← Quay lại trang sách

Cơn Bão Đã Đến Chương 2

Càng gió nam trời đất càng mù mịt. Khói ở bốn lò nung và nhà máy điện tỏa ra làm đen kịt, ngập chìm hết các đường, các xóm, các làng ở rìa khu nhà máy Xi măng. Nắng đầu hè chói chang. Khói bốc với nắng càng nghi ngút. Mặt đất và bầu không khí đêm cũng như ngày như là một vạc dầu khổng lồ sôi sục âm ỉ. Bến tàu biển Sáu Kho, bến tàu đường sông và các khu các bãi hơn năm nay mở mang chỉ để chứa nguyên có hàng Mỹ càng nhộn nhịp, huyên náo. Mọi công việc ở đây đều gấp rút vô cùng. Cả ngày, cả đêm, người làm lúc nào cũng như phải chạy, phải đuổi. Những ống khói các tàu lớn cùng với không biết bao nhiêu cột buồm của các thuyền Trà Cổ, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi và không biết bao nhiêu sà lan, boọc cứ chen sít nhau trên mặt sông cửa Cấm, sông Tam Bạc, sông Xi Măng, sông Dế, vây kín thêm các bến của khu Xi măng và của các hãng vận tải, các hãng, các kho, các xưởng máy trong vùng đó.

Ông cụ Vy không làm lò nung và cũng không làm nhà than, nhà điện. Ông cụ làm đá ở ngoài trời, bên một cửa sông trông ra biển khơi bát ngát, mà cũng vẫn thấy ngột ngạt. Ngột ngạt vì nắng, vì khói bụi, vì đá. Những đống đá chuyển vào cho máy hập nghiền nhỏ ra, ngào với đất, với nước thành bùn, rồi nung thành xi măng, những đống đá hàng bốn mươi năm nay chính tay ông cụ đã vứt vào goòng, chở đổ vào máy hập ấy, cứ chồng chất không bao giờ hết cả. Nó cứ như là những thành những lũy ma quỷ hễ vừa bạt đi được quãng này thì quãng khác liền chuyển tới, hễ đống kia vơi đi thì đống khác lại ùn lên. Ông cụ Vy cả ngày và cả đêm nữa đi trên đá, ngồi trên đá, hai tay cứ như máy bốc đá, xếp đá. Đá nhọn, sắc, nóng bỏng. Đá vập vào ống chân, đá kẹp vào ngón tay, vào mu bàn tay. Đá bật, đá bắn vào đầu, vào lưng. Đá thúc vào bụng vào ngực. Đá lún ào ào sầm sập như muốn vùi, muốn lấp các vật ở dưới chân, ở bên cạnh, ở chung quanh. Đá kêu gau gáu, đá xốc ình ình, choang choang trong máng, đá hất đá ném vô tội vạ xuống đường. Đá như những mảnh trái phá, những mũi kim bắn qua đầu, qua mặt, vào đầu vào mặt người ta. Và đá thành bụi thành hơi nóng trộn với bụi xi măng với mạt than trùm lên mọi vật, lách vào tất cả chỗ nào hở, nào trống...

Từ lúc mặt trời mọc đến giờ đây, một phía nhà máy đã ngả dài bóng xuống bãi, xuống đường rồi, ông cụ Vy vẫn ở giữa các đống đá. Kíp ông cụ cũng rục rịch sắp làm mười hai tiếng, cũng phải thay nhau mà làm cả đêm cả ngày, như mọi kíp thợ, kíp cu li của nhà máy. Chỉ trong vòng hai tháng sau khi bên Tây nổ chiến tranh, bọn chủ nhà máy đã thay đổi gần hết các chế độ lao động. Chúng nó bảo cái việc như ban hành luật lệ ngày làm tám tiếng cho thợ thuyền là cả một sự ngu xuẩn của cái chính phủ nhố nhăng Mặt trận bình dân, đã làm cho nền sản xuất và công việc trị an của cả chính quốc Pháp và thuộc địa Đông Dương phải chịu bao nhiêu hậu quả tai hại. Nhất định chúng phải "đánh một cái dấu chấm hết rất đẹp cho cái thời đại kỳ cục ấy!". Bởi vậy, ông cụ Vy, người cu li làm lâu nhất ở Máy đá, lại được làm việc nhiều giờ như thế! Vì ông cụ muốn đi làm ngày tám tiếng như trước, hay nghỉ hẳn cũng được, tùy ý tùy thích... Trái lại, ông cụ muốn kiếm được nhiều tiền hơn thì phải làm việc ngày mười hai tiếng, làm thật nhanh, làm thật nặng, làm luôn chân luôn tay, làm cả ngày chủ nhật, làm khoán, tùy ý, tùy thích!

