính toán phải sắp xếp gánh hàng và đồ sắm thế nào cho gọn, thì cái Ngọt hớt hải chạy đến, đầu tóc rũ rượi, ôm chằm lấy Dâng:
- Chị Dâng ơi!
Quay thấy Thanh, Ngọt cũng gọi:
- Cậu giáo ơi!
Rồi Ngọt òa lên:
- Cậu giáo ơi! Chị Dâng ơi! Ông ở nhà mất rồi! Thế này thì nhà cháu chết mất, giời ơi!...
- Giời ơi! Ông chết rồi, hở Ngọt ơi! Cậu giáo ơi! Nhà cháu chết mất thôi...
Dâng và Ngọt ríu cả người lại mà khóc với nhau. Thanh không khóc được. Một cảm giác đau xót, bàng hoàng, xoắn xé người Thanh. Thanh cố sức mới giữ được nước mắt và những tiếng nấc.
- Cụ Ước mất rồi? Cụ Ước chết thế nào? Cụ Ước thế nào mà chết được?
Cái Ngọt vừa khóc vừa kể:
- Sáng ông cháu không ăn gì cả. Đến tám giờ ông cháu đương ngồi ở chõng nhìn ra đường thì gọi thầy cháu: "Bố Dâng nó ơi! Cả cái Ngọt nữa! Chúng mày lại đây". Thày cháu đến, ông cháu níu lấy cánh tay thầy cháu bảo: "Bố mày đỡ tao nằm xuống. Gọi thêm người khiêng tao vào nhà. Tao đi đây... Tao đi bây giờ kể cũng tiếc đấy... Nhưng còn đời chúng mày... Ừ còn đời chúng mày... Thôi tao đi..." Thế là ông cháu chết! Ông ơi!...
Cái Ngọt lại òa lên. Mãi nó mới lại cất lên tiếng:
- Ông cháu cứ thế thỉu đi. Mắt nhắm rồi mà mặt cứ tươi như người vừa đi uống rượu ăn cỗ về. Cậu giáo ơi! Chị Dâng ơi!... Ông ơi!...
Ngọt mượn cái đòn gánh dập quẩy các thứ vặt. Dâng vẫn gánh cái hòm kính và giành nước. Bên nách lại đèo thêm hòn gạch tây tráng men của ông cụ Ước kiếm được để vừa làm ghế vừa đẹn bu gà. Hai chị em vừa đi vừa khóc. Dâng cứ chực vấp ngã. Giời đất tối sầm ở trên đầu, ở trước mặt Dâng. Thanh và Ngọt phải chạy theo mà vẫn không kịp. Đầu óc Thanh lắm phút tưởng đến bung ra.
Cụ Ước chỉ là họ xa với bố Dâng. Hai chú cháu dễ đến ba mươi năm nay mới lại gặp nhau. Thanh dọn nhà đến xóm Cấm được nửa tháng thì nhà Dâng tìm được cụ Ước, dọn đến sau. Cũng như chị em Dâng, Thanh thấy cụ Ước thật là một người ông. Một người ông ruột thịt chắc cũng chỉ đến như thế. Nhưng cụ Ước chết rồi! Thanh về bây giờ chỉ còn xem mặt ông cụ một lần sau hết. Bao nhiêu chuyện, bao nhiêu dáng dấp của ông cụ còn rành rành ở bên tai, ở trước mắt Thanh. Cái trán ông cụ hói, đôi mắt ông cụ sáng, bộ mày rậm có sợi rủ cả xuống mắt, bộ râu cũng rậm, cũng bạc, làm quai hàm ông cụ bạnh thêm. Lúc ngồi bên, lúc đi theo ông cụ, Thanh đều tưởng như sống với một ông lão cổ tích, thần tiên hay lịch sử nào vậy.
Giời ơi! Con đường ra Sáu Kho kia mới hôm nào ông cụ còn trỏ tay bảo Thanh về cái lai lịch của nó và thuở trai tráng của ông cụ:
- Ngày xưa ngoài ấy chỉ có mấy xóm chài lưới. Ông bố nuôi tôi ở đây. Hai bố con đi lưới thu cho chủ thuyền. Tây sang được mấy năm thì đuổi dân cắm bãi, mở bến. Thoạt kỳ thủy chỉ có mấy gian nhà cột gỗ lợp lá làm như kiểu nhà sàn trên Thổ, trên Mán! Tôi nghỉ đi lưới theo anh em làm phu, làm cu li cho các chủ Tây. Chuyên chở chưa có tàu hỏa, ô tô gì cả. Toàn bằng xe cút kít bánh gỗ nặng như cái cùm và bằng xe bò, xe ngựa, chở gạo bắp xuống tàu và chở sắt "xà gồ", tôn, lên xây kho. Xe tôi bao giờ cũng chở ba tạ, trên ba tạ. Còn vác, tôi chỉ thua có ông cụ Coóng bên Đông Hưng sang. Ông ấy vác có lần hai tạ, tôi cũng vác hai tạ, vác hai bao gạo, thứ bao dọc xanh ấy, chạy từ cầu vào kho. Tôi được sáu chuyến, ông ấy chạy mười chuyến mới nghỉ.
