Nguyên Hồng Toàn Tập 3

Nguyên Hồng Toàn Tập 3

Tổng số chương: 27

3 giờ ngày 5 tháng 11-1935

⚝ ✽ ⚝

Cuốn nhật ký của Thanh ghi cũng đã được nhiều. Nhưng đêm nay ghi xong, Thanh không dám đọc lại. Thanh cất cuốn sổ xuống dưới gối rồi lại nằm, tay khoanh trên ngực, mắt nhìn lên nóc nhà. Nhà Thanh và cả mấy nhà bên cạnh đều không có đồng hồ. Thanh cứ ghi thời khắc như thế vì đã thấy tiếng dao, xiên và móc sắt va chạm nhau xủng xoẻng trong chiếc xe thùng bọc kẽm đi lấy thịt, lòng lợn trên ba toa (1)đã từ phía chợ Lạc Viên qua đường Máy nước hai vòi rồi. Tiếp đó là tiếng lộc xộc xập xình của chiếc xe vệ sinh và ánh đèn tù mù của chiếc đèn chai đỗ ở đầu ngõ xóm nhà Thanh đã giở về khu Đống Nổi. Cùng lúc có tiếng ho, tiếng hắt hơi dồn dập của ông cụ Ước ở đầu nhà đằng sau. Đã mấy tháng nay, đêm nào cũng vậy, cứ đến gà gáy lần thứ hai là thấy ông cụ ho, "Nó là quỷ thế nào ấy, hễ nghe thấy tiếng gà thì y như rằng nó bắt mình phải dậy". Ông cụ Ước, qua những tiếng thở dốc, thường phều phào rủa cái bệnh nọ những lúc ho khổ ho sở ấy.

⚝ ✽ ⚝

[1] Nơi mổ các gia súc.

Mẹ Thanh cũng ho, nhưng chỉ sau cơn hen mới ho.

Giờ mẹ Thanh đương ngồi rũ ra, gục lên cái tay nải kê trên thúng quần áo để chống đỡ với cơn bệnh. Nếu gà gáy lần thứ hai gọi dậy cái quỷ ho của ông cụ Ước thì những ngày con nước cũng kéo lên cái quỷ hen của mẹ Thanh. Nhưng hôm nay, chưa đến ngày con nước mẹ Thanh cũng đã lại hen rồi. Trời thấp, ẩm, có sương. Mặc thêm áo thì bức, không mặc thì lại gai gai lạnh lạnh. Thời tiết đã hành thêm mẹ Thanh. Còn phần chính là vì mẹ Thanh đã suy kiệt quá.

Ngọn đèn hoa kỳ không cần vặn to cũng đủ để người ta nhìn thấy rõ từ đôi gò má, đến lòng trũng mắt và nước da nhợt nhạt một cách đáng sợ của mẹ Thanh. Tuy đã gục lên tay nải và lả vào bức vách rồi mà người mẹ Thanh vẫn cứ bị giật bắn lên, vai ngực rúm lại. Và, mỗi lần tất cả ruột, gan, tim, phổi của mẹ Thanh bị gò rút kêu đánh hự một cái ấy, thì tiếp đó lại có mấy tiếng thào ra mà chỉ Thanh đoán biết được:

- Giêsuma lạy Chúa con!...

- Giêsuma lạy Chúa con!...

Không phải mẹ Thanh không còn đủ sức kêu lên thành tiếng. Mẹ Thanh cố chịu để trong nhà ngủ yên đấy thôi. Nhưng đã đến lúc mẹ Thanh không còn sức giữ được nữa, mà phải rên lên khe khẽ. Vừa phần trong lúc đau đớn quá sức mình này mẹ Thanh muốn kêu thầm lên như thế để thêm sức cho mình, nhất là để xin phép lạ cho mình chóng qua cơn khốn khó... Thanh đã thức giấc vì những tiếng thở giật và rên rỉ ấy. Bóng tối như một hang sâu sập xuống mặt Thanh khi Thanh nghển trông sang giường mẹ. Thanh lên tiếng gọi nhưng mẹ Thanh không đáp. Thanh phải dậy, lục tìm bao diêm ở đầu giường mẹ để thắp đèn.

- Mẹ! Mẹ lại hen à?

Người mẹ lắc đầu:

- Mẹ hen nhẹ thôi. Con dậy làm gì?!

- Mẹ có hút cà độc dược không, con cuốn cho.

- Không!... - Mẹ Thanh lắc đầu, giọng nói càng như hết hơi - Hôm nay hen nhẹ thôi.

- Cái gì mẹ cũng giấu! Cái gì mẹ cũng cứ chịu cả lấy một mình. Ban chiều mẹ đã thở không được lại còn đi gánh hai gánh nước. Khuya, máy vắng, con chỉ chạy ù đi mấy chuyến là đủ cả nước nhà ăn và làm hàng.

Mẹ Thanh không rên nữa, chỉ ôm lấy cái tay nải mà thở. Thanh không dám nói thêm, vặn to ngọn đèn, để khuất sau cái giành ấm che chỗ mẹ đi. Nước ủ ban tối vẫn nóng. Thanh rót một chén:

- Mẹ súc miệng rồi uống nước. Nước còn nóng đấy.

Người mẹ mở to mắt nhìn con:

- Rồi mẹ rót mẹ uống.

Thanh nhìn lại mẹ:

- Hay con đi đun nước sôi vậy. Chỗ chè tàu hãy còn pha được một ấm. Con hãm với cương tàm (2)cho mẹ uống.

- Thôi! Thôi! Sáng tan sương là mẹ đỡ.

⚝ ✽ ⚝

[2] Cương tàm: trứng tằm.

Thanh cau cau trán, đường gân xanh ở thái dương căng lên, phập phồng. Thanh đi lấy gói hoa cà độc dược phơi khô cài trên tấm liếp phía đầu giường mẹ. Thanh cuộn một điếu to bằng ngón tay đưa vào tận miệng mẹ, đánh diêm châm. Người mẹ phải đón lấy hút. Mùi thuốc ngai ngái xộc lên đặc cả gian nhà. Thanh phải cố nén sự nôn nao ở trong người mà vẫn hắt hơi luôn mấy cái. Thanh rót sẵn cho mẹ một chén nước rồi về chõng mình nằm.

Cái chõng nọ cũng của cụ Ước mượn một nhà trong xóm cho. Chõng kê sát với bức vách cửa ra vào. Ở giữa khoảng chõng Thanh nằm và giường của mẹ Thanh kê một bàn nhỏ. Khi mẹ Thanh dậy thường ngồi uống nước ở bàn. Hôm nào hen thì hút thuốc. Mẹ Thanh dậy được một lúc thì Thanh cũng dậy. Mẹ Thanh dậy trước cả chuông nhà thờ lần thứ nhất, cùng vào lúc cái xe thịt trên chợ Lạc Viên đi ba toa lấy thịt, sau đó thì chuyến xe đổ thùng ở đầu ngõ giở về. Thanh thường thức giấc trong tiếng đọc kinh của mẹ. Bà đọc thầm thì, ngồi quay mặt vào vách, hơi ngước lên cây thánh giá treo ở đầu giường. Bàn thờ của nhà Thanh tuy không còn đủ những lọ hoa, chân nến, tòa tượng Đức Mẹ, ảnh các ông thánh bà thánh, nhưng mẹ Thanh vẫn cố giữ mang từ Nam Định ra Hải Phòng này tấm gỗ hình bán nguyệt, một đôi lọ gỗ, hai cành hoa giấy và một đế gỗ sơn son để cắm thánh giá Đức chúa Giêsu.

Bàn thờ buộc ngay trên cột bương. Cũng ở trên đầu giường, mẹ Thanh còn cài vào liếp tấm ảnh Trái tim Đức Mẹ in trên giấy vân cát nhũ vàng. Đó là cái giải kỳ thi kinh bổn ngày mẹ Thanh còn con gái được thưởng vào một mùa chay trọng thể.

Lạy Nữ vương Mẹ nhân lành làm cho chúng tôi được sống được vui được cậy thân lạy Mẹ.

Chúng tôi con cháu Eva ở chốn khách đày kêu đến cùng Bà. Chúng tôi ở nơi khóc lóc kêu khẩn than thở Bà thương...

Tấm ảnh cài gần mặt mẹ Thanh nên lúc mẹ Thanh ngước nhìn, Thanh thấy đôi mắt mẹ như soi vào đôi mắt long lanh trong ảnh. Nhiều lúc đọc xong bản kinh, mẹ Thanh còn với tấm ảnh xuống mà hít hít, xuýt xoa nhắc đi nhắc lại:

- Lạy mẹ hằng cứu giúp con!

- Xin Chúa thương xót con!

- Giêsuma! Sao con phải chịu những phần đau đớn khốn khó như thế này?

Sáng nay Thanh lại dậy cùng với mẹ, nhưng Thanh không thấy có tiếng mẹ đọc kinh. Thanh đành nằm im mà nghe tiếng thở, tiếng ho của mẹ, và thỉnh thoảng Thanh phải quay hẳn ra nhìn chỗ mẹ nằm.