Nhưng rồi ông cụ xếp đá nọ cũng phải ngồi nghỉ. Ba giờ rồi! Trưa hôm nay ông cụ vẫn chỉ ăn cháo. Bà cụ nấu cháo đỗ đen cho ông cụ ăn với cà bát nén. Một phạng cháo và hai quả cà to, mọi khi ông cụ đánh cứ bay đi, ấy là không kể ba bát cơm vật và một liễn nước rau. Thế mà dạo này cơm đã không ăn, ông cụ lại chỉ ăn có nửa phạng cháo. Thấy một ông già mới vào làm và một bà có chửa người cùng xóm cũng không ăn cơm, có ý muốn ăn cháo, ông cụ Vy đưa luôn cả phạng cháo và bát cà cho hai người. Rồi ông cụ chỉ uống nước cháo xin của một ông già quen, ông này mệt quá cũng bỏ cơm, nấu một nồi to cháo loãng để chắt nước uống như thói quen của nhiều người mỏi mệt khác trong những ngày mùa hè làm ở những chỗ than bụi nhất của nhà máy.

Ông cụ Vy vừa húp cháo vừa quạt. Ông cụ quạt với cái mũ lính to như cái nón tu lờ của nhà sư. Mồ hôi cứ ròng ròng chảy từ đỉnh đầu hói nhẵn xuống cái trán nhăn nhăn mốc như da trăn, và chảy từ mảng ngực vừa dày vừa to ngang, ở giữa lồm xồm một nạm lông, xuống đến bụng ngấn vừa to vừa sệ, đẫm hết cả vai, cả cánh tay, cả bắp đùi ông cụ. Bên cạnh chỗ cụ Vy còn có ba người đàn bà, một người đàn ông đứng tuổi, hai người con gái và hai anh trai gộc. Cả bọn trai gái cũng chỉ ngồi thở sau khi nốc hết gáo nước lã này đến gáo nước lã khác. Bóng rợp che cho họ là bóng của đống đá đằng sau. Cái bóng in xuống chỗ họ ngồi và đống đá thấp ở trước mặt họ làm nổi rõ thêm những lớp bụi hầm hập, ngùn ngụt ở chung quanh họ. Mặt mày, đầu tóc của họ trông càng hốc hác, quần áo trông cũng xạc xờ... Chợt có một bà vùng vằng quạt phành phạch một thôi một hồi, rồi tru tréo lên:

- Nắng ơi là nắng! Mới vào hè mà đã nắng thế này!

Một bà khác cũng như gào lên. Rồi hai người quay lại, lấy nón quạt quạt cho ông cụ Vy, người già nhất và cũng làm lâu nhất ở Máy đá này:

- Bố ơi! Chuyến sau thì bố xếp bớt đi nhé. Bớt đá, nhưng bảo ký vẫn ghi đủ bố ạ. Cha con đẻ nhà nó, nhà nó lại phới ra ngoài kia uống bia, uống nước cam rồi!

- Ai bảo mẹ mày thế?! Nó vẫn chòm chõm ở ngoài

cần cẩu, gậy ông vải nhà nó vẫn còn để chầu bên bàn giấy kia kìa.

Một người đàn bà đẩy goòng đến, vừa nói vừa lấy vạt áo lau mặt và những dòng nước uống vội sớt ra cổ ra yếm. Cả bọn đều nhìn cái ba toong của thằng cai kíp, ré lên cười. Ông cụ Vy vẫn chẳng nói chẳng rằng và như không nghe thấy gì cả. Nét mặt ông cụ càng nặng càng dữ. Anh cháu nhớn của ông cụ cũng đẩy goòng, liền quay lại:

- Các mẹ ơi! Bức sốt thế này mà các mẹ còn cứ đùa được?

Tức thì có tiếng cười bật hẳn lên như ngựa hí như còi rúc:

- Eo mẹo ơi! Anh Vy nhớn nhà tôi dạo này đứng đắn mới ghê! Này cái bé kia, tối nay có cải lương trên Hà Nội về diễn, anh cả đã lấy vé mời bu mời em xem chưa?

