← Quay lại trang sách

Sóng Gầm Chương 3

Có tiếng chó hú lên, chạy hồng hộc rồi có tiếng bước chân cồng cộc đi ra cổng. Bọn ăn mày nhốn nháo quơ những bị, gậy, nón rồi dạt sang hai bên cổng. Mấy người mẹ ôm vội con vào người: "Nào!...Nào!... Có nín đi không nào! Cụ bõ Quý đã ra rồi kia kìa. Còn khóc nữa cụ bõ cho chó cắn xổ ruột ra..."

Chiếc chân gỗ bước lia đi, chung quanh quấn quýt có hàng chục con chó vằn, gio, vàng. Con nào cũng tai vểnh, cao đến ngực người ta, lưỡi dài, nanh nhọn hoắt, trông như những con beo, con báo. Một đám người khác nhấp nhỏm từ sáng đến giờ ở cổng, khi thấy bõ Quý đi ra thì không giãn ra như bọn ăn mày mà vội vàng chạy đến cổng sắt, mặc kệ cả đàn chó chồm đến, bổ móng, nhăn nanh ở trước mặt họ. Người nào người ấy cũng lỉnh kỉnh quả sơn, khay, tay nải, thúng thanh và cả gồng gánh nữa.

- Cụ bõ ơi! Cho cháu vào nào.

- Cháu mang đồ lỡi chờ từ sáng sớm rồi đây.

- Cụ bõ ơi! Cháu ở dưới Đồ Sơn lên mang tôm rồng cụ Cố dặn đây.

- Cụ bõ ơi! Hôm qua cụ bõ đã trình cụ Cố cho nhà cháu

rồi mà.

Có bà cụ già mù cháu dắt đi. Có người chửa ì ạch mãi mới ngồi xuống đứng lên được. Có mấy người ô cắp nách, khăn xếp xỏ vào cánh tay, lăm lăm trên tay cái khay khảm phủ vải điều xếp đầy chè tàu, cam. Gánh thì đầy trứng, gạo tám xoan. Gánh thì nặng cật sức những đồ đồng, đồ sứ cổ. Mấy người đàn bà trên các chợ cũng cố khoác cái áo dài mới, đi guốc, đi dép, nhấp nha nhấp nhỏm. Nhưng không ai được vào cả. Cái roi song bịt đồng của bõ Quý giơ lên xua xua. Y không thèm đáp nhời ai một tiếng. Trong khi ấy, đàn chó cứ luôn luôn xông đến cánh cổng mà gầm gừ bổ lên, chồm xuống.

Đồng hồ phòng khách nhà dưới mới có tám giờ rưỡi, bõ Quý vẫn không tin, lộc cộc đến tận chân cột nheo mắt nhìn. Hai chiếc kim bằng hai chiếc đũa xoạc đúng ở số 8 và số 6. Hắn lại lộc cộc giở về cái nhà của hắn ở gần cổng, vào ngồi trên tấm phản ghé trông ra ngoài. Mắt hắn lim dim. Cái đầu trọc gật gù. Miệng hắn không ra cười cũng không ra hờn giận, môi mím mím, góc miệng xệch ra. Thỉnh thoảng hắn lại gõ roi coong coóc xuống cái chân gỗ. Trong đầu óc hắn không gợn ra một ý nghĩ gì, một hình ảnh nào rõ rệt cả, mà có rất nhiều ý nghĩ, rất nhiều hình ảnh cứ nhấp nhô, lờn vờn, rì rầm như những con muỗi mát khiến hắn cứ thấy buồn buồn ấm ách thế nào ấy.

Cứ những giây phút hắn sắp ríu mắt lại ngủ thì hắn lại phải choàng mắt nhìn ra cổng, rậm rậm cái mẩu gỗ bịt da của chân giả xuống nền nhà và lại gõ roi. Tất cả thần kinh của hắn lại căng dần. Hắn lại chờ bên trong kia có tiếng gọi cất lên, đặc biệt là tiếng sang sảng của cụ Cố hay tiếng lanh lảnh của mợ Tú, - những tiếng, những giọng người nói ấy không bao giờ hắn dám nghĩ đến một ngày nào kia hắn lại không còn được nghe thấy. Nghĩa là ngày đó sự sống của hắn không còn được nhắc đến, cái nghĩa lý của đời hắn mất đi...

- Bõ Quý truyền cho những con mẹ phán, mẹ giáo ấy

vào hầu.

- Bõ Quý cho cái thằng lý Trung Hành ấy đem đồ lỡi vào.

- Bõ Quý! Lão chủ thuyền mành ấy thì đến ngày mai cho vào hầu.

- Bõ Quý hỏi xem bọn ấy có đem vàng hay văn tự nhà cửa đến hầu không?

- Bõ Quý cho vào cho Cố hỏi.

- Bõ Quý! Ô tô của bề trên ở Hà Nội sắp xuống đấy.

- Bõ Quý! Hôm nay ông cả và cô Huệ Chi đến ăn cơm tối, chín giờ bõ hãy đóng cổng...

Những tiếng ấy cứ vẳng lên cả trong những giấc ngủ chập chờn của bõ Quý. Nhiều đêm hắn thấy như lúc nào cũng có người chầu chực ở ngoài cổng và trong kia thì cụ Cố và mợ Tú vẫn còn gọi hắn. Hắn không đêm nào chợp mắt được lấy hai tiếng đồng hồ. Cái tiếng đàn ngân nga và tiếng chuông điểm giờ côồng côồng lúc nào đánh lên cũng có lão lắng nghe, âm rất lâu bên tai lão. Các xó vườn, góc tường, gốc cây, giàn hoa, nhà củi, ga ra... cứ im lìm một lúc lại choàng dậy vì ánh đèn bấm của hắn sục sạo. Hắn đi đến tận nơi mới bấm đèn, bước chân Cố như bước chân chó sói. Rồi chiếc đèn trong tay hắn vừa dói vào chỗ nào thì hai con chó lài to nhất, dữ nhất, nằm dưới giường hắn vươn dậy đi theo hắn đã chồm đến, còn mấy con chó nằm quanh nhà theo sau thì xả vây chung quanh mà hít mà sục!...

Giờ thì bõ Quý ngồi yên, giở cỗ tràng hạt ra đọc kinh, không nhìn ra đường nữa. Ngoài cổng, những ăn mày và những khách của nhà dưới kéo đến đông hơn. Nhiều khách đã văng tục, đẩy dúi đẩy dụi bọn ăn mày lại còn bu đến quanh họ, rồi bảo nhau ngồi riêng hẳn một chỗ xa, lấy giấy nhật trình, lá bàng lót chỗ bệ gạch, gốc cây mà ngồi.

Thanh và mẹ cũng ngồi dưới một gốc cây.

Không như lúc mới đến, giờ Thanh đã hết choáng váng mà chỉ còn thấy buồn và ngại ngùng. Tuy trại Đức Sinh ở ngay giữa ngõ trên đường vào xóm nhà Thanh, nhưng khi Thanh đi qua chưa hề đứng lại trông. Cả những khi cái cổng sắt trại Đức Sinh to như cổng tòa đốc lý mở rộng ra đón hàng dãy ô tô đi vào, gấm vóc lụa là nườm nượp, trong nhà yến tiệc sáng trưng, Thanh cũng mặc, tuy người đi bên Thanh giơ tay trỏ vào trại và bảo Thanh trông. Cái cảm giác đen tối và ghê sợ như cái cảm giác qua những cửa đề lao hay những cửa Sở mật thám thường đè xuống tâm trí Thanh thế nào thì những khi qua trại Đức Sinh, qua nhà chủ nhất Xi măng, các nhà băng Đông Dương, Ănglê, nhà riêng hãng Đờvanhxy, Thanh cũng thấy như thế.

Đến cả nghe nói về những cái tên nọ, Thanh cũng cố tránh. Có mấy lần bà con hàng xóm hỏi thăm mẹ Thanh và Thanh về những người quen kẻ biết của nhà Thanh ở Hải Phòng, thì mẹ Thanh thường nhắc đến có bá Chính ở trong cái trại nọ. Mẹ Thanh gọi cái người đàn bà đi cân gà vịt cho nhà Thy San và phục dịch cỗ bàn trong trại là "bá nó" hay "bá Chính nhà tôi". Còn Thanh tới khi ra Hải Phòng và Thanh thấy mẹ chuyện với những người hàng xóm, Thanh mới biết mẹ Thanh còn một người chị em đôi con dì họ, và người nọ lại là tay chân có thế, có quyền ở nhà Thy San, ở trại Đức Sinh, và tên là bà Chính. Còn cụ cố Đức Sinh, mẹ Thanh chỉ nói bà cụ là người cùng tỉnh thôi. Thật ra theo chỗ Thanh biết thì cụ Cố còn là bạn đi nhà thờ với bà ngoại Thanh, một dạo lại ở cùng phố với nhau.