Vẫn cái giường bình khung bằng gỗ lim đã đen bóng như sừng: đồ vật quý giá độc nhất còn lại của gia đình Thanh. Vẫn cái thúng sơn đã thủng, phải vá bằng miếng vải nâu cứng như mo nang, đựng những quần áo lành lặn mặc thường, đồ khâu vá và mấy gói thuốc lá dùng những khi cấp bách. Vẫn cái tay nải bằng vải chéo go mẹ Thanh may từ ngày còn con gái, trong đó không biết mẹ Thanh xếp những thứ gì mà mỗi khi mẹ Thanh phơi phóng lại bày ra nào cuộn, nào gói, nào hộp, nào túi... đầy cả một chiếc chiếu và phải là chiếc chiếu sạch nhất, rồi mẹ Thanh ngồi canh như canh tủ bạc. Một lần Thanh giở trộm một cuộn to nhất và cũng chằng buộc kỹ nhất ra xem, thì thấy có mấy đệp những giấy chữ Nho và một cái mũ da bịt tai như kiểu mũ nhà sư trong lót da rái cá. Mấy đệp giấy đều kẹp bằng mo cau đã phơi khô mà vẫn mềm nõn như dạ, cắt vừa nhỏ vừa xinh. Còn cái mũ thì hình như không bao giờ đội đến, nên tuyết lông vẫn mượt mỡ, cầm mũ ngửi thấy thơm tho một cách lạ.

Đây có phải là những đơn thuốc gia truyền quý báu của từ mấy đời các cụ trước nữa kia để lại cho cụ Lang già mà đôi lần Thanh đã được mẹ kể chuyện lại một cách kính mến và nhớ tiếc vô cùng không? Cụ Lang già là ông nội mẹ Thanh. Trong họ có một cụ nữa làm lang và cũng nổi tiếng nhưng vừa là ngành dưới vừa ít tuổi. Cả các quan lớn tỉnh cũng phải uống thuốc của cụ Lang già. Nhưng "người" vẫn nghèo. Không những thế lại còn mắc nợ mà khi "người" hấp hối còn giối đi giối lại cho con cháu thế nào cũng phải giả. Nhưng con cháu không ai giả nổi mà có một người ở mãi tỉnh Đông nhờ thuốc "người" đã khỏi bệnh và lại còn được "người" cho cả đơn, nên khi làm ăn khá giả đã tìm đến "người", thấy chuyện như thế thì nói xin giả các món nợ cho "người" và còn cố xin được xây đền ơn "người" một ngôi mộ bằng đá.

"Người" chuyên bốc thuốc làm phúc. Những năm dịch tễ, "người" đi chữa cho cả tỉnh. Ai đưa tiền thì đưa, không đưa thì thôi. "Người" còn xuất cả tiền cho những kẻ nghèo khó mua ván, mua chiếu. Cái mũ dạ là của một cụ đồ nho nghe đâu là cháu quan án, quan bố gì bỏ cả tập ấm vào rừng chống nhau với quan Tây ở ngoài Đông Triều, Quảng Yên rồi ốm chết ở trên núi. Ông cụ đồ nọ cũng nổi tiếng, nổi tiếng về hay chữ, nhưng đi thi lại không đỗ. Có một chú khách nghe tiếng ông cụ tìm đến xin chữ ông cụ để treo ở nhà và biếu ông cụ cái mũ nọ thửa mãi tận Bắc Kinh. Cụ Lang già cũng chữa thuốc và không lấy một đồng nào của người con giai cả con ông cụ đồ hay chữ nọ. Ông cụ đồ nọ biếu lại ông cụ Lang cái mũ. Tuy nhận nhưng ông cụ Lang chỉ cất đi. Cái mũ truyền đến đời ông ngoại Thanh. Ông ngoại Thanh được mỗi mình mẹ Thanh, và, đến đời "người" nhà lại càng sa sút. Một năm rét chết cả trâu cày, mẹ Thanh đã mở tay nải ra để lấy mũ đưa cho chú dượng Thanh, nhưng nghĩ ngợi sao lại gói lại, cất đi...

Từ ngày Thanh có trí khôn, Thanh đã thấy những lúc giở giời, những ngày con nước, mẹ Thanh ngồi gục lên cái tay nải và cái thúng sơn ấy. Năm nay Thanh mười tám tuổi rồi. Cũng vẫn trên cái giường bình khung cũ kỹ ấy, dưới cây thánh giá và tấm ảnh Trái tim Đức Mẹ ấy, chiều hôm ban sáng hay những lúc vắng vẻ, mưa gió, mẹ Thanh vẫn ngồi một mình lần tràng hạt và đọc thêm không biết bao nhiêu kinh mà cả những con gái thơ kinh nổi tiếng trong nhà bà sờ, ở các họ lẻ, ở toàn xứ đọc cũng bị vấp, bị lỗi. Duy chỉ có mẹ Thanh khi ở nhà cũng như khi đi thi kinh, thi bổn, gặp bản khó đến đâu, lạ đến đâu cũng đọc trơn tru. Ví thử cho cả "nữ" được thi "ngắm" thì giải hàng xứ về hết họ ông Thánh Giuse nhà ta mất! Chung quanh cô Na - Na là tên cái của mẹ Thanh - qua bao nhiêu năm đã đồn đi không biết bao nhiêu chuyện.

Năm năm cứ đến ngày lễ Phục sinh, nhà thờ mở thi "ngắm" mười lăm đường thánh giá cho toàn xứ mà họa hoằn mới có nhân danh được giải và giải thưởng về tay một vài "quan viên" ở họ ông thánh khác, người ta lại nhắc đến cô Na. Nhiều bà táo tợn đã mượn khăn áo đàn ông, xui Na búi tóc mặc quần trắng, áo the, đi xứ xa xin vào "ngắm", nhưng Na không dám. Có lần, giới nữ họ bà thánh Ana đánh lừa Na, bảo đến nhà bà trùm có việc cần. Khi Na đến, áo thụng xanh, khăn trắng đã sắp sẵn, họ xúm lại mặc áo, chít khăn cho Na rồi bắt Na đứng giữa nhà "ngắm" không cần sách gì cả.

Na khoanh tay, đầu cúi cúi, cất tiếng như có thật nến thắp, trầm đốt, sách mở và thánh giá ở trước mặt. Bản ngắm dài nhất, nhiều câu, nhiều chữ khó nhất, người "ngắm" phải lên gối xuống gối để quỳ lạy tượng chịu nạn cũng nhiều nhất, non nửa tiếng đồng hồ ngân nga thánh thót không gợn một vấp váp, không chệch một nhịp nhàng. Cho đến chữ cuối cùng, tiếng ngân sau chót vẫn còn thấy ngân vang như không dứt với tiếng trống con tung tung một hồi chấm thưởng. Na rành rẽ, khoan thai lúc "ngắm" thế nào thì khi quỳ lạy thánh giá lần cuối cùng rồi đi về chỗ cũng chững chạc, ý nhị như thế. Mấy bà đã vồ ôm lấy Na, kêu rú lên, xuýt xoa mãi: "Giêsu! Giêsu! Lạy Chúa tôi cái con này!". Ông cụ trùm đi về, đứng né bên cửa, không chờ Na cởi áo cởi khăn, đi vào, lắc đầu:

- Cái con Na thế này thì ghê gớm thật. Năm nay tao bảy mươi tư tuổi, đi lên xứ Bắc, ra cả xứ Đông, chỉ thấy có mày là một thôi đấy!

Na không phải là người có nhan sắc. Người dong dỏng, da ngăm đen, gò má xương xương, hay ốm, nhút nhát, cả ngày chỉ quanh quẩn trong nhà với mẹ. Năm Na đôi mươi, hai mươi hai, hai mươi ba, có mấy đám hỏi. Có cả đám xin ở rể. Bà mẹ nhận nhời nhưng Na từ chối. Hỏi ý Na, Na chỉ ngập ngừng nói mẹ được mình con, con có mình mẹ, nghĩ cảnh nhà Na chưa dám tính đến chuyện chồng con. Na hai mươi bốn, hai mươi nhăm rồi hai mươi sáu. Đùng cái, một chuyện gớm ghiếc thực thực, hư hư truyền đi. Na có tình ý với thày giáo dạy đàn trong nhà chung. Tiếp đó mấy tháng, Na càng lặng lẽ, có khi cả tuần không ra đến ngoài. Rồi thấy nói Na về quê ngoại.

Thanh là đứa con đẻ hoang mà người ta chờ xem mặt nọ. Na đi biệt được hai năm thì bế Thanh về. Không còn ai nhận được ra Na. Na càng gầy yếu, càng hấm húi ở nhà thổi xôi nấu chè, làm bánh cho mẹ. Người nhà thày đàn giỏi, da như ngó cần, mắt như nước, những buổi lễ cả, lễ sinh nhật hay các ngày tết đã làm trọng thể vô cùng cái dàn nhạc hát của nhà thờ với tiếng đàn vĩ cầm của y..., cái thằng bị chước mốc ma quỷ cám dỗ ấy, cũng đi đâu ấy ngay sau khi tai tiếng kia vỡ ra, và Na không được đi nhà thờ. Nghe nói đâu y vào Huế, vào Sài Gòn. Bị đuổi ra khỏi nhà chung, y đi dạy đàn các con Tây ở bên ngoài kiếm ăn.