Hôm ông cụ Ước dẫn Thanh ra Sáu Kho giới thiệu với mấy người quen để hỏi việc xong, ông cụ còn đưa Thanh ra đứng ở ngoài cầu trước kho Đồng Hồ mà trỏ sang nhà máy Xi măng:
- Con sông ấy cũng do tay tôi đào đấy. Công ngày chỉ có ba xu thôi. Xu có hình bà đầm ngồi tay chống giáo, đầu đội mũ bện cành thiên tuế. Ăn gạo chỉ mất có một xu. Tôi đào xong sông thì vào làm nhà máy. Nhà máy mỗi khi chạy điện thì phải hàng năm mươi người kéo dây cua roa để chạy mô tơ. Còn lò nung thì phải đội đá, đội đất lên xếp. Cái lò cao như nhà gác ba tầng, có người rơi xuống đấy cháy thui như con bò. Chỉ những kéo dây da, vác thùng xi măng và đội đá mà vai, lưng, đầu không chỗ nào không thành chai, thành sẹo hết!...
Cụ Ước quay phía khác:
- Còn cái con sông Lấp này cũng do tay tôi khơi rồi lại do tay tôi lấp. Cái khu phố Khách, chợ Sắt toàn là đầm là bãi lấp bằng đất con sông Lấp. Thằng Tây nó khơi con sông Lấp là tính việc to lắm, sâu xa lắm. Chúng nó từ quan đầu tỉnh đến nhà buôn các sở mỏ rồi đến sen đầm, binh lính quần tụ lại với nhau ở riêng một khu có sông bao chung quanh như hào lũy ấy. Động rạng gì thì trại lính pháo thủ bên kia Hạ Lý, trại lính Cátdem bên này phố Tây, cứu ứng cho nhau, lương thực thì đã có hiệu Tây, hiệu Khách... dân ta ở ngoài rìa có nổi lên thì chúng nó bắn chết hết... Thằng chủ Carông thì định đóng tàu to và chữa ngay các tàu ngoại quốc ở Hải Phòng này. Tàu ngoài Sáu Kho cứ việc vào "đà" sông Lấp. Sở ngay cạnh đà chuyển máy chữa. Nhưng không hiểu về sau công ty bên Tây nghĩ sao lại không mở mang nữa!
Bàn tay cụ Ước vẫn chao vẫy như cánh chim:
- Cái bến tàu Tây điếc thì tôi xe gạch, đục đá xây. Rồi tôi làm gỗ, làm sắt dưới tàu Bình Chuẩn của ông ký Bưởi đóng để chạy đường Sà Goòng, cạnh tranh với hãng tàu Năm sao. Hôm tàu Bình Chuẩn "cao xế" (2)tôi mới lên bờ, anh em cùng làm dưới tàu ép tôi uống một bữa rượu, cha sinh mẹ đẻ chưa bao giờ tôi say đến như thế. Tôi phải bò từ dưới tàu lên bờ, rồi từ bờ không hiểu đi đứng thế nào mà về đến nhà được. Khi ông ký Bưởi thua kiện hết nghiệp lại bán lại tàu cho nhà Xôpha, tôi ra làm đá ngoài Tràng Kênh, rồi lại đi thuyền Trà Cổ. Nếu không bị cái quỷ ho này thì tôi không chịu ở đâu nóng chỗ... tôi còn đi làm...tôi còn đi...
⚝ ✽ ⚝
[2] Cao xế: hạ thủy chạy thử.
Cụ Ước khòm khòm cái lưng, bộ lông mày rậm đã bạc hết nhíu lại, đôi mắt sáng chớp chớp:
- Hải Phòng giờ thay đổi lắm rồi! Còn phải thay đổi nữa! Tôi phải sống mà trông thời thế vần xoay... Cậu giáo cứ ở đây với tôi. Cá chỉ lo không gặp được nước thôi!
... Cá chỉ lo không gặp được nước thôi!... Tôi phải sống mà trông thời thế vần xoay... Bố mày đỡ tao nằm xuống... Tao đi đây... Con sông Xi măng cũng do tay tôi đào. Cái bến tàu Tây điếc... tôi còn đi làm...tôi còn đi... - Những câu nói của cụ Ước lại xoắn lấy tâm trí Thanh, vang lên, cuồn cuộn như sóng bão. Bây giờ đến lượt Thanh òa lên khóc. Thanh khóc thầm. Cổ họng ứ ứ... Tim phổi ngột nghẹt...