Kể tuổi thì bà ngoại Thanh hơn Đức Sinh đến mười tuổi. Bà ngoại Thanh cũng gầy yếu nhưng không ốm quá như mẹ Thanh. Luộc bánh nấu chè xong, để hàng cho mẹ Thanh bán là bà đi nhà thờ. Đức Sinh cũng chăm đi nhà thờ như thế. Bà ngoại Thanh và Đức Sinh còn có một tính đặc biệt nữa là giữ chỗ ngồi. Cả hàng xứ đều biết dưới chân tòa giảng là chỗ ngồi của bà ngoại Thanh, còn dưới tượng bà thánh Anna là chỗ ngồi của Đức Sinh. Chiếc chiếu võng của hai bà đem đi theo không cho một ai ngồi ghé vào hết. Lúc hai bà lên chịu lễ thì gấp lại, gửi người quen. Lúc chịu mình thánh xong, hai bà xuống sau cùng, về đến chỗ, làm dấu thánh giá đoạn, mới lại giải chiếu...

Tối hôm bàn tính việc đến trại Đức Sinh để nhờ cậy đường làm ăn sinh sống, mẹ Thanh đắn đo mãi mới dám ngỏ ý với Thanh. Bà vào chuyện:

- Nhà Chính thì tao thấy nó vẫn mặn mà và có ý muốn giúp đỡ chị và cháu. Còn bà cụ Sen, ngay đến ngày bà ấy còn bán nước mắm ở trước nhà, tao gặp cũng chẳng chào, đi lễ thì ngồi cách nhau ba bốn cột, vậy thì mình có đến...

Không để Thanh có ý kiến, mẹ Thanh nói tiếp, giọng càng run run:

- Nhưng chả gì cũng là người cùng giáp, cùng tỉnh. Nhà mình chẳng đến nhờ cậy bao giờ, nay cứ thử đến xem. Có gì bá Chính nó cũng nói giúp cho...

Thanh đã nghĩ đến nước rồi thế nào mẹ Thanh cũng phải đến nhà Đức Sinh và nhờ bà Chính nói lót. Nhưng khi ấy là bước đường cùng kiệt mà mỗi lần tưởng tới Thanh lại bàng hoàng cả người và cố nghĩ rằng chưa phải như thế, nhất là không bao giờ phải như thế. Điều khủng khiếp là Thanh phải đến cả nơi đây nữa mà lại không được việc gì cả. Hay đến đây tuy được việc, nhưng Thanh sẽ đánh đổi bằng một sự hy sinh về nhân cách, phẩm giá thì liệu Thanh có chịu không? Nhưng dù đã cố tưởng tượng tất cả những cảnh đau tủi mà mẹ con Thanh sẽ phải chịu đựng một khi liều đi đến bước này, Thanh vẫn thấy rợn cả người lúc ở nhà ra đi và bước dần đến cái cổng sắt có bõ Quý ngồi gác kia.

Đúng mười năm nay, Thanh lại đến gần cái người mà lúc Thanh còn nhỏ thấy như là một thứ yêu, thứ quỷ, thở ra mùi đêm sương và thây chết. Nhưng lần này không phải Thanh chỉ thoáng đến cạnh bõ Quý để rồi bỏ chạy, mà Thanh phải dàn tận mặt y, chào gọi y. Đây rồi! Vẫn cái đầu trọc nhọn, cái mặt da đỏ sùi, cái mũi quắp thây lẩy một miếng thịt thừa tím đen, và cái sắc mặt như thức như ngủ, như mê như điên, nửa ngày nửa đêm... cái mặt người ngày xưa thường hiện ra trong những giấc mơ hoảng hốt của Thanh nay lại lừ lừ ngay trước mặt Thanh. Ngày Thanh lớn lên theo bà, theo mẹ đi nhà thờ Thanh cũng đã nghe nói đến bõ Quý. Y làm bõ nhà thờ, chuyên việc kéo chuông, trông nom cỗ đòn đám ma và những đồ đạc làm lễ mồ. Khi từng tiếng chuông buồn thảm gióng một kéo lên, Thanh và mấy đứa trẻ cùng phố liền rủ nhau đi xem. Đã nhiều lần bọn Thanh trêu tròng cả bõ Quý. Thanh lẻn lên gác chuông nhìn cái bóng bõ Quý mờ mờ, khập khiễng giật cái thừng dài, to và đen xỉn như cái thòng lọng xử giảo. Chờ lúc y buông dây, tiếng chuông tắt hẳn, y lộc cộc xuống thang, bọn Thanh òa lên ở sau lưng y: "Quỷ Satăng mọc đuôi nghe chuông về chơi với bõ Quý đây này". Rồi chạy vòng quanh các cột để cho y lộc cộc cuồng hét lên đuổi. Cái nghịch thứ hai là rình lúc y ngồi lần tràng hạt, bọn Thanh kiếm những hột móc, hay viên đất làm đạn, lấy ống sùy đồng thổi bắn vào con chó gio của hắn, cho con chó xồ ra, cả hắn và chó rống rít đuổi theo.

Cũng vẫn cái roi song mật bịt đồng tụ ấy, những buổi có đám ma to, lễ mồ lớn, bõ Quý đứng gác cổng ra vào nhà thờ để trấn những kẻ nghịch và chỉ bảo bọn phu đòn. Một hôm có đám ma Tây. Cả nhà thờ treo vải đen sao trắng và dựng một cái mồ phủ toàn vòng hoa và thắp hàng trăm ngọn nến. Tây đầm đi nhón từng bước theo sau áo quan. Một cố, hai cụ cầm thánh giá cùng hơn hai chục vừa chú bé, nhà thày và quan viên chức sắc cầm cây nến, cờ, ảnh đi đằng trước. Đám vừa ra khỏi cửa, trẻ con liền ùa theo. Bõ Quý quen lệ cầm roi quất túi bụi. Vô phúc cho y, cái mẩu đồng bịt buột ra, bắn vào đầu một thằng con Tây làm chảy máu. Thằng bé nọ nghe đâu là con những quan phó sứ hay đốc lý gì gì ấy...

Bõ Quý bị đuổi. Y xuống gác cổng Trại làm phúc của nhà thờ ông thánh Antong một dạo rồi không hiểu đi đâu. Không biết y còn nhớ Thanh không, chứ Thanh gặp y hôm dọn đồ đi qua cổng trại Đức Sinh, Thanh vẫn thấy y không khác lạ chút nào. Hình như y không già đi, khổ mặt cứ như thế mãi mãi, cứ lạnh lạnh một mùi thịt chết, hơi sương, rình mò, nhai nghiến... Một khổ mặt không phải khổ mặt hơi hướm của người!

Giờ Thanh không còn cách gì trốn tránh được. Tự Thanh chôn chân ở đây để chờ từng phút qua đi, Thanh sẽ đến hẳn trước mặt cái giống ma quái kia. Cánh cổng sẽ mở. Thanh sẽ đi vào đó cùng với những người cùng khốn mà bấy lâu Thanh thường tự hỏi sao họ lại dắt díu nhau chịu những sự bóc áo tháo cày, nặng nề, độc ác như thế, và rồi họ sẽ phải khốn khổ vô cùng một khi bị cái tròng công nợ, ân huệ thít lấy cổ. Những điều đó không một ai không thấy. Không một ai bước đến đây giật cái chuông, nghe tiếng quát hỏi, và nhìn khổ mặt của tên bõ gác cổng đặc biệt nọ mà lại không rợn người, thấy rằng số mệnh mình thế là đã bắt đầu hết của mình rồi!

Dù sao cái lo sợ thứ nhất ấy cũng đã qua rồi. Nó đã làm Thanh tê điếng. Chỉ còn cái lo sợ thứ hai. Mẹ con Thanh sẽ gặp ai để nhờ cậy đây? Con dâu Đức Sinh hay Đức Sinh. Cái dáng người bệ vệ đạo đức, cái giọng nói cửa quyền sang sảng, cái cặp mắt sắc như nước nhưng lúc nhìn ai có công việc đến với mình thì lại lim dim cười mỉm như Bụt như Phật - cái cụ cố Đức Sinh ấy cũng làm Thanh từ thuở nhỏ không bao giờ dám đến gần, không bao giờ dám đi qua mặt để chịu những cái nhìn, nghe cái giọng nói của y, tuy Thanh không có dính dáng gì với y cả.

Thấy Thanh im lặng vẻ mặt đã hồi hồi tự nhiên, mẹ Thanh đã hơi mừng. Bà lấy thêm miếng trầu ăn và cố lấy giọng vui vẻ tự nhiên:

- À mẹ quên không nói với con, hôm mẹ gặp bá Chính nó đương bận nhưng trông thấy mẹ thì nó gọi, xoắn xuýt hỏi chuyện ngay. Nhà nó hỏi mẹ con ra đây từ bao giờ mà không đến trại. Ai mách mối mà mẹ con thuê nhà trong xóm. Rồi hỏi mẹ buôn bán ra sao? Con thôi học đã có công việc gì chưa? Nhà nó cứ chèo kéo mẹ ra hàng bún thang bắt ăn nhưng mẹ không ăn, nhà nó lại mua bánh su sê, bánh cốm, bóc bánh dúi vào tay mời, mẹ phải ăn cái bánh cho nhà nó bằng lòng. Nhà nó hẹn hôm nào không phải phiên chợ Sắt, nhà nó nghỉ không đi cân gà, cân lê ghim cho tàu Tây, thì mẹ con đến trại tìm nhà nó.