Người ta bảo Thanh giống thằng ấy như lột, từ cái nước da, cái con mắt đến cái trán và đường gân xanh ở thái dương.

Người ăn ở với mẹ Thanh sau này làm nghề thợ mộc. Người này cũng có hoa tay, đặc biệt là lợp nhà. Nhà ông lợp, đồng xu chỉ thả nhẹ cũng trôi thẳng từ nóc xuống đất. Bà Na cho không con gái. Mẹ Thanh đẻ được thêm cái Ngơ. Ngơ được bốn tháng thì bà ngoại mất. Khi bà cụ sinh thì, mẹ Thanh đi rước cha về cho bà cụ xưng tội lần sau hết xong, lạy bà cụ và hỏi có dặn dò gì không thì bà cụ chỉ lắc đầu, rân rấn nước mắt.

Năm Ngơ lên ba, chú dượng Thanh vào tỉnh làm ở dinh quan Xứ bị ngã gãy tay. Từ ngày đó ông đâm ra nghiện rượu. Ông bỏ nhà đi các tỉnh làm với một người em họ và chết vì cảm rượu ở nhà trọ. Mẹ Thanh càng gầy ốm, ủ dột. Tới năm Ngơ lên năm vẫn bấy bớt, đi phải men giường, chẳng biết "dạ" biết đòi gì cả. Năm nay Ngơ mười ba, người cứ còm nhom, đờ đờ đẫn đẫn. Ai có đưa cho tờ giấy bạc bảo đổi lấy tiền xu cũng không biết đổi ra sao, thế nào là đủ, thế nào là thiếu...

... Có đến mười bốn mười lăm năm rồi, mẹ Thanh ốm hen và vẫn ngồi cái dáng ngồi ấy, thở những hơi thở, ho những tiếng ho ấy, và ở trên cái giường ấy. Càng ngày mẹ Thanh càng như hệt bà ngoại Thanh. Có khác một chút là tóc mẹ Thanh chưa bạc hết và người còn có tí da tí thịt chứ không khô gày quá như bà ngoại Thanh. Còn một điều nữa là mẹ con Thanh không còn ở cái nơi chôn rau cắt rốn với bao nhiêu điều buồn tủi đau xót của một cảnh đời nghèo túng cô độc.

Cái tỉnh Nam Định ấy, có lẽ không bao giờ mẹ con Thanh trở lại.

Mẹ Thanh nuôi Thanh ăn học đã đỗ được bằng sơ học Pháp - Việt. Hai mẹ con đã đưa nhau đi hết cửa nọ đến cửa kia mà không sao có được công việc. Các nhà Máy sợi, Máy tơ, Máy chiếu, Máy rượu, nhà thầu Vệ sinh, nhà thầu Sở lục lộ, thậm chí đến xin làm việc cơm không cho mấy nhà mở gara chữa ô tô... cũng không đâu lấy người. Trái lại, đâu cũng chỉ thấy hàng chục, hàng trăm người chầu chực, đút lót mà họ lại có nhiều chân tay bên trong lo liệu cho chứ không như Thanh...! Mười bảy, mười tám tuổi đầu, vừa thôi học ở nhà trường ra, sức vóc yếu đuối, cảnh nhà đã đến bước cùng kiệt, công việc như thế, Thanh sẽ làm gì mà sống được bây giờ? Đói khổ, khó khăn, vất vả, lầm than... đều ghê sợ. Nhưng có một điều Thanh còn thấy ghê sợ hơn, ghê sợ vô cùng, và đã tới lúc Thanh không thể nào chịu đựng được nữa rồi: thành kiến và tai tiếng.

Ở cái tỉnh Nam Định của Thanh ấy có đói cũng không được chịu đói một cách yên thân. Người đói phải làm như mình không đói, để không ai biết được mình đói, để ý đến cái đói của mình. Nhà bên này đường, bên kia đường có thiếu bữa gạo phải đem quả son đi vay. Ăn cháo, trong nhà phải đóng cửa và rít vào tai các con nhỏ không được đòi thêm, tranh nhau, khóc lóc. Gần đến ngày giỗ chính mà trong nhà chưa mua sắm được các thứ thì người nàng dâu cả bàng hoàng như sắp ra tòa tử hình. Lúc quẫn bách, có cặp áo, chiếc chậu thau, chiếc mâm muốn đến hiệu Vạn Bảo cầm thì phải thuê người đưa đi từ gà gáy. Nhà nào mang công mắc nợ mà thấy tên khách nợ tay xách cái khăn gói lòi thòi bộ xe lọ, cái cút, chỉ đến đầu ngõ hắng giọng "e hèm" mắng chó, là cả người già con trẻ ở trong nhà đã òa lên khóc...

Mẹ con Thanh đã bỏ cái tỉnh quê cha đất tổ ấy rồi! Mẹ con Thanh đã đưa nhau ra đến cái đất Hải Phòng này coi như là sơn cùng thủy tận. Để mà tìm phương kế sinh nhai. Nghĩa là muốn vất vả lầm than thế nào chăng nữa nhưng không ai biết mình là ai. Và để được ngày có hai bữa không thì một bữa lần hồi mà sống...

***

Hút xong điếu thuốc hoa cà độc dược được một lúc, người mẹ dịu dịu cơn bệnh. Vai, cổ, ngực bà vẫn giật giật nhưng bà đã thở được đều hơn một chút. Bà đỡ nấc, những cái nấc gò rút cả mỏ ác lại. Người mẹ ngồi gục được yên trên cái tay nải mà thở. Những tiếng thở ò ò từng phút kéo to hơn chen lẫn với những tiếng nói ú ớ của một cơn mê thiếp mà thần kinh bị rối loạn vì bộ máy hô hấp ngột ngạt.

Tiếng xủng xoẻng của chiếc xe đi lấy thịt và tiếng lịch kịch của chiếc xe đổ thùng không còn nghe thấy nữa. Đêm lại lặng đi một lúc lâu. Dần dần những tiếng rào rào xáo xác nổi lên ở trong xóm. Tiếng vo gạo, giội nước. Tiếng chẻ củi đóm. Tiếng cọ rửa xanh nồi, bát đĩa. Tiếng gà vịt quang quác choe chóe.

Chung quanh đã dậy làm hàng, thổi cơm nấu nước, và sắp sửa đi tầm.

Tháng trước, mẹ Thanh thổi xôi, nấu chè đỗ đen, cũng bán ở đầu ngõ cho những người đi làm Máy tơ, Xi măng, Sáu Kho và trên phố. Hai tuần nay, phần vì giời bắt đầu mát, phần vì không có vốn bán chịu đến kỳ tiền, nên mẹ Thanh nghỉ xôi chè. Cái vốn nhỏ để lần hồi lại mỗi ngày một cùn cụt. Mẹ Thanh xoay ra làm bánh đúc lạc hành mỡ. Nếu không ốm, thì giờ đây mẹ Thanh đương quấy bánh. Chốc nữa, trước khi Thanh cũng lên phố, Thanh và cái Ngơ sẽ có một đĩa cháy bánh, anh em chia nhau ăn chờ đến chiều mẹ về chợ đong gạo mới nấu cơm.

Cái ánh lửa quen thuộc ở dưới bếp lại thoáng qua trí tưởng Thanh. Thanh thấy nhớ và ngậm ngùi.

Đã có lần Thanh tính đến sẽ xay bột, quấy bánh rồi đi bán thay mẹ. Một giai mười tám tuổi học trò, đội mũ ngồi sau mẹt bánh đúc, cắt bánh, lau bát đũa và đón lấy những đồng xu của đàn bà con gái giả tiền ăn... cái hình ảnh ấy làm tâm trí Thanh nhói hẳn lên. Thế nào thì thế, người nhìn Thanh cũng phải lấy làm lạ. Cũng như đối với bao nhiêu lối xoay giở làm ăn kỳ cục của những người thất nghiệp nhan nhản ngoài đường phố. Không!... Không!... Thanh cũng như những người còn mạnh chân khỏe tay kia không việc gì mà xấu hổ. Có thì chỉ đau xót thôi! Đội than, móc cống, kéo xe rác, vác nứa, đẩy xe ba gác, chẻ củi, quét chợ... khó nhọc lam lũ thế nào cũng được. Miễn là đừng buôn gánh, bán bưng tranh cả với đàn bà con gái. Miễn là đừng phải lê la đầu đường cuối chợ với một sức dài vai rộng. Điều này không phải chỉ đàn ông con giai nghĩ mà tủi cực. Nhiều người con gái lớn mà Thanh đã chú ý, nhất là khi hỏi chuyện, họ cũng tỏ vẻ ngượng nghịu vì cái mẹt tò he, rổ mía bưởi cắp bán rong hay khi họ đứng chào khách ở các cổng chợ, rạp hát, bãi bóng.