Người con gái cùng đẩy xe với Vy lớn đỏ dừ cả mặt, Vy lớn cũng thế. Vy lớn giơ ngay quả đấm:

- Các mẹ có biết cái gì đây không?

Một bà cũng giơ nắm tay, lại còn hà hà hơi:

- Thằng cu ngẩu cũng liệu cái thần hồn. Cái bé kia gọi chúng tao bằng bá, bằng dì đấy. Bu nó giao phó hẳn nó cho chúng tao đấy.

Cả bãi đá cười rúc lên.

- Thôi thôi... cả Tây xếp và cai đã về kia kìa! - Mọi người bảo nhau bổ choàng xuống đường. Đá đổ, đá sụt theo họ ầm ầm. Duy ông cụ Vy cứ ngồi. Ông uống hết bát nước cháo từ lâu, tay vẫn cầm cái bát không. Khi mọi người kêu lên bỏ chạy, ông cụ đặt cái bát xuống đống đá, xòe bàn tay vuốt từ trán xuống cằm, đoạn ngón tay cái và ngón tay trỏ lại gang ra day day hai thái dương.

- Chậc chậc chậc...

Ông cụ rít lên khe khẽ. Dưới đường mấy người đàn bà càng giục:

- Bố ơi là bố! Tây xếp đến kia kìa! Giời ơi!...

Ông cụ Vy vẫn ngồi im, mắt trân trân nhìn. Ở đầu đường goòng Vy lớn thầm kêu:

- Giời ơi... ông!

*

Tây xếp và cai không ra Máy đá, lại vào nhà giấy uống bia với nhau. Ông cụ Vy đã đứng dậy, lửng thửng xuống đường. Goòng của Vy lớn lại xếp đầy đá. Trong khi chờ những goòng đến trước đổ đá cho băng cuốn vào máy, Vy lớn lại đứng dưới chân một đống đá cho đỡ nắng, và vẫn theo dõi người ông. Tuy cố trông, nhưng qua những lớp bụi đá, bụi xi măng và nắng chiều ngùn ngụt, Vy lớn chỉ thấy lờ mờ nét mặt, hình thù cùng những cử động của ông mình. Rồi giây phút sau, đám xe goòng và người làm đá qua lại dồn dập thêm, ông cụ liền khuất hẳn giữa những đống đá chói chang, bụi mù, thì Vy lớn chỉ còn thấy ông Vy trong trí nghĩ.

Nửa năm rồi, ông Vy càng bần thần, nhưng lắm lúc lại có những cử chỉ, đột nhiên như vừa đây. Và thế là đã gần hai năm, từ cái đêm cả hai làng Đình Hạ, Chiêu Thương của hầu hết những người làm ở nhà máy Xi măng bị cháy, tính nết ông Vy bỗng khác lạ hẳn đi. Người bảo vì ông cụ tiếc nhà tiếc cửa, vì cháu ông cụ chết. Người bảo vì ông cụ đã vác chạy hai cây cột gỗ lim quá sức, lại còn bị cả cái nhà đương cháy đổ xuống người nên ông cụ bị động óc. Người bảo cứ ai làm lâu ở cái nhà máy Xi măng về già hay mất trí như thế. Rồi gần đây, bác Vy làm ở lò nung bị đuổi, bác phải bỏ nhà ra Uông Bí xin việc làm,... rồi bên Tây đánh nhau, người em bác Vy bị bắt lính sang bên ấy không còn thư từ giấy má gì về cho nhà nữa, thì ông cụ Vy lại càng lẩn thẩn. Giá cảnh bác Vy không neo bấn, để ông cụ ở nhà mà thuốc thang, không thuốc bắc thuốc tây thì thuốc lá, và tìm những thức mát cho ông cụ ăn uống, là ông cụ đỡ thôi. Nếu không cứ còn đi làm, chỉ vài vụ nắng nữa, ông cụ bị nặng thêm, sẽ khó khăn lắm!....

- Chao ôi, cái ông cụ lành như đất, hiền như bụt mà rất vui tính vui nết, vậy mà giờ như thế đấy!