Đến đây, giọng mẹ Thanh lại run run:

- Tuổi con cũng bằng tuổi thằng Chỉnh em thằng Chính đấy. Thằng Chỉnh nó cùng xin vào trường một ngày với con. Nghe đâu nó với thằng Chính đứng trông coi công việc hàng họ của nhà Thy San bán xuống các tàu to.

Tuy giọng run run nhưng mẹ Thanh cố nói cho dõng dạc như để cho cả mấy người gần đấy nghe thấy. Thanh liền cau ngay mặt:

- Mẹ!

Người mẹ giật thót người vội ngừng lại. Bà cúi tìm miếng cau nhỏ ăn thêm. Để mẹ đỡ bối rối, khổ sở vì sự phản ứng mạnh của mình, Thanh dịu ngay nét mặt:

- Mẹ ạ, công việc để chốc nữa gặp bà Chính hãy nói mà...

Giây phút sau Thanh lại trông ra đường, cố dằn tâm trí trong cái bứt rứt đã nung nấu lắm rồi.

Không thì thôi chứ nghe nhắc đến việc tìm đến trại Đức Sinh, Thanh lại thấy buồn khổ vô cùng. Hai mẹ con Thanh đi là đi cầu phong chứ không dám chắc chắn, tin tưởng gì cả. Điều này tuy ở ngoài mặt và trong giọng nói mẹ Thanh cố xuê xoa, nhưng Thanh thấy tâm trạng mẹ Thanh thật là thê thảm. Những tên người và công việc mà mẹ Thanh cố nhắc đến kia chỉ là để đem hết hơi sức của hy vọng níu lấy thôi! Thanh còn thấy thêm là chỉ níu lấy... một cái bóng. Những... nhà Thy San... tàu Tây... hàng họ... bà Đức Sinh nhiều thần thế với Nhà chung, với các nơi, vân vân... Phải! Công việc và sự làm ăn thịnh vượng, tiền của kiếm như nước ấy là của những ai ai, ở những đâu đâu ấy chứ có dính dáng gì đến Thanh? Thanh trông cậy gì được vào đây? Hy vọng gì ở đây?

Ngay cả hai đứa con của người dì họ mà mẹ Thanh cố vơ vào, lại càng thảm hại. Thanh không thể nào gần cận được chúng, chứ không nói đến thân mật nhờ vả nữa! Thằng Chính tiếng làm thư ký sổ sách cho nhà Thy San nhưng trả lương lại là Đức Sinh. Mà thằng Chính nọ có sống bằng lương đâu? Nguồn sống chính của nó là hàng lậu, hàng ăn cắp thông lưng với bọn làm dưới tàu. Còn nó đi làm là đi ngủ... ngủ đứng, ngủ ngồi, để tối đi cô đầu. Thằng em cũng gần một giuộc với anh. Đi thúc tiền của các con nợ nhà Đức Sinh, nó ăn uống của các người có con ốm sắp chết, của người có bố mù phải đi chạy từng đồng bạc để lót mồm nó từng bữa cơm mà cả nhà người ta phải nhịn cho nó. Nứt mắt ra mà thằng Chính đã bao một con gái nhảy. Chập tối cũng đánh phấn môi son, lượn ở các "đăng xinh".

- Mẹ ơi! Khổ lắm! Mẹ ơi!

Lác đác đã có những người ế việc ở Sáu Kho về. Cảnh chầu chực ở trước trại Đức Sinh càng hỗn độn. Bốn năm tốp ăn mày mù què từng dây dắt nhau đến. Những người ở các vùng quê, kẻ thì gồng gánh đồ cầm, kẻ thì lễ mễ các của ngon vật lạ để biếu, những người trên phố, trên chợ thêm hàng chục bọn nữa. Đàn chó trong cổng vẫn rít lên, lồng lộn định xổ ra. Bõ Quý vẫn ngồi lần tràng hạt, cái đầu trọc và nhọn, cái khổ mặt ma quái thỉnh thoảng choàng lên, nhớn nhác. Tiếng trẻ con khóc, tiếng những người già yếu rên rỉ.

Thanh không dám trông ra đường nữa. Thanh ngồi nép vào gốc bàng, đội sụp cái mũ xuống gần trán. Tuy cái gốc cây Thanh ngồi khuất đi ở xa cổng đến chục thước và cách hẳn chỗ bọn người vay nợ và chạy việc, nhất là không có một người ăn mày nào đến, nhưng Thanh vẫn thấy mặt bừng bừng, da thịt bứt rứt. Thanh chỉ lo những đàn bà con gái ở cùng xóm và mấy người thường chào hỏi Thanh, họ đi làm trên phố và ở Sáu Kho về lúc này bắt gặp mẹ con Thanh.

Từ lúc thấy Thanh gắt và Thanh buồn thảm ra mặt thì mẹ Thanh lại rầu ruột vô cùng. Bà cứ rúm rúm nguyên một chỗ ở cái bệ gạch sau cây bàng Thanh ngồi khuất đi. Mặt mày bà lại đăm chiêu. Bà lặng đi mươi phút lại rì rầm đọc kinh mà chỉ có Thanh là biết. Nhưng càng cố cầm lòng cầm trí bà càng phải nghĩ đến bao nhiêu chuyện cũ.

Người mê "cái thằng nhà thày nước da như trứng gà bóc, mắt sáng, môi như môi con gái, lại đàn giỏi kia", không phải chỉ có bà thôi. Mẹ Huệ Chi, người vợ cả của Thy San, cũng ngẩn ngơ vì cha Thanh nữa. Trong đám con gái thơ kinh, mẹ Huệ Chi chỉ chịu thua có bà. Nhà mẹ Huệ Chi khá giả. Bà ngoại Huệ Chi có cửa hàng cau khô to vào bực nhất phố và còn có cả tiền gửi Đức Sinh buôn thêm. Hơn nữa, mẹ Huệ Chi lại đẹp. Huệ Chi ngày nay chỉ là cái gương đúc lại của cô Huệ hàng cau ngày trước, thêm cái trán hơi dô dô của Thy San. Nhưng không hiểu sao cái người thày giáo giỏi đàn ấy lại yêu bà, khiến giữa bà và Huệ tuy không bao giờ ai nói với ai một nhời, nhưng những khi một trong hai người cất tiếng nguyện ngắm hay những lúc thoáng nhìn nhau thì như có dao sắc đâm vào nhau vậy. Cuộc mê say tội lỗi ấy có lẽ cũng chỉ hai người biết với nhau thôi, nếu không vỡ lở ra chuyện con Na có chửa phải trốn đi đẻ.

Những người phá việc này có cả Đức Sinh. Là mẹ đỡ đầu của cha Thanh, y chăm nom cho cha Thanh mà làm nhiều người nhà thày khác phải ghen, phải thèm. Có nhiều bà mẹ cũng ghen, cũng thèm vì y. Cha Thanh không những đàn giỏi mà học gì cũng giỏi, cha cố nào cũng quý. Chỉ hăm tám ba mươi là cha Thanh có thể đỗ thày cả. Mẹ thiêng liêng một "cha" trẻ và giỏi giang như cha Thanh là sự mơ ước rực rỡ của bao nhiêu bà trùm, trưởng, chánh trương và nhà giàu có. Câu chuyện xấu xa gớm ghiếc nọ không hiểu Đức Sinh làm thế nào mà là người biết trước nhất. Ngay khi mẹ Thanh đi ra ngoài mà chưa ai trông thấy có bụng cả, thì Đức Sinh đã đem trình ngay cha già chính xứ. Công việc còn đương thẩm xét, cha Thanh vẫn đàn những buổi lễ, buổi chầu, thì các bà trong họ bà thánh Anna và cả giáp An Tĩnh của bà ngoại Thanh cứ đòi đưa mẹ Thanh ra tra vấn.

Cha Thanh phải bỏ trốn đi ngay. Hôm ấy không hiểu sao trong người mẹ Thanh cứ như lửa đốt. Mẹ Thanh liều đi nhà thờ. Vào khoảng sẩm tối. Cha Thanh đương xếp chiếc va li gỗ và cây đàn lên xe ở cổng sau nhà chung. Lúc mẹ Thanh bước vào cửa nhà thờ là lúc cha Thanh ngồi trên xe trông ngoái lại.

Mười tám năm rồi... Cha Thanh đi biệt... Huệ hàng cau, mẹ Huệ Chi đã chết... Na, mẹ Thanh đã bốn mươi tư tuổi. Bao nhiêu ý nghĩ và sự rắp tâm liều lĩnh, gớm ghiếc từ lúc có mang Thanh cho đến lúc trở dạ và cho cả đến khi ôm cái hòn máu lần đầu tiên cho nó bú kia, thế là không thành gì cả! Mười tám năm... Mẹ Thanh đã sống với Thanh, nuôi đứa con tội lỗi của mình ăn học khôn lớn ở ngay cái nơi như tù như ngục là quê cha đất tổ. Cho đến bước hôm nay...