Nhưng cả đến đội than, quét đường, múc nước cống, chẻ củi... ở cái thành phố lớn này sao mà cũng khó xin thế. Sáu Kho, bến tàu, Xi măng, Cốt phát, lán bè, các tràn than, các cửa hiệu... hàng mười lần, hai mươi lần, năm mươi lần, trăm lần rồi..., Thanh dò hỏi, nộp đơn, chầu chực, nói khó, cạy cục nhưng không được làm đâu cả. Có vài chỗ người ta hứa đấy nhưng Thanh chờ hết nước hết cái, hết hẹn nọ đến hẹn kia, để rồi lại được giả nhời thế này:

- Sở không lấy người nữa!

- Hết việc rồi!

- Đây lại sắp dãn người ra, dãn hẳn một nửa!

Thanh không nhìn mẹ nữa. Thanh trằn người quay mặt vào bức vách. Thanh ấp tay lên trán, tự nhủ:

- Hay mấy hôm nữa chờ mẹ ta đỡ hen, ta liều theo người ta ra Cẩm Phả, Vàng Danh xem sao.

Năm tháng rồi còn gì! Bước đường cùng kiệt lại sâu xuống thêm một bực. Những hy vọng mong manh cùng với những hình ảnh cố tưởng tượng để tâm trí tươi mát, khỏe lên cũng đã lụi dần. Cái cửa biển Hải Phòng và thành phố kỹ nghệ của nó có thể coi như là gần tuyệt hết đường sinh sống đối với Thanh rồi. Nào sở Xi măng hơn vạn cu li, thợ, cai, ký... Nào Máy tơ hàng bốn, năm nghìn đàn bà con gái đứng máy... Nào hãng tàu Xôpha, sở Carông, sở Đăngxét chữa các thứ máy... nào Nhà máy gạch, máy cống... nào hãng sợi Thuận Thái, hãng thầu cầu cống, nhà cửa Đơvanhxy, hãng thầu thức ăn các tàu biển Thy San... nào nhà buôn Sápphănggiông, to không kém nhà Gôđa trên Hà Nội,... nào hãng dầu Sen Mỹ, nhà băng Ănglê,... nhất là Sáu Kho... Sáu Kho hàng hóa, tiền của chất đầy như núi trong các kho hàng và la liệt ở cả ngoài giời, ngoài bãi... Những cái tên ấy nghe người ta nói lên, truyền đi, không ai lại tưởng đến đây mà mình lại không có công ăn việc làm, và nếu mà được làm thì cả nhà sẽ tha hồ no ấm, đời sống sẽ tha hồ chắc chắn.

Khi Thanh bước chân xuống tàu ra đây, nhất là khi tàu chạy từ xa còn ở bên Kiến An, trông sang thành phố, Thanh đã phấp phỏng tưởng như tim đập đến vỡ ra mất. Ánh đèn của các tàu biển và bến Sáu Kho cứ như sao sa. Những nhà máy với những ống khói, những tầng lò trập trùng như những chặng rừng, những đỉnh núi. Con tàu chở Thanh cặp bến thì vừa tảng sáng. Sông nước, trời mây đều hiển hiện lấp lánh như cồn vàng, bãi bạc, âm âm, vang vang. Thuyền bè, xe cộ, gồng gánh, người đi lại cứ dần ùn ùn lên như mắc cửi ở chung quanh Thanh.

Phải! Làm sao đến đất này mà lại không có công ăn việc làm được? Sự sống ở đây phải khác hẳn ở cái quê hương của Thanh kia.

Thanh lắc lắc đầu, nhắm mắt lại. Thanh đặt ngang cánh tay lên mắt. Ở giường bên kia, tiếng thở của mẹ Thanh vẫn ò ò chen lẫn với tiếng mê u ú. Cái hình thù đầu tóc rã rượi gục lên trên đống tay nải và thúng đồ đạc, vẫn giật giật, vai ngực gò lại, thon thót. Thanh nghĩ đến mai kia, mẹ Thanh vừa dứt cơn lại phải làm hàng, chạy chợ luôn. Nhà còn có được hơn đồng bạc thì đã đong mất bốn hào gạo, ăn từ hôm kia. Cái mẹt bánh đúc lạc để nuôi nhà ba miệng ăn ấy đã mất đi một góc rồi! Rồi đây cái vốn cuối cùng ấy mà lại đem ăn hết thì mẹ con sống bằng cái gì?

Tâm trí Thanh thắt lại...

- La ơi! Mày có dậy vỗ vỗ nó mấy cái cho nó ngủ để tao vá nốt miếng quần này không?

Đằng sau nhà Thanh, đã thấy tiếng mẹ La sa sả gọi con. Nhưng thằng La vẫn chưa dậy. Con bé con khóc thét hẳn lên, giẫy đạp thình thình.

- Giời đất ơi! Mày có dỗ nó cho tao không!... Tôi chỉ chết vì con với cái đây. Có mỗi manh quần mặc đi làm mà rách để cả... ra mà không sao vá được!

Trước cái bếp nấu nước của cụ Ước, mẹ La mặc mỗi cái yếm và cái quần đùi, cúi cúi sát vào ánh lửa mà dùi từng mũi kim. Thỉnh thoảng mẹ lại lấy cái quần đương vá mà chấm chấm cặp mắt ứa nước ra cay xè. Trên nhà, ở góc trong giường, thằng La đã lăn ra phía ngoài, choàng lấy con bé em:

- A mía nào! Ổi nào! Khoai nào! Thằng eeng (3)ngủ đi... ngủ đi...

⚝ ✽ ⚝

[3] Thằng eeng ngủ đi: Thằng La nghịch gọi con bé em gái nó là thằng em và nói chệch ra là thằng eeng (chú thích của tác giả).

Con bé em cứ giãy đành đạch. Thằng La càng tíu tít. Vẫn những câu dỗ dành đã thành bài của nó:

- Khoai nớ! Mía nớ! Ổi nớ... Ngủ đi... thằng eeng ngủ đi rồi mai anh cõng đi mua mía nớ... khoai nớ...ổi nớ...

Con bé không thét nữa mà túm lấy tóc La, cào vào mặt La, giãy đạp mạnh hơn.

- A! Thằng eeng cáu sườn. Ngủ đi... ngủ đi... rồi mai anh cõng đi mua khoai nào, ổi nào... mía nào... và ra kho xem tàu to về nữa. Á á thằng eeng... thằng eeng ghê quá!... Lại cắn anh nữa! Á á, ghê quá! Đừng cào! Đừng cắn anh nhé... eeng! Eeng! Á á sứt mẹ nó cả mũi người ta rồi! Chảy máu mắt người ta ra rồi... Ông đếch dỗ nữa... đếch dỗ con quái con nữa, cả ngày cõng mày, ông khòm cả lưng, vẹo cả xương sườn... Ông đếch làm đày tớ mày nữa...

Đốp... đốp... thằng La đạp con bé em ra, phát luôn mấy cái vào đít. Nó lấy vạt áo dụi dụi mắt và chấm chấm chỗ bị cào, có lẽ bị xước hẳn thịt hay sao mà xót thế này. Người mẹ lòng thòng ôm cả cái quần vá đùm vá đụp chạy lên nhà:

- Khổ chưa! Khổ chưa! Cái thân đời tôi còn có ai khốn nạn hơn không? Giời ơi! Giời!

Thấy mẹ chạy vào và lên tiếng, con bé quay ra và khóc nức nở. Người mẹ nằm kềnh ra bên nó, xốc nó gối đầu lên cánh tay, rồi trật vội yếm cho nó sờ vú:

- Đây cái thèm của nó đây! Cái thèm của nó đây!...

Con bé sục ngay vào cái vú beo mà bú, vừa xoắn lấy đầu vú bên kia vê vê. Tiếng khóc bặt hẳn. Chỉ còn tiếng thở khụt khịt. Năm nay con bé đã lên bốn. Tuy đã cai sữa nhưng nó vẫn còn giữ cái lệ bú vú da và phải sờ cái "thèm" mới ngủ được. Mặc mẹ nâng niu em, thằng La lại lăn một vòng vào xó giường cạnh đứa em gái lớn díp mắt lại ngủ.

- Cha bố nó, nó đi bêu nắng bêu gió con gái tôi thế này làm gì mà con gái tôi chả nóng đầu, chả quấy mẹ. Cha bố nó, con gái tôi là ngoan lắm cơ, quý lắm cơ. Sau này tôi chả ở với cái thằng giặc ấy, tôi chỉ ở với con gái tôi thôi. Chỉ có con gái tôi là biết thương mẹ thôi. Thằng giặc ấy rồi lại chỉ như cái thằng bố nó! Cái thằng bố nó là quân khốn, quân nạn! Làm được đồng nào không uống rượu thì cũng đem đến bàn xóc đĩa cúng hết! Nó ăn ngập mồm ngập miệng. Chân giò ư! Nem chạo ư! Cá rán ư! Thịt chó ư! Chẳng còn biết đến ai cả. Sống vạch mặt, chết chỉ mồ. Chuyến này mà mày còn vác cái mặt mo mặt thớt về nhà thì bà đạp vào mặt cho ấy.