Có thật cụ Ước chết rồi không? Sao cụ Ước lại chết được? Biết đâu khi Thanh về cụ đã hồi lại? Có cách gì làm cụ Ước sống lại bây giờ? Có cách gì làm cho những người như cụ Ước không chết được?
Gánh giành nước đi trước, Dâng cứ hết vạt áo bên này lại sang vạt áo bên kia rồi lại đến cánh tay áo chùi nước mắt. Dâng lại thấy bố con Dâng bơ vơ khốn khó vô cùng. Cái cảnh đồng đất nước người với hai bàn tay trắng lại như hang như vực ở trước mặt Dâng. Nhưng bố con Dâng ra đến đây cũng là cùng đường rồi. Gieo neo, hung dữ, khốn khó thế chứ hơn thế nữa bố con Dâng cũng chỉ còn biết nhờ giời trông lại cho, và nhờ những người thân cận hiền lành cùng cảnh nghèo khổ ở chung quanh.
Dâng cũng ở Nam Định, làng vùng bể. Cái năm đổ cây nước là năm mẹ Dâng có mang Dâng. Giữa lúc mưa bão mẹ Dâng giở dạ. Một mình ở cái túp cuối làng. Bố Dâng đi ở cày làng bên. Thấy nhà cửa trâu bò bị cuốn cả đi, bố Dâng cứ bơi về nhà. Ông ghép hai cánh phản mục lại, bồng vợ lên. Xếp được thúng quần áo, cái bát hương, hũ gạo và con chó con mới mua lên phản thì nước đánh băng búi tre đằng sau nhà đưa toang nhà đi. Mẹ Dâng không hiểu ôm hũ gạo và con chó thế nào mà buột mất. Mẹ Dâng sinh nở tám lần. Bố Dâng từ ngày vợ chết và kém mắt thì ở nhà. Quanh quẩn ai mượn gì làm nấy. Dâng một dạo đi ở trâu nhưng sau cũng ở nhà lần hồi với bố. Dâng chuyên bắt cua bán cho mấy hàng bún riêu ở chợ huyện. Từ ngày mẹ Dâng mất, năm bố con quanh năm chỉ được ngày bữa cháo và bữa cơm độn. Đến ngày mùa Dâng đi gặt cho người ta. Cua thì bán được đắt, nhà mới được hai bữa cơm no. Giêng hai năm nay đói kém quá, củ chuối củ lăn cũng không còn mà ăn nữa. Bòn được một giỏ cua đầy ra chợ phải nói như van như lạy mới đổi được lưng bát gạo. Những người nghèo đói trong làng nghe các cha về làm phúc kéo nhau đi phu Tân thế giới gần hết. Những người có bà con thân thuộc ở Thái Nguyên, Bắc Giang thì lại gồng gánh đưa nhau lên làm ấp. Hàng nửa tháng nhà Dâng chỉ lo được cho hai đứa bé mỗi đứa ngày một bát cháo. Bố Dâng đánh liều còn miếng đất và gian nhà bán nốt lấy tiền giả nợ còn thì đong gạo và lấy mấy suất tàu ra Hải Phòng tìm cụ Ước.
Thanh cùng đi chuyến tàu hôm ấy.
Đống gồng gánh nhà Thanh xếp cùng khoang với nhà Dâng. Thanh đã để ý đến vẻ lo sợ xớn xác trên nét mặt từ cha Dâng đến Dâng, đến Ngọt. Thanh đã ngờ, một là trong gánh nhà Dâng có hàng lậu, đồ gì phi pháp, hai là có sự gian lậu về cước vé. Lúc mại bản đi soát vé hành khách và khám hàng, Thanh càng hồi hộp. Nhà Dâng năm người chỉ có hai vé rưỡi. Bó giường chiếu tre lạt thừng chão rổ rá lại không có cước. Cha Dâng lạy van, xin thế nào cũng không được. Mại bản nhất định đuổi chị em Dâng, và quẳng đồ lên bến. Cả thằng em bé út của Dâng cũng xanh xám cả mặt lại. Bố con cứ ríu lấy nhau và quờ quạng giữ lấy đồ đạc.
Giữa dòng sông rộng, con tàu xuôi nước băng băng. Trên boong, hàng phở hàng cơm khách ăn ồn ồn như chợ. Ở mấy đám chắn, xóc đĩa lại càng hỗn loạn.
Bố con Dâng càng ngồi chúi vào nhau như bó củi rào. Tay cha Dâng cố khoàng ra ôm lấy thằng con bé và đống quần áo nồ