Người mẹ đưa khẽ mẫu ảnh thánh giá bằng đồng lên mũi. Bà hít nhẹ và thì thầm...

- Lạy Chúa! Xin Chúa ban sức cho con được vác thánh giá đền tội theo chân Chúa. Mọi sự đổ mồ hôi máu trên thế gian này Chúa đã chịu hết cho cả và thiên hạ, thì mọi sự khốn khó nhục nhã dù đến thế nào con cũng xin chịu hết cho các con con...

***

Mọi người bỗng nhổm cả dậy. Đàn chó trong sân lại xồ ra cổng, nhưng lần này tiếng sủa, tiếng rít nghe khác lạ hẳn. Bõ Quý hớt hải bỏ quên cả chiếc roi song chạy kình kịch ra theo, chùm chìa khóa cứ rối lại xủng xoẻng. Tiếng còi ô tô đã vang từ đường cái. Tiếp đến là tiếng trẻ con í ới gọi nhau.

- Chết mất rồi! Khốn nạn quá! Giờ này Huệ Chi cũng đến!

Thanh rú lên khe khẽ, đứng dậy tối tăm cả mặt, chụp mũ xuống lại nghiêng mũ đi, không còn thấy chỗ nào để cúi mặt hay lẩn trốn.

Vẫn chiếc ô tô màu sơn như nõn cây, kền sáng loáng, dáng lẳn và mạnh vút như thân một thứ cá kình, êm như ru tiến vào giữa hai cánh cổng mở rộng. Vẫn người lái xe quần áo trắng là, mũ lưỡi trai vành kim tuyến, cung kính đi xuống trước mở cửa. Nhưng lần này không phải là Huệ Chi mà là Thy San và Giáng Hương vịn tay nhau bước ra.

Thy San người dong dỏng cao, đội mũ dạ màu tro nhạt, quần áo hàng mùa thu, mắt vằng vặc đôi kính trắng cặp ở sống mũi, trán dô dô đã có nếp nhăn. Giáng Hương cũng dỏng cao nhưng là một dáng người lẳn mình trắm, gương mặt sáng, sống mũi thon, cằm hơi lẹm, tóc uốn những gợn như sóng xõa xuống gáy trắng ngần. Y mặc áo nhung the màu cánh chả, quần cẩm châu trắng, đi một thứ giày bọc nhung hở gót kiểu đầm. Một chuỗi hạt không hiểu bằng kim cương hay ngọc gì ngời lên như sao sa, hơi trễ trên ngấn ức nở hồng. Toàn thân y ngát lên hương thơm của một thứ nước hoa chỉ thoáng qua cũng vút mạnh vào cảm giác người ta.

Hôm nay Thy San và Giáng Hương bất thường xuống trại thăm mẹ - cụ cố Đức Sinh. Mọi khi thường vào sáng chủ nhật, thứ năm hay chiều thứ sáu.

Mụ đội Nhị môi din mua nhà cửa, ruộng đất, vàng, đứng bầu chủ nợ, đi thu tiền nợ, tiền họ cho trại Đức Sinh và là chủ nhà của mẹ con Thanh, của mấy dãy trong xóm, cũng vừa đi xe nhà đến. Y gầy như con mắm, tiếng nói the thé lộng óc, liên chi hồ điệp, ngay từ lúc người đày tớ kéo xe hạ càng. Y vừa nói vừa lễ mễ bưng đến cạnh cổng những thúng, những quả, những gói thơm lựng lên như cả một cửa hàng rượu Tây bánh ngọt và lê táo ở phố Khách. Xe của đội Nhị đến trước xe ô tô Thy San, nhưng y bảo đỗ ở ngay cột đèn, chắp tay lạy vọng và chờ cho xe ôtô vào cổng, vợ chồng Thy San vừa đi khỏi, y liền chạy thọt vào nhà bõ gác với một gói to kềnh:

- Cụ Quý ơi! Thuốc lào Tiên Lãng và mứt sen của cụ đây! Chiếc xe bà chủ lại mới mua đấy phải không? Mình chỉ được ngồi đi một tua Hải Phòng thôi rồi có chết cũng đáng đời nhỉ?

Như một người đóng kịch, đội Nhị hãm nhanh như máy cái cười khanh khách, quay ra đằng cổng, dau dảu cái mỏ:

- Các người cứ chờ ngoài ấy. Còn phải vào bẩm cụ Cố đã.

Những người vay nợ và chạy công việc xô lại nhưng không kịp với những người ăn xin. Mấy ông khăn lượt, áo the lếch thếch chạy tuột cả khăn, văng cả ô.

- Mẹ kiếp! Ra đến cái hàng phố thật nhục!

Bọn ăn xin cứ chen sấn mấy ông kia đi. Họ mặc kệ

cả chó cắn, roi vụt, cứ bâu lấy cánh cổng, giơ rá, ống bơ, gáo dừa lên mà kêu mà lạy. Có người rền lên như khóc, như hát:

- Thế này thì chết đói mất thôi.

- Cụ Cố ơi! Mẹ con nhà cháu chực từ tối hôm qua, cụ Cố ơi là cụ Cố ơi!

- Mày chết đi! Mày chết bớt đi!...

- Ối giời đất ơi! Nó chen chết mẹ con tôi rồi!

- Giời ơi! Đói ơi là đói! Mắt lòa chân chậm cứ chầu chực mãi thế này thì rũ xương ra.

Có tiếng xu xóc xách roỏng reẻng. Bõ Quý giơ cái làn đựng tiền lên chao đi chao lại như lúc thày cả giơ bình cômônhong (1)lên cho các con chiên trông thấy Mình Thánh Chúa cùng với các chú bé lắc lò trầm hương vừa rung chuông. Cái roi song mật bịt đồng cũng giơ lên theo, quật khắp lượt những đầu tóc, bàn tay, mặt mũi của đám người cuống quýt:

⚝ ✽ ⚝

[1] Bình đựng bánh thánh.

- Các giống quỷ! Chúa quỷ Luxiphe bắt chúng mày đi, kéo tất cả chúng mày xuống đáy địa ngục kia. Chúng mày làm gì mà cứ như ri như dòi vậy? Chúng mày muốn phá cổng vào cướp trại sao?

Tiếng kêu van, gào thét bặt xuống rồi lại ran lên. Có một cụ già và thằng cháu, ông cụ thì gầy lõ, khoác cái bao tải, thằng bé thì trần truồng đen cóc cáy, lại ngồi mãi xa mà giơ gáo, giơ rá lên. Ông cụ rên rỉ không ra tiếng. Thằng cháu cứ chồm chồm chực chạy đến. Bõ Quý liền thò hẳn tay ra cổng không ném vào rá mà ném cùng cục vào ngực vào bụng ông cụ hai đồng xu, vừa cười sằng sặc:

- Hôm nay lại cho thêm ông cháu một xu đấy!

Đó là hai ông cháu nhà có thửa ruộng cuối trại, giờ đào làm hồ sen. Ngày trước ông cụ cấy lúa nếp và thằng cháu thường ra đấy bắt châu chấu về rang ăn. Ngày ông cụ đau mắt phải cầm đoạn mại ruộng cho Đức Sinh. Đã sáu năm, ông cháu cứ đến kỳ trại làm phúc, hay được tin ông cả, cô Huệ Chi xuống trại thì lại đến xin. Bao giờ ông cháu cũng được bõ Quý cho hơn. Khi thì thêm bát gạo, chiếc áo rách. Có khi cả những thức ăn và đồ dùng của y. Gói bánh khảo gián nhấm... đôi lạp xường hay khúc cá thu kho chuột vầy... quả cam bỏ quên khô một nửa... cái tải để hắn chùi chân và để hai con chó lài to nằm... cái bát, cái khăn mặt cũ, cái bát Giang Tây y uống nước riêng rạn miệng đã lấy đựng xà phòng, cái khăn bông lót gối, con chó lài đã tha đi chơi nhay thủng ba bốn chỗ...

- Cái thằng quỷ con kia! Bao giờ thì mày mọc đuôi hở! Hai xu ấy có mua phở cho ông mày, thì bưng về không được nhón thịt ăn và húp hết nước dùng, lấy nước súc bánh chế với nước mắm thêm vào đấy!

... Trên phòng khách nhà trên, vú em đã nghe thấy tiếng còi ô tô rồi tiếng chó sủa rít chạy bồm bộp ở thềm đá hoa mà vú vẫn còn cố phẩy thêm những chiếc đệm. Vú nắn nót kéo lại những diềm cửa, đoạn đi vào gian trong, nép sau tấm màn ren, ngồi chờ trên cái đôn sứ. Giáng Hương đưa cái ví xách và gói quà cho đứa con gái người vú em, bước lên thềm. Đức Sinh đã đón ở lan can. Giáng Hương ôm khoác lấy cánh tay béo mầm, ấm sực của mẹ chồng:

- Me! Sao me cứ mặc lạnh thế này? Chiếc áo len bên Pháp com măng gửi bằng tàu bay về me mặc có vừa không?