Mẹ La vừa xoa xoa lưng con vừa ru rím, kể lể. Vẫn những câu nói nhắc đi nhắc lại mà chung quanh nghe đã thuộc. Và cuối cùng lại:

- Tôi chỉ quý con gái tôi thôi! Sau này tôi chỉ ở với con gái tôi thôi!

Đứa con gái đầu lòng của mẹ La là cái Lai rồi đến cái Lê nhớn. Lúc đó thằng La bé nhất thì mẹ La vỗ về nựng nịu "Tôi chỉ ở với con giai bé tôi thôi! Chỉ có con giai bé tôi là thương tôi thôi!". Rồi thằng La lớn lên, cái Lai, cái Lê nhớn chê nghèo bỏ đi. Người mẹ thêm đứa khác. Thì đứa này lại được nựng nịu như thế. Tới con bé này là thứ bảy. Không biết rồi đây mẹ La sẽ nựng thế nào khi mà người chồng rượu chè cờ bạc nọ vẫn cứ lúc nào bòn không ra sờ không thấy lại mò về. Vợ lại chửa, lại đẻ. Vẫn một mình chạy vạy nuôi đàn con.

Con bé đã dứt đánh phựt cái đầu vú, miệng chèm chẹp mấy cái. Nó quay ra, xoạc hai chân, thở khò khò. Mẹ La khẽ nhấc cánh tay ra, quơ cái áo rách gối đầu cho con rồi ôm cái quần xuống bếp.

Cụ Ước ngước mặt lên, nheo nheo mắt hỏi:

- Mẹ La vá chưa xong à?

- Ông tính xong thế nào mà xong. Con chỉ túm lại cho nó khỏi... kẻo nữa ra đường mình có đứng bên cạnh những đứa giàu có sang trọng, chúng nó lại xấu hổ. Chúng nó lại bảo mình không nhờ vả được chúng nó thì chửi khéo chúng nó... "À! Chúng mày bụng bọ thì bà chật "nhồn" vào mặt chúng mày đây này"...

- Con mẹ này chỉ được cái thế! Mày còn là khổ vì những nhời ăn tiếng nói!

- Vâng chỉ vì nhời ăn tiếng nói con còn là khổ. Như vậy thì con phải liệu liệu mà khoan thai, ngọt ngào, mô phạm để giữ sĩ diện cho chúng nó... cho ông bằng lòng nhé.

Cụ Ước cười. Mẹ La xỏ xong sợi chỉ, ngừng lại hỏi cụ Ước:

- Ông này! Từ chiều hôm qua bà giáo Thanh lại suyễn nặng, không biết giờ đã đỡ chưa?

- Ấy, hôm qua giở giời, cái quỷ ho nó cũng lại hành tao. Tao lại ho rút cả ruột cả gan. Ban tối tao cũng định sang nhưng thấy cậu giáo cậu ấy không có nhà nên thôi. À mà cậu ấy vẫn cứ dậy làm gì mà sớm thế? Mới ba giờ đã thấy cậu ấy ngồi hấm húi viết rồi.

Chợt một bên đầu mẹ La lại đau nhói. Mẹ nhăn mặt một cái, cúi xuống cho vừa đỡ đau vừa đỡ hoa mắt:

- Con cũng thế ông ạ. Không hiểu cái "sản" nó lại cắn hay sao mà nửa bên trái đầu con cứ như dùi đóng thế này?

Mẹ La lại nghĩ đến ngày mai phiên chợ: có các thuyền mía đến dỡ hàng và các thuyền bên Kiến An sang ăn than thì mẹ làm ăn thế nào?

- Không làm thì đói, làm thì chói xương hom.

Mẹ La chép miệng, thở dài khẽ, lại cúi xuống miếng mụn vá cái chỗ đũng quần xoạc ra bằng bàn tay. Cụ Ước rắc thêm nắm mùn cưa, chất thêm mấy đầu củi, lọm khọm đứng lên:

- Có đun nữa thì mẹ mày cho hai thanh củi kia vào nhé. Sôi già thì bắc ra đổ vào vò ủ kỹ cho tao. Tao sang với cậu ấy một tí không có chốc nữa cậu ấy cũng lại đi...

Trời đất vẫn tối. Sương dày từng tảng quấn theo ông cụ. Gió lành lạnh. Như có mưa bụi. Thấy tiếng người ho và lào phào gọi ngoài cửa, Thanh nhỏm dậy:

- Cụ để cháu mở.

Thanh nâng tấm liếp, gượng nhẹ kéo ra. Cụ Ước bước vào. Tuy người ông cụ đã khòm khòm, mấy lâu nay lại gầy đi nhiều nhưng ông cụ vẫn như con gấu lớn đứng ở giữa gian nhà. Cặp lông mày của ông cụ bạc phơ, rủ cả xuống mắt. Có những sợi dài cong vươn lên như lông mày của những ông cụ đẹp lão ngày xưa trong tranh Tàu. Mắt ông cụ hơi nheo lại mà vẫn lấp lánh. Ông cụ đặt cái ấm tích lên bàn, nhìn Thanh nói:

- Bà lại mỏi, không làm hàng được?

- Vâng, mẹ cháu lại hen. Cụ nấu nước rồi?

- Hôm nay tôi cũng mệt, nghỉ thì tiếc. Tôi nấu có ấm nhỏ bán chốc nhát cho anh em quen rồi về sớm. Cái chè hôm nay thật là chè vườn bà cụ Điếc bên Thủy Nguyên, xanh và được nước lắm. Tôi hãm một tích đưa sang để bà uống sớm.

Ông cụ nói đoạn nhấc cái giành ấm ở mé trong bàn ra, bỏ cái tích của mình vào:

- Bà ngủ cứ để bà ngủ. Cậu uống với tôi.

Thanh còn đương luống cuống trước những cử chỉ ân cần mà tự nhiên nọ thì ông cụ nói tiếp:

- Chốc nữa cậu có xuống phố thì lại đến hàng tôi. Hôm kia lão cai bao khoán ở nhà Đờvanhxy nó gọi người đi làm Hội chợ.

Đã nhiều lần cụ Ước mời Thanh. Hễ Thanh đến hàng ông cụ là ông cụ bắt hút thuốc lá, rồi hôm thì cùng ông cụ ăn bánh rán bánh kê.

Thường bao giờ cũng ăn khoai, thứ khoai đỗ vàng, bở như bột đậu xanh, nhiều bữa ông cụ ăn với tôm trứng rang thay bữa cơm. Như lại thấy những ý nghĩ ngại ngùng của Thanh, cụ Ước cầm chén nước Thanh rót, uống:

- Cậu cứ đến hàng tôi, gặp việc thì cậu đi làm, không thì ngồi nói chuyện. Tôi bây giờ chỉ còn cái vui ấy thôi là nấu được ấm chè ngon bán và được nghe chuyện.

Nước chè rót ra hãy còn nóng sút, nhưng uống vào lại thấy mát như có ướp một thứ hoa gì đặc biệt. Thanh uống hết chén nước, trong người cồn hẳn lên.

- Cậu giáo này, bà đã ăn cái tắc kè chưa?

- Thưa cụ rồi đấy ạ. Mẹ cháu không uống được rượu ngâm thì nấu cháo ăn.

- Thế bà đã ăn cái nghệ hấp với trứng vịt chưa?

- Đã, mẹ cháu ăn mấy lần.

Cụ Ước ngẫm nghĩ:

- À, thế thì có ai mách bà cái cá trê xát với nhựa xương rồng đem nướng ăn?

- Ăn cả rồi đấy ạ! Mẹ cháu ăn cũng nôn ra cả mật xanh mật vàng, lử đi mất mấy hôm.

Cụ Ước cười:

- Thế thì cũng như cái quỷ ho của tôi đấy! Có lẽ phải đi tìm, đi cầu cho được cụ Biển Thước hay cụ Lãn Ông về, may ra mới chữa khỏi.

Tuy ngoài miệng cười, nhưng trong lòng ông cụ lại thấy áy náy. Bà ấy cứ tháng một tuần, tháng hai tuần ốm thế này thì mẹ con làm ăn thế nào? Chưa thấy nhà nào như vậy. Có ăn cháo hay nhịn đói cũng không chịu hỏi vay gạo ai. Chung quanh có xét nét lắm mới biết. Mẹ con cứ lẳng lặng, đã ít nói lại càng ít nói. Nhất là mẹ. Trông cứ như sờ, bà mụ. Không ai thấy bà ấy cười hay có một tiếng to. Từ lúc dọn đến xóm đây, hôm nào làm hàng mới thấy bà ấy ra đường, đi phố. Không đọc kinh ở nhà thì lại ra nhà thờ. Trưa, tối, khuya, chỉ có mình ở xó tối. Đến sự ăn ở lại càng giữ gìn cẩn thận. Bếp thì bếp chung, nhà xí cũng nhà chung, cổng ngõ trẻ con đâu đến cũng bày hàng, ỉa đái ra. Bà cứ lẳng lặng quét dọn sạch như lai như lia. Một mẩu củi, một củ hành thấy vương vãi dưới bếp cũng nhặt để ở trước bếp, của ai thì người ấy nhận.