Đức Sinh phong phanh bộ quần áo lụa mỡ gà, đeo trước ngực một mẫu ảnh thánh giá nhỏ bằng bạch kim mà những đinh đóng vào chân tay Chúa cùng những vòng gai thắt trên đầu Chúa đều nạm kim cương. Trán nở, dái tai chảy xệ đeo một đôi nụ hổ phách, cằm cũng xệ, gò má hồng hồng, môi tươi, trông người Đức Sinh nếu không có cái mái tóc bạc phơ thì người ta thấy vẫn là một người đàn bà còn đẻ được. Đức Sinh khoác tay con dâu đi, mủm mỉm nhai trầu, thỉnh thoảng lại cười nhìn cả con giai, con dâu.

Giáng Hương không ngồi ghế gần Thy San. Y kéo chiếc ghế dựa nệm gấm bên sập ngồi ngả vào cạnh mẹ chồng. Tiếng Giáng Hương chuyện cứ ríu rít như tiếng chim. Thy San tự lúc vào vẫn ngồi yên. Y mở cái cặp khóa rút ra, lại nghiền ngẫm tấm bản đồ vùng duyên hải Bắc Kỳ tự tay y ghi nhiều gạch và chấm xanh đỏ.

- Anh cả hôm nay ăn sữa bắp?

Thy San ngước cặp kính trắng lên:

- Mùa này vẫn còn bắp... me?

- Nhà muốn ăn bao giờ thì có bấy giờ, cứ gì phải mùa. Dạo này me ăn uống nó cứ ì ạch, ông đốc tờ Phétkê ông ấy cho đơn dặn phải chịu khó ăn nhiều hoa quả và thỉnh thoảng phải nhịn cả cơm đấy!

Vú em đội khăn nhung, mặc trong áo lụa mỡ gà, ngoài áo gilê xa tanh đen hoa nhỏ, bưng ra một khay Nhật Bản. Vú bầy hai bát chè ướp lạnh ra cái bàn con trước mặt Đức Sinh, Giáng Hương. Bát hấp cách thủy, hơi nóng vẫn nghi ngút, thì bày ở bàn Thy San.

- Anh cả này! Anh đã gửi thư sang Tòa thánh mừng thọ trước đức thánh Phapha chưa?

- Thưa me chính tay con đi gửi chuyến thư tàu bay thứ năm vừa rồi ạ...

Giáng Hương đáp rồi quay ra lúng liếng con mắt nhìn Thy San:

- Ba Chi nhỉ, gửi sáng là trưa đi ngay.

- Thế tuần thượng thọ người bảy mươi tuổi này, anh cả thu xếp sang Tòa thánh được không?

Thy San nhíu mày, giây sau mới giả nhời:

- Có lẽ me và nhà con đi. Suốt tháng ấy con mắc phải mấy công việc.

Giáng Hương lại xen nhời:

- Lần này họp bàn với Đờvanhxy, công ty than Hòn Gai, Đông Dương ngân hàng và đại diện hãng Pháp quốc thương thuyền...

Thy San chỉ gật đầu.

- Thế anh cả đã tính kỹ rồi chứ? Đã hỏi ý Đức cha Thái và Đức cha Đông chưa?

Đức Sinh sực nghĩ ra liền e hèm:

- Vú em làm gì đấy?

Biết ý, vú em bưng vội cái khay ra ngoài. Đức Sinh đưa mắt nhìn theo đoạn nói tiếp:

- Tiền nhà chuyến này chỉ còn gửi ở nhà băng non một triệu. Dãy nhà phố Tám Gian và phố Bônbe đã xuống giấy. Tôi lại vừa lấy thêm hơn nghìn mẫu ruộng ở Đồ Sơn, ở Hải An. Cái đồn điền ngoài Quảng Yên cũng đã xong. Tôi sẽ phái bố thằng Chính ra trông coi. Cái thằng quản lý cũ vẫn giữ lại nhưng phải kiểm lại các sổ sách. Nghe đâu nó vừa thuê ba chuyến thuyền định tải toàn gỗ lim ở đây về quê nó.

Đức Sinh ngừng lại. Bát chè đã hết. Y với lấy cái khăn bông ủ nước nóng xấp nước hoa để trên cái đĩa pha lê lau tay:

- Anh cả ạ, tôi định cho đắp một con đê quai từ Đằng Hải ra Đồ Sơn để bao chỗ bãi của nhà và của mấy tổng chung quanh lại. Chỉ hai năm là thành ruộng cho phát canh. Ngoài Tràng Cát Đình Vũ vẫn để cho làm muối. Thuyền lưới đỗ bến phải đóng thuế cho mình. Như thế cứu giúp cho cả mấy làng ngoài ấy chúng nó không còn lo lụt, lo mặn. Sau đây mở thêm mấy họ và xây nhà thờ mới, chiêu thêm dân đến làm. Bãi thành điền cũng khắc về tay mình cả.

Thy San vẫn không lên tiếng.

Y đương còn phải nghĩ đến cái hội nghị sắp tới mà từ thằng cáo già Đờvanhxy đến Đại diện Pháp quốc thương thuyền đều là những vấn đề không thể làm đơn giản được. Kể ra những sự tính toán của một bà mẹ như bà mẹ y thật là của những tay kinh doanh vừa xốc vác vừa chắc chắn. Nhưng cái lối làm ăn cổ điển và An Nam này y vẫn không thích. Cho vay, cắm ruộng đất, mở đồn điền, buôn bán nhà cửa và làm nhà cho thuê... Phải! Vẫn là cái lối làm ăn của những đầu óc nhà quê. Còn hai lẽ nữa y không thích. Một, lãi thu đến thế nào cũng không thể bằng mở nhà máy hay những cuộc bao thầu, những độc quyền lớn! Hai, cái giới y phải đụng chạm trong công việc này không xứng với một người như y. Uy thế, thời giờ và tâm trí của y không thể nào dành cho những cuộc giao thiệp như thế được.

Một lần, vợ chồng Thy San đi dự bữa tiệc đầu năm do đốc lý Hải Phòng và Chánh phòng thương mại Bắc Kỳ chủ tọa, để mừng nền kinh tế của thành phố và hải cảng phục hồi thịnh vượng. Mọi người đều lần lượt nâng cốc và tìm các câu văn hoa để chúc nhau. Đến Thy San, Thy San chỉ hơi nghiêng đầu, mỉm cười với mấy tiếng buông lơ lửng: "Tôi cũng xin chúc" trong cái ồn ào dập dìu của bữa tiệc.

Miệng cười nói nhưng trong tâm trí, Thy San nhún vai:

- "Thảm hại! Mấy cái xưởng máy "lông vịt", mấy cái cửa hiệu "còm", mấy hãng công ty không còn ai muốn biết cổ phần là bao nhiêu, mà gọi là nền kinh tế và kỹ nghệ thì thật là khôi hài bằng danh từ và theo lối nói cha sinh mẹ đẻ của mẫu quốc Phú Lẵng Sa vậy!"

- Sữa bắp thơm quá. Em ăn vẫn thấy hương vị kỳ thú như lần đầu ở Pháp về me cho ăn vậy. Ba Chi ăn bát nữa.

Đức Sinh lim dim mắt nhìn con trai, con dâu.

Những chuyện y vừa đem nói với Thy San cũng chỉ để mà nói. Y biết con giai y sẽ mặc y làm mọi việc của phần đàn bà nọ. Cái sự thật và ý nghĩ đó không làm y phật lòng chút nào. Trái lại, y càng thêm yêu con, quý con, sợ con như một đấng bề trên vậy.

- Anh cả ạ, tuần trước Đức cha địa phận về mời tôi lên để người gặp. Đức cha không nói ra nhưng như ý các bề trên thì muốn anh cả cứ nhận một chức gì đấy trong Nhà nước, anh cả không cần vào Huế hay lên Hà Nội gì cả. Nhận thì nhận, kinh doanh vẫn kinh doanh. Anh cả không phải lo bận đâu!

Đến giờ Thy San mới đặt tấm bản đồ xuống, cười khẩy một tiếng:

- Nhận một chức gì trong Nhà nước nghĩa là ra làm quan như kiểu thằng Phạm Quỳnh phải không? Nghĩa là làm những thứ bồi giữ và đóng những con dấu? Chính phủ Nam triều! Hay chỉ là một đám hề với thằng tượng đất Bảo Sị và thằng trí thức láu cá Phạm không mô phạm nọ?

Giáng Hương liền đặt thìa xuống, nhún vai đưa mắt cho Thy San và nói bằng tiếng Pháp:

- Anh là Tổng trưởng nội các, tôi là Bộ trưởng bộ nội vụ kiêm ngoại giao... Chính phủ Thy San đóng ở biệt thự Bờ Biển Xanh, vậy còn phải làm gì nữa? Đi đâu nữa?

Thy San cười mỉm và cũng nói bằng tiếng Pháp:

- Và những ngôi báu quý nhất trên mặt đất này cũng không bằng chiếc Lanhcôn do Jeanne (Giannơ) Hương lái, ngồi bên ta đi những cuộc hành trình không cần có chương trình.

Giáng Hương cúi ngay đầu:

- Rất vinh dự! Xin biết ơn một câu nói chân tình.

Đức Sinh không hiểu gì cả nhưng vẫn thấy ruột gan như nở ra. Cái miệng với cặp môi như cánh hoa đào lại mủm mỉm. Vú em bưng vào hai bát chè, khép nép đặt xuống rồi khép nép đi ra. Thy San lại vừa ăn vừa nghiền ngẫm với tấm bản đồ. Giáng Hương chỉ nhón nhén mấy thìa rồi bỏ dở. Y mở ví lấy hai cái cặp, đến một tấm gương nắn lại mấy làn tóc đoạn lại ngồi sát vào người mẹ chồng. Đức Sinh thì chỉ ăn thêm có mỗi thìa chè. Chờ Đức Sinh uống xong chén nước, Giáng Hương nghiêng nghiêng đầu mẹ, bới tìm những sợi tóc sâu. Cặp mắt Đức Sinh mí mọng mọng lại lim dim. Thỉnh thoảng Giáng Hương hát thầm một điệu hát Pháp hay một điệu hát nhà thờ bằng tiếng Latinh. Nhịp của cái đồng hồ quả lắc cao như cái tủ đứng và tiếng gió reo trong giàn hoa ti gôn càng êm ru; gian phòng càng ngan ngát hương của những cụm hoa cúc nở trùm cả những chậu sứ to người có thể ngồi tắm, kê ở hai bên cửa ra vào và những góc phòng.

Đức Sinh cũng rì rầm nhưng không phải cầu kinh và cũng không phải hát. Y tính toán:

- Anh cả không sang chầu Tòa thánh, mừng thọ Đức thánh Phapha, ở lại nhà trông lo công việc là phải. Ta sang vừa được cầu xin cho nhà đầy ơn đầy phúc, vừa đi cho biết đó biết đây. Có được con dâu như con Giáng Hương bây giờ mới càng thấy quý. Rồi nó đưa ta sang cả Thụy Sĩ nữa. À! Chỗ yến mua thêm thế là vừa đúng hai cân. Đồ lễ của ta: quế Thanh này, yến Quảng này, một bộ đồ uống nước bằng vàng này, một thánh giá bằng vàng nạm kim cương, một bình cômônhong bằng vàng này... Ăn mày ơn Chúa năm nay ta sáu mươi bảy tuổi. Ngày thượng thọ bảy mươi của ta cũng phải làm sao cho thật trọng thể...

Những ý nghĩ của Đức Sinh lâng lâng thêm:

- Rồi ta phải bốc mộ bốn cụ ở trong Nam Định ra. Đá hoa, gạch ngói sứ, thủy tinh, pha lê, đặt mua đâu vào đấy cả rồi. Khởi công xây lăng đã có ông thầy ở Bắc Kinh sang và ông kỹ sư bạn với ba cái Huệ Chi ở trong Huế ra. Già lắm hai năm là xong. Trắc bách diệp, thiên tuế, ngâu, trúc, phi lao, đã có mấy trại hàng hoa dưới Hạ Lũng tìm giống và cử người chăm lo giồng. Chỉ còn tượng các cụ. Không hiểu nên đúc bằng đồng hay tạc bằng đá. Đúc đồng lại phải nhờ ông thầy Bắc Kinh tìm thợ cho chứ không thể dùng cái thợ An Nam được! Còn tượng đá cũng phải nhờ thợ mỹ thuật bên Tây, hay bên Y Pha Nho. Tượng đồng thì để ở trại, tượng đá thì để ở lăng. Hay là cứ làm cả hoặc bằng đồng, hoặc bằng đá. Mà làm thì đặt ở bên Tàu hay bên Tây rồi gửi về... Nhưng... còn ta? Người còn sống có nên tạc tượng không? Được chứ! Cứ tạc sẵn rồi làm sinh phần như của lão quan thiếu thì trên Hà Đông ấy.

- Kìa me ngủ à?

Đức Sinh giật mình, mở mắt cười:

- Ấy cứ ngồi nhổ tóc sâu lại buồn ngủ.

- Để con nhổ kỹ, me cứ ngủ.

Cặp mắt mí mọng mọng nọ lại gà gà. Nhịp đồng hồ, tiếng gió, tiếng hát, hương cúc vẫn như ru. Chuyện làm ăn... chuyện đường dài, sống chết... Chuyện trước, chuyện sau. Đức Sinh lại như người lên đồng sau khi uống chén rượu hỏa thang, xoa mặt nước gừng và ngấm đàn hát...

Mới trong vòng hai mươi năm mà một cơ đồ nổi lên như vậy. Ngày xưa, ông cụ bốn đời Thy San cũng làm lang. Nhà có tiếng giàu có. Các ông già bà lão thường kể chuyện nhà cụ lang Thụy cháy! Không kể những kho thuốc bắc toàn những vị trọng, chỉ kể kho đồ đồng cũng đã không biết bao nhiêu của. Mâm nồi chảy quánh ra, hàng đồng đến mua xe mấy ngày mới hết. Tiền kẽm, tiền đồng phải đổ ban đêm xuống ao. Còn thóc gạo, một bà lão mù chỉ lê đi quét mót ở chỗ dọn dẹp cũng được hàng rá. Kho thóc gạo này là của các nhà quê tải đến, năm này lưu năm khác, kho không bao giờ vơi cả.

Nhưng từ khi cụ lang Thụy làm hầm ở trong nhà giấu đạo, quan lớn tỉnh đào được hầm, bắt được một cha Tây và một thúng ảnh tượng, đồ lễ, cha Tây thì bị xử chém, cụ lang Thụy bị tù đày chết, và tịch thu hết gia sản, thì nhà mới gọi là sa sút. Tuy vậy đến đời con cụ lang tức là đời ông nội Thy San, khi Tây đến hạ thành ra làm thông ngôn và mở cửa hàng buôn bán, thì cửa hàng muối, nước mắm của nhà ông nội Thy San lại là cửa hàng nhất nhì hàng tỉnh. Năm muối khan, chỉ có hàng nhà ông nội Thy San được bán, và tha hồ đưa lên mạn ngược từng thuyền muối, thuyền mắm. Thy San lên mười tuổi đã được nuôi sang Pháp rồi sang La Mã học. Khi Thy San ở Tây về. Đức Sinh thôi bán muối mắm, cửa hàng cho người em gái. Ra Hải Phòng, Thy San được độc quyền cung cấp thức ăn cho các tàu cặp bến, rồi độc quyền xuất cảng đay, gai, sơn, chè rồi làm đại lý độc quyền phụ tùng ô tô, xe đạp toàn Bắc Kỳ, Trung Kỳ...

Mẹ Thy San đứng tên môn bài và các giấy tờ giao dịch. Tên y là Nguyễn Thị Sen. Các nơi từ toàn quyền, thống sứ, đốc lý đến các nhà buôn, các hãng tàu đều gọi là Thị Sen, lơ lớ là Thy San. Do đó chữ ký, con dấu và cả tên hãng xuất nhập cảng Nguyễn Thị Sen thành ra hãng Thy San. Còn tên thật Thy San là Nguyễn Đức Sinh. Đức Sinh nhận cái tên Thy San và để mẹ cái tên Đức Sinh. Thy San ở Tây về được ba năm thì cả khu xóm ngõ, ruộng vườn của hàng trăm gia đình làng Cấm dần dần quy lại thành trại Đức Sinh. Còn biệt thự Bờ Biển Xanh của Thy San ở trên phố xây xong, làm lễ khánh thành khi Thy San cưới Giáng Hương. Câu chuyện khánh thành cái biệt thự nọ cũng truyền tụng như chuyện cháy nhà và giấu đạo của đời cụ kỵ Thy San. Người ta thường tấm tắc nói ngay cả ngày vua Đồng Khánh ngự giá Bắc tuần ra Hải Phòng cũng không long trọng bằng. Vì ngoài các quan đầu xứ Bắc Kỳ đến nhà Thy San chúc mừng yến tiệc, lại còn cả các Đức cha bên Tòa thánh sang nữa...