Hơn tháng nay, từ ngày xoay ra bán cái bánh đúc, mẹ con chỉ có ngày một bữa cơm. Có hôm ăn bánh trừ bữa. Thanh trông người lại càng rạc đi. Hai tuần nay, Thanh đi đến tối khuya mới về. Cả những hôm mưa gió, không thấy Thanh ở nhà xem sách nữa.

- Cậu giáo có bằng "sépphica" thì được thi vào trường Bách nghệ đấy nhỉ?

- Thưa cụ, cháu cũng đã định thi vào đấy, nhưng từ năm ngoái không hiểu sao nhà nước lại không tuyển học trò vào nữa.

- Thế còn trường nào nữa không?

- Thưa cụ kể thì còn nhiều đấy, như trường Sư phạm, trường Mỹ thuật nhưng cũng đều không nhận nữa. Còn mấy sở nghe đâu là nhà đoan và sở cẩm sắp mở kỳ thi lấy người nhưng cháu thấy...

- Đừng!... Đừng!... - Cụ Ước xua tay, chẹp chẹp miệng - Như cậu không thể nào làm ở những chỗ ấy được đâu! Làm những việc ấy dễ thất đức lắm. Hơn sáu mươi năm ở cái đất Hải Phòng này, tôi thấy bao nhiêu người làm nghề ấy rồi đều chẳng ra sao cả.

Mấy ý nghĩ vùn vụt đi qua tâm trí ông cụ. Cụ Ước ngừng lại, sau giọng trầm hẳn xuống:

- Cậu cứ lần hồi với bà con chúng tôi ở đây. Thế nào rồi cũng có công ăn việc làm. Có chữ nghĩa và hiền lành, đức hạnh như cậu không lo gì...

Thanh lại nhìn cụ Ước. Trán ông cụ nhíu nhíu lại. Mấy hôm nay ông cụ tuy võ đi, tiếng ho rè rè, và giọng nói mệt nhọc hơn, nhưng gương mặt ông cụ vẫn lồng lộng, quắc thước. Nhất là vẻ hiền từ, trung hậu lại càng chan chứa mà Thanh thấy không vàng ngọc gì ở trên đời này quý báu, chói lọi bằng. Thanh còn đương tìm chuyện nói thì ông cụ gọi:

- Cậu giáo này! Cậu năng xem sách, và được xem nhiều sách, cậu thấy có những tích gì hay cậu kể cho tôi nghe với. Mà này cậu giáo!

Cụ Ước buông lửng câu nói. Đôi mày rậm, bạc phơ của ông cụ rướn lên. Ông cụ nhìn Thanh chăm chắm. Trong đôi mắt ông cụ những ánh lấp lánh càng sáng càng ngời. Thanh thêm hồi hộp.

- Phải! Cậu được xem nhiều sách như thế, thông hiểu được nhiều chữ nghĩa, cậu có tin rằng những cảnh nghèo đói khổ não sẽ lấp hết không còn nữa, và những người ăn ngay ở lành chịu khó thì phải có ngày được sung sướng không? Nhà ta theo đạo Chúa Giêsu, bà con theo đạo Phật, tôi cũng theo đạo... đạo làm người. Tôi hỏi cậu bỗ bã như thế cậu nghĩ thế nào?

Lại một lần nữa Thanh bàng hoàng vì ông cụ già mới quen biết họ.

Ước là tên người ta đặt cho ông cụ. Tên thật ông cụ không ai biết cả. Ông cụ đến ở làng này từ ngày chưa có cả Sáu Kho, cả thành phố Hải Phòng, và cái khu xóm Cấm này còn là những ao, đầm, lơ thơ mấy xóm vắng heo vắng hút. Suốt một dải từ trại lính Cátdem, nhà băng Năm sao, khu phố tây Ngã sáu, và đường Bengích còn thuộc về đồng ruộng, vườn đất của làng Gia Viên mà đình làng ngày trước giờ thành phố lấy mở làm nhà "séc" đánh bốc, gọi là Séc đình Cấm.

Ông cụ đã làm đủ nghề: đi lưới dưới Đông Khê, Lương Khê, làm củi đi than ngoài Đông Triều, Quảng Yên; làm thợ đấu, thợ nề xây Sáu Kho; đội đất, đào con sông Xi măng rồi vào làm ở lò nung của Nhà máy; khuân vác ở bến Sáu Kho, bến Xôpha, bến Quảng Đông; ra cả Hòn Gai, Cẩm Phả, Vàng Danh, Uông Bí, làm phu rồi lại giở về Hải Phòng, rồi lại đi, rồi lại giở về... Ông cụ có một đời vợ đâu sinh nở được hai lần nhưng đều bỏ cả. Góa vợ từ năm bốn mươi, ông cụ ở vậy cho đến nay. Gần đây, có gia đình một người cháu trong Nam Định ra, hỏi thăm tìm được đến ông cụ và ở với ông cụ, người ta mới lại thấy ông cụ có người thân thích.

Tuy cụ Ước một thân một mình ở trong xóm, nhưng từ các người cố cựu ở Gia Viên, Lạc Viên đến những đàn bà con gái đi làm Sáu Kho, Máy tơ, đến những đứa bé đi nhặt ván thùng, đai thép ở làng dưới, đều quý mến ông cụ, coi như người nhà vậy. Tính ông cụ hay chuyện; ông cụ nhớ rất nhiều chuyện. Chuyện ông cụ nói, nhiều người đã nghe rồi mà vẫn cứ thấy như chưa được nghe bao giờ. Mỗi lần ông cụ ngồi trên cái ghế con hay cái chổi lúa, bên cạnh có ấm nước chè mới hãm, cái điếu cày và một rổ khoai đỗ, thì chỗ gian bếp, hàng hiên, đầu ngõ liền vui như tết vậy. Ở trên phố, chỗ ông cụ ngồi bán hàng, cánh xe kéo, phu bắt tê, trẻ con bấu sấu, chân sào, chữa khóa, bổ củi... cũng xúm đông xúm đỏ như thế. Vò nước chè bán chỉ đến tám chín giờ là hết. Nhưng ông cụ cứ ngồi đến quá trưa mới gánh hàng về.

Dọn đến xóm đây, chỉ ngày hôm trước hôm sau Thanh thấy gần ông cụ ngay. Cũng như sáng nay, cụ Ước tìm đến Thanh trước. Ông cụ vừa chào hỏi vừa xắm nắm giúp Thanh kê dọn rồi chạy mượn cho từng hòn gạch để kê chân niễng, tìm từng nắm lạt để buộc hộ cái cửa liếp, quang gánh. Từ đấy, không tối thì sáng sớm, cụ Ước lại sang chơi nhà Thanh, hoặc mời Thanh sang nhà mình.

- Cậu giáo!... Cậu có tin rằng...

Càng thấy cụ Ước đăm chiêu, đôi mắt quăm quắm lóng lánh, nhịp thở phì phò, Thanh càng hồi hộp. Câu hỏi của ông cụ càng như gió như nước cuốn xoáy lấy tâm trí Thanh. Mãi Thanh mới cất được tiếng:

- Thưa cụ chúng cháu là hậu sinh...

Cụ Ước cười, lắc đầu:

- Hậu sinh à? Hậu sinh càng khả úy! Đã chuyện với nhau thì cứ việc nói. Đấy tôi hỏi như thế, cậu có tin thì bảo, hay nghĩ thế nào thì cứ nói ra.

Thanh không phải chờ lâu. Cụ Ước gật gù:

- Tôi thì tôi tin như thế đấy. Đời xưa đã thành chuyện thành tích cho ta ngẫm mà! Cậu giáo có biết chuyện "Người vàng lấp sóng biển Đông" không? Chuyện đã thành sự tích khắc vào bia đền sông Dầng đấy.

Thanh ngẫm nghĩ: "Sông Dầng! Sông Dầng?". Chợt Thanh reo lên:

- Sông Dầng, quãng sông Bạch Đằng ở Quảng Yên, một phía thì trông ra Đồ Sơn, một phía trông ra Hòn Gai, và đằng trước là biển khơi.

- Phải! Nhưng cậu giáo đã nghe câu chuyện của sông Dầng ấy chưa?

Thanh nhìn cụ Ước, cười:

- Cụ lại kể cho cháu nghe thôi. Tên chuyện mới nghe cũng đã thấy hay rồi: "Người vàng lấp sóng biển Đông"...

- Được! Lão kể.