Giáng Hương cũng học ở bên Tây. Giáng Hương ở cả Thụy Sĩ nữa. Còn bé Giáng Hương học may trong trường bà sờ Thụy Sĩ rồi đỗ bằng cao đẳng đại học về may mặc ở Ba Lê. Cha Giáng Hương ở Hà Nội trước làm thợ may sau vừa mở cửa hiệu may mặc vừa bán len dạ, vừa nhận thầu quần áo của trại lính. Nhà trên ấy mấy năm nay cũng tậu luôn được mấy tòa nhà ở Hàng Ngang, Hàng Đào, Trường Thi. Tòa thì mở cửa hiệu thuốc Tây cho anh Giáng Hương, tòa thì cho Tây đen bán vải thuê. Giáng Hương ở Pháp về thì lấy Thy San. Đã được bốn năm. Giáng Hương giao thiệp với các nơi, ai cũng phải tấm tắc là khéo léo lịch sự. Đối với mẹ chồng, chồng, các con chồng cho đến cả các em giai, em dâu, người ăn kẻ làm trong nhà, Giáng Hương đều ý nhị, thương yêu, xởi lởi. Ai cũng mến, cũng vì nể. Duy chỉ phải hơi muộn màng đường con cái. Năm nay Giáng Hương hai mươi tám...

... Một cửa hiệu bán từng chai nước mắm, cân muối ở tỉnh nhỏ trước đây... Một hãng buôn độc quyền thức ăn cho tất cả tàu to của một cửa biển và nắm trong tay hàng mấy thứ độc quyền khác nữa... Những tiền lãi cứ ùn ùn lên, gửi nhà băng không kịp... Những đồn điền hàng năm trăm, một nghìn mẫu ở các tỉnh... Từng dãy phố về tay... Con giai nhà nước mời đi ra làm quan cũng không thèm. Cả và nước An Nam chỉ có mỗi nhà mình được sang Tòa thánh chầu Đức Giáo hoàng... Khu đất thánh và sinh phần chỉ để phần mộ các người trong nhà còn to hơn cả những lâu đài Mácty, lăng nhà thiếu Hà Đông... Quên! Cạnh khu này sẽ xây riêng nhà thờ để những tuần lễ các thánh quan thầy của gia đình, thì mời cha về làm lễ cho riêng người nhà đi lễ... Rồi chiêu dân, lập hẳn một họ, một nhà xứ quây lấy chung quanh nhà thờ và khu lăng... Lại tậu một cái ô tô Hoa Kỳ mới nhất cho trại... Huệ Chi năm nay đã mười tám tuổi... Huệ Chi! Huệ Chi khiêm nhường, đạo đức, trông người lắm lúc như bà thánh Têrêxa vậy...

Đức Sinh mở choàng mắt. Đúng Huệ Chi ở trước mặt. Cả cái Bích Nga nữa. Bích Nga trắng hồng, hai má lúm đồng tiền, ngực nở nang, cao gần bằng Huệ Chi! Bích Nga chạy sầm đến ôm lấy bà hôn, cười nói ríu rít. Huệ Chi vào sau, tay cầm cuốn sách kinh và một bó hoa hồng bạch, lặng lẽ đến bên bà. Đức Sinh lại nhìn, mắt lim dim cười cười:

- Sáng nay bà rức đầu bà không đi lễ được, bà ở nhà đọc kinh, chắc con mong bà?

Huệ Chi chớp chớp mắt, cúi cúi đầu:

- Bà đỡ rồi ạ?

Đức Sinh đặt bàn tay lên cái vai thon thon, hơi gầy, nắn nắn vuốt ve.

- Con đem hoa đi đâu vậy? Con đã dâng đền thờ bà thánh Anna cho mẹ con chưa?

- Thưa bà con dâng ở đền thánh rồi. Giờ con xin phép bà con xuống đất thánh viếng mộ mẹ con.

Đức Sinh đưa mắt nhìn Giáng Hương rồi càng âu yếm nhìn Huệ Chi. Một ý nghĩ thoáng qua:

- Trong lăng phải có cả mộ con mẹ cả nó nữa. Phải tạc cả tượng cho mẹ nó. Tội nghiệp!...

***

- Mẹ con bà giáo đi đâu mà đến giờ vẫn chưa về thế. Không biết có để gạo ở nhà không mà chẳng thấy cái con dở kia nó ăn uống gì cả.

Bà Gái giã cua ở thềm nhà sốt ruột quá lại hỏi. Gái đen gội đầu gần đấy nghe mẹ lẩm bẩm quay lại nói:

- Lại đi hỏi công hỏi việc cho nhà cậu ấy thôi. Cái Ngơ nó có thổi nấu gì đâu mà ăn với uống. Tối hôm qua cũng chỉ thấy nấu cháo.

- Hay mày sang hỏi một tí.

- Bu và chị đến hay! Người ta đi có việc của người ta, sao lại sang hỏi.

Cam trong nhà nói ra. Gái đen lườm Cam:

- Rồi mày đừng có lúc nhăn răng méo mồm, cần đến hàng xóm láng giềng gì cả!

- Nhăn răng vẫn nhăn răng, méo mồm vẫn méo mồm, hàng xóm láng giềng cần vẫn cứ cần! Nhưng mà việc nhà, chuyện nhà người ta đừng nên chõ vào!

- Tao lại không thèm nói với mày nữa!

- Tôi cũng lại không thèm nghe chị nói nữa!

Bà Gái lặng người đi:

- Ơ kìa chị em cái thằng này! Mà cái thằng Cam kia!

- Thôi thì để bu và chị ấy tâm đầu ý hợp với nhau vậy.

Cam lại trở mặt vào vách, cố ngủ để chốc nữa đi tầm tối.

- Gái này! Mày thấy bà ấy bán giầu cau ở chợ Cột Đèn à?

- Bà ấy cũng lại nghỉ bán giầu cau rồi! Buôn lại cau ế của những mẹ chợ Sắt thì chỉ có ăn sỏi...

Cam lại nhỏm ra:

- Bà ấy thì cần gì lãi?! Cần gì ăn?! Chỉ đọc kinh cũng đủ no rồi! A di men... Đức Chúa giời cầu cho chúng tôi...

- Cái thằng ma thằng quái! Mày nhạo báng, các ông thánh bà thánh bên ấy là thiêng lắm, làm mày sưng cổ sưng mồm lên mà chết! Mà mày không tin thì thôi! Đến tai người ta lại sinh mất lòng.

Gái đen nói đoạn quay đi bưng miệng cười. Cam rúc rích:

- Chị Gái dạo này cũng muốn đi đạo đấy? Nhỡ có món hàng lậu ngoài Kho bị "cớm" (2) nó chộp được vào bóp Ngã Sáu, bà chị lại gặp ông sếp Bảy mề đay, ông ấy nhận ra bà chị vẫn đi lễ nhà thờ với ông ấy, ông ấy tha cho.

⚝ ✽ ⚝

[2] Cớm: mật thám, đội xếp.

Gái vùng ngay dậy, mớ tóc vẫn rỏ nước tong tong, sực mùi lá sả, bồ kếp. Y quay quay vội mấy vòng tóc rồi vớ lấy thanh củi chạy vào vụt đít Cam bồm bộp. Cam xoa xoa:

- Giêsu! Lạy ông Bảy mề đay! Giêsu! Lạy ông Bảy mề đay.

Bà Gái sợ quá, rên lên:

- Tôi lạy các anh các chị đấy!

Chờ Gái đen trở ra, bà gọi Gái đến.

- Mày sang hỏi cái dở đi. Rồi đong cho bà ấy năm bơ gạo. Nhà ta cũng chỉ còn gạo ăn đến ngày kia.

Gái đen vấn vấn tóc, cắp rá gạo sang nhà Thanh. Cửa bếp vẫn khép, trong nhà tối mờ. Cái Ngơ chỉ nhìn lên Gái đen, chả chào lại gì cả. Gái đen mở hẳn cửa, ngồi xuống cạnh Ngơ. Ngơ càng nhìn chòng chọc vừa lùi mãi vào phía trong.

- Bà với anh đi đâu?

Gái đen hỏi xong càng ái ngại. Gái đen thấy người ta có hỏi Ngơ thì Ngơ cũng không biết chuyện gì cả. Hay Ngơ có biết thì cũng không thể nói ra nhời. Gian nhà mỗi lúc một sáng thêm vì ánh nắng bên ngoài lùa vào. Gái đen để ý thấy bữa rày mớ tóc ngắn, lốm đốm những trứng là trứng của Ngơ càng rối hơn. Đôi mắt trắng xanh mở to càng dại dại. Gái đen chép miệng, giọng nói nhẹ nhàng hơn:

- Sáng ăn cơm chửa? Gạo bà giáo nhờ tôi đong đây. Ở nhà cứ thổi cơm đi. Chốc nữa bà với cậu giáo về ăn.

- Mẹ cháu có đi chợ đâu mà có gạo? Cô nói dối! Cháu không lấy đâu! Anh cháu về mắng.

Gái đen bối rối:

- Thì bà đưa tiền tôi đong đây mà. Bà dặn tôi bảo Ngơ, hễ bà lâu không về thì Ngơ cứ thổi cơm mà ăn. Tôi nói dối Ngơ làm gì!

Ngơ lại lùi nữa vào góc giường, đẩy đẩy rá gạo vào đùi Gái đen, nhìn vè vè rồi quay đi, mặt càng đờ đẫn. Gái đen cũng im lặng. Lúc sau, Ngơ ngoái lại thấy gạo trắng và lưng một rá, bất giác vốc lên một vốc rê rê. Mùi gạo thơm quá. Vừa ngọt nữa. Ngơ nhón mấy hột cắn chắt rồi nhoẻn miệng cười:

- Gạo tám cô nhỉ?

- Phải! Gạo tám!

- Cô đong ở chợ nào thế?

Gái đen lại không đáp được. Đó là thứ gạo quê từ Hải Dương, Nam Định, Thái Bình đưa ra, nhà Thy San chọn rất kỹ để bán sang Pháp, sang Ý. Gái đen khâu bao và quét hót ở kho gạo. Chỗ gạo này lấy được. Mỗi chuyến có gạo ngon, bọn phu bắc tê và đàn bà con gái khâu bao chờ cho ký cân, dưới tàu nhận xong, hàng cẩu (3)xuống quầy mới lấy. Cái ngáo (4)chỉ phập nhẹ vào bao rạch một cái là gạo chảy như tháo cống. Có khi cả từng mã hàng mười bao hất xuống dưới kè. Ban đêm ở đây chực sẵn những thuyền con đón cả rượu vang, thuốc lá, sợi, bít tất, thuốc bắc, giày, áo, khăn mặt... cũng từng hòm, từng thùng, từng kiện lăn xuống.

⚝ ✽ ⚝

[3] Cẩu: chuyển bằng cần trục.

[4] Ngáo: loại móc sắt to của những người làm khuân vác.

Gái đen lại phải cười:

- À... gạo bà tôi đi đong trên chợ Quán Toan.

- Cô nói dối. Gạo tám này ở trong quê cháu. Mùa rét thổi cơm dưới bếp, trên nhà cũng thấy thơm. Chỉ nhà giàu mới được ăn.

Gái đen giật mình:

- Hay chợ Quán Toan người ta đong gạo Nam Định ra? À Ngơ ở làng hay ở phố?

- Cháu chả ở làng, ở tỉnh nào cả... cháu chỉ ở với mẹ cháu, anh cháu.

- Năm nay Ngơ bao nhiêu tuổi?

- Tuổi cháu ấy à? Tuổi? (Ngơ lại nhoẻn cười). Cháu chả biết tuổi là gì cả. Mẹ cháu bảo cháu lên ba thì... thì thầy cháu mất. Thầy cháu lợp nhà khéo lắm. Ai cũng nhờ thầy cháu làm. Thầy cháu ăn cơm uống rượu ở nhà người ta rồi còn đem tiền về nữa.

Gái đen bỗng thấy như kim nhói ở trong lòng. Ngơ không biết cả tuổi mình mà chỉ biết năm mình lên ba thì bố chết. Cảnh nhà chị em Gái đen không như thế nhưng nghĩ ra thì cũng lại gần như thế. Cha Gái đi tù năm nay thế là đã sáu năm. Không kể những ngày bị giam ở Sở mật thám và đề lao Hải Phòng, cha Gái bị đày ra Côn Lôn bao nhiêu năm thì thằng Côn em út Gái bấy nhiêu tuổi. Những ngày nhà có giỗ, tết, mẹ Gái lại ôm thằng em Gái vào lòng, nhắc đến cha Gái và tuổi em Gái.

Cũng dạo này năm xưa, người ta đưa cha Gái đi biệt. Cha Gái làm bên Xi măng. Ông bị bắt cùng với hai người thợ bên ấy và một người ở dưới cầu Niệm làm xe ngựa. Bị bắt vì đi cộng sản. Từ ngày cha Gái bị giam ở Sở mật thám đến lúc ra Côn Lôn, mẹ Gái dắt thằng Cam vào thăm được một lần ở đề lao. Ở Côn Lôn cha Gái gửi về được có hai lần thư. Lá thư cả phong bì và giấy viết chỉ là một mảnh giấy to hơn bàn tay nhưng đóng nào dấu nhà tù, nào dấu các nhà dây thép, chi chít nhòe nhoẹt. Chữ viết chính là chữ cha Gái, nhỏ như con kiến, hỏi thăm cha già, vợ con, dặn dò cứ vui vẻ làm ăn. Hàng nửa năm sau, thêm một lá nữa rồi sau không thấy thư và cũng không có tin tức gì cả. Mẹ Gái đã đi hỏi hết cửa nọ cửa kia, nghe đâu có thầy bói thầy tướng hay và đền phủ nào linh thiêng đều tìm đến. Nhưng chỉ thấy các thầy nói và thánh dạy người nhà vẫn sống, cúng lễ hạn sẽ qua, cha con chồng vợ sẽ đoàn tụ mà không thấy cha Gái gửi gắm gì cho nhà cả.

Cũng cái cảnh mẹ đi biền biệt, phải! Ngày ấy mẹ Gái đương có mang thằng Côn, còn thằng Cam mới lên mười, hai mẹ con cũng cả ngày đưa nhau đi. Mẹ Gái đi hỏi han lo lót cho cha Gái cũng có, đi vay mượn chạy gạo cho nhà cũng có, và đi cũng vì ngồi đứng không yên, ngơ ngẩn như kẻ mất trí. Gái đen và con bé em đã mất cũng vong vóng ở nhà, với người ông mù, cả ngày chỉ bữa cơm bữa cháo...

Gái đen cũng vốc gạo cắn chắt, hỏi Ngơ một câu vu vơ:

- Ngơ có thuộc kinh nhiều không?

- Cháu thuộc nhiều đấy. Nhưng mẹ cháu thuộc nhiều hơn.

Chợt Ngơ nhích lại gần Gái đen, cầm lấy tay Gái, nắn nắn cái ngón tay đeo chiếc nhẫn vàng:

- Cô nhé! Cô đừng nói dối cháu nhé! Cháu hỏi cái này.

Gái đen choàng lấy vai Ngơ, lay lay:

- Ngơ hỏi gì? Hỏi gì nào?

- Cô có xin được cho cháu đi làm không?

Gái đen lại không thể sao giả nhời được. Gái vừa thấy thương, vừa buồn cười. Thì ra con bé này cũng không là dại hẳn, và có người chuyện thì nó cũng bạo dạn, tỉnh táo. Gái đen tủm tỉm cười. Ngơ như quên mất câu mình hỏi, Ngơ quay ra nhìn những lấp lánh của chiếc nhẫn vàng ở tay Gái. Thấy lâu lâu, Ngơ không hỏi thêm về chuyện đi làm nữa, Gái đen bảo Ngơ:

- Tí nữa Ngơ có thổi thì lấy hơn hai bơ gạo mà thổi nhé. Cho vừa nước thôi.

Ngơ gật đầu, cười:

- Hôm nào cô dẫn cháu ra Kho với, cô cho cháu xuống tàu to xem. Rồi cô xin cho cháu đội than. Cháu đội than như bu thằng Eng, như cô Dâng ấy.

- Ngơ mà đội than như bác La, như cô Dâng làm sao được?!

Ngơ nguẩy cái đầu:

- Nghèo đói thì đội tất.

Gái đen nắm chặt lấy bàn tay Ngơ. Gái tự nhủ "Không! Nó lại cũng khôn ra phết, cũng biết như ai đấy chứ!". Những ý nghĩ liên tiếp trong tâm trí Gái. Rồi đây Ngơ có thể làm ăn gì được không? Chả gì cũng là một đời con gái. Cứ phải chịu như thế này mãi à?! Gái đen cau mày lại. Hay những hôm có tàu về, Gái đen sẽ đưa Ngơ ra Sáu Kho, với mấy đứa con gái trong xóm vớ vẩn chõm hàng ở gần cửa kho thuốc bắc, kho gạo, kho sợi. Gái đen hay các mẹ trong xóm có làm được món hàng gì thêm thắt thì luồn cho Ngơ, bán được thì cho Ngơ hẳn một nửa. Nhỡ đội xếp có bắt được, thấy con bé choắt và dở người, mà hàng họ cũng chỉ là một nắm, một mớ dăm bảy hào đồng bạc, thì cũng tha cho. Chẳng may gặp thằng "hắc", nó đưa Ngơ lên lão Bảy mề đay thì lão cũng lại "phút" về thôi! Như thế có ngày Ngơ kiếm được hàng đồng...

Phải đấy! Hôm nào ta nói với bà giáo rồi đưa Ngơ đi làm thử vài chuyến xem sao. Tội gì mà ngồi nhà chịu đói. Không thì cũng đến đâm đầu xuống dưới nhà bà sờ Phọng Bớp ở với những con cái ăn mày ăn nhặt, bồ côi bồ cút, hay sang bên nhà bà mụ Kiến An làm đầy tớ không công cho đến chết, để giữ... đồng trinh mà lên thiên đàng!...

Gái đen giật mình. Mẹ La đã tò mò sang nhà Thanh. Người mẹ khòm khòm như bà cụ còng bảy mươi. Mẹ chống cái đòn gánh bỏ đi của người gánh nước thuê ở đầu ngõ, vừa rún bước, vừa