Bà Thanh thở đã nhẹ tiếng. Vai, ngực cũng bớt giật. Thế là bà ngủ gục được trên cái tay nải. Cái Ngơ vẫn nằm khum khum sau lưng mẹ. Dưới bếp, mẹ La vá gần xong chỗ rách. Vừa mỏi mắt, vừa ê ẩm bên đầu, mẹ luôn luôn phải ngả người vào bức vách, lấy tay day day thái dương rồi lại đấm đấm lưng. Nồi nước đã reo. Lửa cháy rèo rèo. Mạt lửa bám cả lên lưng nồi, lấm tấm như hoa cà hoa cải, sáng lên rồi tắt đi rồi sáng lên. Bên ngoài, gió chạy xào xạc trên các mái lá, các tàu cau. Trên cao chỉ còn le lói vài ngôi sao ẩn hiện sau những đám khói nhà máy như những quả núi chồng đống tan lở. Trời sương càng mịt mùng.

- "Ngày xưa... cả vùng Thủy Nguyên và Đông Hải này còn là sa bãi của Biển Đông, và cửa sông Dầng còn rộng lắm, dữ lắm. Người ta đã có câu: "Mười hai cửa bể phải nể cửa sông Dầng". Những hôm giời quang mây tạnh, đứng ở bờ sông bên nọ phải mỏi mắt mới trông thấy bờ sông bên kia. Nhiều hôm đương nước yên sóng lặng, bỗng đùng đùng nổi phong ba bão táp, thiên sầu địa thảm, thuyền bè nào đi qua cũng đắm hết. Dân làng và khách thập phương qua lại lập đã nhiều đàn, tìm hết thầy nọ lại nhờ đến thầy kia cúng lễ, nhưng phong ba bão táp vẫn cứ nổi, thuyền bè vẫn cứ đắm, người vẫn cứ chết. Và năm năm lại vỡ con nước cuốn băng hết cả làng mạc.

Có lần đón được một thầy nổi tiếng là cao tay ấn. Thầy không lập đàn gì cả, một mình đi thuyền ra giữa sông. Đến chỗ mọi khi thuyền bè thường đắm, thầy thả bùa bắt quyết, khi thầy còn đương niệm chú, bỗng một con sóng chưa từng bao giờ thấy cuộn lên đến lưng trời. Trời đất tối sầm lại, sấm sét chuyển hết núi non. Chiếc thuyền bị tung lên trên đỉnh sóng. Một ngọn sét đánh xuống. Cả cửa sông tự dưng sáng rực, khói lửa mù mịt. Một quãng sông tun hút xuống, sôi réo như một cái vực, xoáy cả chiếc thuyền và thầy phù thủy xuống không còn một vệt tăm.

Khi sấm sét vừa tan, giời đất vần vụ dần yên thì như có tiếng binh mã kéo đi rầm rập và có tiếng thét tiếng kêu gọi lẫn với tiếng cười sang sảng. Người ta bảo đó là thần cửa sông Dầng thịnh nộ ra oai trừng phạt.

Bàn tính mãi người ta thấy chỉ còn cách lấp hẹp cửa sông, cắm cừ, đắp đê, đổ bến thì mới trừ được tai nạn. Nhưng thấy chuyện lấp biển ngăn sông quả là bạo thiên nghịch địa. Nhất là lại trêu vào cửa sông Dầng này! Chuyện dần dần rồi cũng bỏ qua. Duy chỉ có vợ chồng ông lão ở bến trong thỉnh thoảng lại đem chuyện kia ra bàn với mọi người. Người nghe cứ gạt đi thì ông cụ bà cụ lại càng chí thiết, bảo nhất định phải tìm cách lấp cho bằng được tai ương.

Người ta không biết ông cụ, bà cụ ở đâu đến đây. Vợ chồng chẳng có con cái, thân thích gì cả. Hai người dựng một quán nước bán vào sáu phiên chợ chính và ba phiên chợ xép cho dân làng đi chợ huyện và khách quá giang. Người ta gọi là vợ chồng cụ Bến. Dân làng có người từ ngày còn bám áo mẹ qua đò đi chợ đến khi có vợ, có con, có cháu vẫn thấy vợ chồng cụ Bến giữ nguyên cái quán nước ở chỗ mom sông. Nhiều nhà giàu có gọi vợ chồng cụ Bến vào ở trong làng, cho cả ruộng cả vườn, nhưng vợ chồng cụ một mực không nghe, bảo: "Vợ chồng nhà tôi chỉ cố ăn hiền ở lành, chịu thương chịu khó giữ cái quán này để rồi Bụt cho vợ chồng tôi không phải là con cái nối dõi mà là một người bằng vàng để lấp sóng biển Đông thôi!"

Hết năm ấy qua năm khác, dân làng chung quanh, nghèo đói cùng kiệt quá cứ xiêu tán dần đi. Còn vợ chồng cụ Bến càng tóc bạc da mồi, chậm chạp yếu đuối, bữa khoai bữa sắn cũng thiếu. Nhà còn con gà mái ấp và con gà sống gáy cũng phải bán nốt. Nhưng hễ ai hỏi mua chịu đồng bánh đồng chuối thì chẳng để ai nhỡ nhời cả. Những khách nhỡ độ đường có ngủ nhờ thổi nấu ăn uống, thì vợ chồng cụ có gạo đưa gạo, có thức gì đưa thức ấy, ai trả tiền cũng nhất định không lấy. Cái quán nước cứ dựng đi lợp lại mãi, có năm đổ cây nước, vợ chồng cụ lại bạt đi, tan tành vườn quán, dân làng lại mỗi người một tay, kẻ tre, người rạ, làm quán mới cho vợ chồng cụ. Tuổi hai cụ đã trăm mốt trăm hai rồi mà vẫn chưa thấy Bụt cho người vàng đến.

Một hôm giời đã về chiều, lại là ngày hai mươi bảy tết. Giời vừa nổi gió lại mưa giật từng cơn. Gần sập tối thì có một người con gái lạ gánh bên thúng gạo nếp, bên thúng đỗ xanh đến nghỉ. Vợ chồng cụ Bến tưởng người con gái đi qua đây rồi vào làng trong, nhưng khi thấy cô ta cứ nhấp nhỏm trông ra bến sông thì mới biết cô ta chờ đò sang sông. Vợ chồng cụ liền hỏi:

- Cô người đây ta hay ở đâu mới đến?

Người con gái đặn đà:

- Thưa cụ cháu ở bên sông!

Vợ chồng cụ Bến càng ngạc nhiên hơn:

- Cô người bên sông thì qua bến nào sang đây? Mà cô là người bên sông lại không biết sông Dầng động sóng thì như thế nào à? Chiều nay lại giở giời, mưa rây gió giật, sông nước thế kia, đò nào dám chở.

Người con gái lại trông sang bên kia bờ gió thổi cát bay mà cửa sông thì sóng cồn, mưa táp mịt mùng. Cô ta rơm rớm nước mắt. Vợ chồng cụ Bến hỏi gạn mãi cô ta mới kể:

Cô ta là người làng trong lấy chồng bên kia sông. Chồng cô ta là con út, nhà vừa đông chị em gái lại lắm chị em dâu. Chị em nhà chồng nghe nói nhà cô ta được luôn mấy vụ, bát ăn bát để, nên ai nấy đều ỏn thót với mẹ chồng rằng cô ta chẳng chịu nghĩ, chịu biết gì đến việc nhà chồng con cả. Hôm nay cô ta về nhà mẹ. Khốn nạn! Nhà cô ta có tiếng mà nào có miếng. Trúng được mấy vụ nhưng phải lo bao nhiêu công việc nên còn có gì đâu! Mẹ cô ta phải đi vay bà dì thúng gạo xôi, thúng đỗ và năm quan tiền cho cô ta đưa về. Thôn xóm họ mạc ai có gặp hỏi thì mẹ cô ta lại bảo tiền mẹ chồng cô ta cho cô ta nuôi lợn để riêng, giờ cô ta về lấy. Mai đã hai mươi tám. Tháng chạp năm nay hai mươi chín lấy làm ba mươi. Cô ta phải về cho nhà kịp đi chợ sắm tết, gói bánh. Vừa phần cô ta mới cai sữa cho con bé.

Vợ chồng cụ Bến nghe kể mà lo lắng thương hại. Đến giờ vợ chồng cụ mới vỡ nhẽ ra người khách không phải là con gái. Sao lại có người đẹp đến thế? Mắt bồ câu, nửa vui nửa buồn. Răng hạt na, môi cắn chỉ. Da dẻ như trứng gà bóc. Càng ngắm càng thấy ý nhị xinh đẹp. Vợ chồng cụ Bến càng băn khoăn nhưng chẳng thể tìm cách gì giúp người khách qua sông..."

Cụ Ước ngừng kể, rót nước. Ông cụ vừa nhấc chén nước uống bỗng một giọng hát từ ngoài ngõ đi vào. Theo với tiếng hát uốn éo mơn man, tiếng giày lạo xạo trên than xỉ và tiếng xóc xách của chiếc ví đầm:

... Lời thề xưa thiếp đây xin ghi trong lòng kính thờ

Chàng đâu thấu chăng em đây vò võ chờ.

Tiếng hát ngắt quãng. Tiếng giật cửa đánh thình. Rồi tiếng lục sục và tiếng chửi the thé:

- Lại quên mua diêm rồi! Cha tiên nhân cái thằng mất dạy, vừa hút chạc luôn hai điếu Camen (4)lại còn nẫng của mẹ nó cái bật lửa mới nguyên của người ta vừa cho.

Có tiếng chén đĩa xô vào nhau. Lại tiếng giật cửa. Rồi tiếng giày lạo xạo. Thanh nẩy thót người. Cánh cửa liếp nhà Thanh bị giật ra. Một người con gái đỏ từ đầu đến chân chạy xồng xộc vào:

- Xin lỗi cụ ạ! Xin lỗi cả cậu giáo nữa! Cụ với cậu giáo làm ơn cho cháu mượn bao diêm.

Từ cái cặp môi tô son đỏ nhẫy như miếng tiết đọng ấy, phào ra một mùi gây hôi nồng nặc: mùi của rượu Tây, thịt bò, giấm tỏi và hơi thuốc lá. Vừa nói, người con gái vừa bước đến tận mặt Thanh. Cặp mắt bôi quầng thâm, lòng mắt sáng và sắc như lưỡi dao chao chát nhìn Thanh:

- Em xin lỗi cậu giáo nhé. Em đã vào nhà giữa lúc cậu nói chuyện mà không được phép cậu cho vào!

Nói đoạn y cúi cái mái tóc uốn điện cài một con bướm nhung đỏ vừa đưa cặp mắt cười với Thanh, giọng nói mơn ra:

- Pardon (5)... thư sinh tuấn tú... chàng ơi!

⚝ ✽ ⚝

(4)Thuốc lá thơm.

(5)Xin lỗi

Y quay ra, nhón mũi giày như xoay trong một nhịp nhảy. Y đến bên cụ Ước, giọng nói đổi hẳn, nũng nịu van vỉ:

- Cụ Ước ơi! Cụ lại kể chuyện gì thế? Đến quãng hay cụ phải để dành cho cháu nghe với, không cháu bắt đền cụ đấy.

Thanh gai hết cả da thịt. Mắt Thanh như lóa khi cái bàn tay móng vừa dài, vừa nhọn, vừa bôi đỏ nọ vung ra một cách rất điệu đón chờ lấy bao diêm của Thanh. Thanh đưa nhưng chẳng biết y có cầm hay không. Thanh chỉ còn thấy một cảm giác như lửa giội qua mặt Thanh khi cái thân hình dỏng cao, lằn trong chiếc áo dài cẩm châu màu tiết dê nọ đi ra ngoài, để lại một mùi cũng đặc biệt. Mùi phấn nước hoa như mùi hoa cây sữa, vừa hắc vừa ngát trong đêm mùa xuân có trăng.

Mẹ La nhìn theo, cười:

- Cái con Dậu này lại vớ được bọn khách dưới tàu tây Ănglê. Ngày mai hàng quà lại kéo vào ngõ bằng đón chúa Chổm.

- Kìa! Mẹ mày có ủ nước cẩn thận cho tao không?

- Chết bố con rồi! Con về đậy thêm cái tải, con sang ông hãy kể đấy!

Mẹ La kêu lên rồi lếch thếch chạy xuống bếp. Cụ Ước vừa kể tiếp, mẹ La đã lên, đánh bệt đít ngồi dưới chân ông cụ. Mẹ ngả đầu vào bức vách, tóc xõa ra, tay mân mê tuốt trứng.

- "Người nàng dâu phải ngủ lại quán vợ chồng cụ Bến. Vợ chồng cụ thổi cơm, rán cá, nấu riêu cố mời người nàng dâu, nhưng người ấy một mực nói đã ăn ở nhà mẹ rồi mà chỉ ăn hai quả chuối với uống nước. Bà cụ Bến lại còn cố ép người nàng dâu vào trong buồng ngủ với bà cụ. Người nàng dâu cũng lại không chịu, mà nằm ở cái chõng ngoài hàng và chỉ đắp có chiếc chiếu cũ còn chiếc chiếu mới nhất định giả lại hai cụ.

Chợt về khuya, người nàng dâu kêu đau bụng. Trước còn rên rỉ sau cứ vật lên vật xuống và phải để vợ chồng cụ Bến dậy đốt lửa, nướng gạch chườm cho. Nhưng hết chườm gạch, chườm cám rồi uống nước gừng sắc đặc, người nàng dâu vẫn cứ đau quắn, đau quặn níu lấy cả bà cụ Bến mà gọi mẹ, gọi con. Vợ chồng cụ Bến kéo hẳn người nàng dâu vào buồng, nhường giường, nhường chiếu cho người nàng dâu nằm. Bà cụ ngồi đấm bóp cho đến lúc cơn đau của người nàng dâu ngàn ngàn mới ra cái chõng ngoài hàng nằm. Cụ ông cẩn thận còn chuyên cả gánh gạo đỗ tiền nong vào buồng rồi gài chốt cửa lại.

Sáng hôm sau, gà gáy tan canh từ lâu, gió đứng, giời rạng sáng, đò bên kia sông lại sang sớm, cụ ông toan gọi người nàng dâu dậy thì cụ bà lại can, bảo cứ để mợ ta ngủ, nắng ấm hãy sang sông. Đò đã đi về chuyến thứ hai thứ ba. Mặt giời lên quá đỉnh núi. Nắng ấm, giời đẹp lắm rồi. Trong quán khách đông, người đi chợ ngồi ra cả ngoài gốc bàng, gốc đa, chuyện ồn ồn mà người nàng dâu vẫn chưa dậy.

Bà cụ Bến đành phải lên tiếng gọi. Người nàng dâu vẫn không thưa. Bà cụ Bến đến đập cửa liếp gọi réo lên như hò đò. Vẫn không thấy trong buồng nhúc nhắc gì cả. Khách hàng nghe chuyện ngạc nhiên quá đỗi. Cụ ông vạch liếp nhìn vào. Cụ vừa ghé mắt thì kêu ầm lên, gọi cụ bà cùng trông. Gian buồng sáng như lửa cháy. Giường người khách lạ nằm thì đỏ rực. Nhưng buồng vẫn lặng lẽ như tờ. Vợ chồng cụ Bến liền tri hô lên. Mấy người khách hàng cùng vợ chồng cụ đẩy cửa buồng vào thì thấy cả người nàng dâu và quần áo cũng hóa thành vàng. Cả chiếc giường tre, đôi chiếu mới đến đôi quang gánh, thúng gạo, thúng đỗ ở dưới đất và năm quan tiền cũng hóa thành vàng đỏ ối.

Mùa xuân năm ấy, mấy tổng ở cửa sông Dầng và cả mấy huyện chung quanh đều mở hội. Hội xong thì bắt đầu lấp cửa sông. Theo như nhời các cụ truyền lại thì cửa sông Dầng lấp đúng mười năm. Ngày nay cửa sông chỉ còn bằng một phần mười ngày trước. Ruộng bãi làng mạc từ bấy giờ mới trù phú. Vợ chồng cụ Bến vừa cho phá vàng ra để dân lấy lương lấp cửa sông lại còn đắp đê trồng cây giữ bãi, bao ruộng, vượt đất trồng tre, cày cấy lập làng mới nữa.

Cửa sông yên sóng, mở bến ngay. Thuyền bè buôn bán qua lại dập dìu, dân làng cấy ruộng gặt vụ đầu tiên mở hội xong thì vợ chồng cụ Bến không ốm đau gì cả cùng mất một ngày. Dân làng và các vùng chung quanh, khách thập phương qua lại quen biết, ai ai cũng thương tiếc, bảo nhau lập đền thờ cúng. Từ đấy, năm năm cứ xuân thu nhị kỳ, hàng huyện lại tế lễ vợ chồng cụ Bến. Mồng mười tháng giêng thì các làng cửa sông vào đám mở hội gọi là hội Mở bến".

Cụ Ước ngừng lại rồi mà Thanh vẫn còn thấy những ánh vàng, tiếng sóng phấp phới, dào dạt ở trước mặt, ở bên tai.

- Phải tin chứ cậu giáo! Rồi đây mọi cảnh khổ não, tai ương, nghèo đói sẽ lấp đi hết, những người ăn ngay ở lành, chịu thương, chịu khó sẽ phải được sung sướng, hiển vinh cậu nhỉ!

Cụ Ước trầm giọng hỏi. Thanh chớp mắt:

- Thưa cụ cháu cũng tin như cụ. Nhưng được sung sướng thì phải làm thế nào chứ nhờ Giời, nhờ Bụt...

- Sao? Sao? - Cụ Ước lại quăm quắm đôi mắt nhìn Thanh - Nhờ Giời nhờ Bụt lại không được à? Chuyện là chuyện đấy thôi. Chứ Giời Bụt chính là ở như cái lương tâm mình. Mình có nghĩ, có tin, có quyết tâm thì mới chuyển đến Giời đến Bụt được. Nếu như không có vợ chồng cụ Bến quyết chí thành tâm thì làm sao lấp biển được? Có lòng người thì rồi mới có Giời.

Ông cụ vừa nói vừa nắm lấy cánh

Danh sách chương


Sách tương tự