Không phải chỉ ở Máy đá mà cả nhà máy Xi măng, bà con thân thuộc nào cũng ai tâm vì bệnh nạn và tình cảnh của cụ Vy. Càng về già, ông cụ càng được mọi người mến. Làm kíp với ông cụ, không cô nào, bà nào không tranh nhau đi xe với ông cụ. Ông cụ bốc đá vừa nhanh, xếp đá vừa gọn, khi người ta nghỉ ông cụ vẫn làm, và làm việc gì khó việc gì nặng, ông cụ đều lẳng lặng làm cả. Từ việc đi chọn xe, lấy xe, cho đến chuyển xe, dỡ đá lúc bị cặm, ông cụ thường làm một mình, ai đùn việc, né việc ông cụ cũng chẳng nói chẳng rằng. Đến bữa ăn không hôm nào không có người quấy ông cụ. Bà này xin nước dưa, nước rau luộc. Thằng kia xin cá mặn, xin cà. Đứa "bố ơi bố!", đứa "ông ơi ông!", "bố bớt cho con một bát nào!", "ông ơi ông, cho cháu boóng sẩu mấy miếng cơm nắm, bát cháo của ông nào".

Bọn trai gái và các mẹ càng hay trêu ông cụ Vy.

- Ông ơi ông! Cái con bé này hư lắm. Sáng nó đi làm nó chỉ dám ăn quà những một trinh bắp rang. Cuối năm nay nó lại lấy bát họ cũng được có hơn trăm bạc thôi, đã thế nó lại còn giấu giếm sắm sửa đủ cả hoa tai bộ cánh để sẵn trong hòm đấy. Ông bảo bà con đưa ngay trầu cau đến nhà nó xin nó về để làm... chị thằng ngẩu Vy thì xin đi...

- Bố ơi! Con có người dì ruột năm nay mới có năm mươi tuổi và mới góa có ba lần chồng, làm việc nhà quê thì khỏe như trâu, bố đương cần người đỡ chân đỡ tay cho u con ở nhà, để con nói với dì con cho bố. Dì con nghe đồn chỉ mê cái nết ăn nết ở của bố và chỉ chuốc cái nốt ruồi nổi quý tướng ở mép rốn bố. Công việc mà xong con chỉ xin bố cho chúng con một chầu phở nạm và cà phê túi ở hàng Gầm Cầu cổng sở thôi!

Ông Vy lông mày dựng ngược, thở như Trương Phi, mắm môi mắm lợi sấn đến túm cẳng người nọ. Dù người ấy cao lớn, nặng, khỏe đến đâu, ông cụ cũng nhấc bổng lên, dộng đầu xuống đất một cách rất nhẹ, rất gọn làm người ấy vừa kêu thất thanh, vừa lạy, vừa cười. Cả mọi người chung quanh cũng cười, còn ông Vy lại trở về chỗ cũ, phì phèo cái điếu tẩu hút thuốc lá, gương mặt càng lành như đất, hiền như bụt.

- Để ông ta ở nhà nghỉ, uống thuốc và ăn uống những thứ mát, chỉ ít lâu là ông ta lại như trước. Đúng đấy! Nhưng chỉ đúng có một phần mười thôi! Cốt nhất phải làm sao...

Vy lớn tự nhủ, lại nghĩ đến cái nhà cũ và tình cảnh gia đình. Sau vụ cháy năm kia, bố con ông cháu Vy lại phải làm nhà. Nhà, kèo cột bằng các thứ ván, thứ gỗ, bằng cả sắt xà gồ, cột buồm gẫy. Mái lợp, nào lá gồi, đánh tranh, phủ bao tải, phủ giấy bao xi măng. Trước kia nhà Vy đã bị sở lấy đất dồn đuổi từ trong làng ra đầm than, vậy mà khi vừa bị cháy, nhóm rau nhóm bếp dựng lại xong, lại được lệnh thành phố lấy đất. Giữa lúc ấy cha Vy mất việc. Ra ngoài mỏ than Vàng Danh làm, cuối năm ngoái cha Vy còn năng thư từ, nhưng từ đầu năm tới giờ cha Vy chỉ có nhắn người quen về hỏi thăm nhà và gửi được có ba mươi đồng bạc đỡ bố mẹ già nuôi các cháu nhỏ. Thằng em út Vy bị chết cháy như thế cũng sắp giỗ hai năm. Cái thằng nọ sao mà bén ông thế. Từ cái lông mày, cái trán, cái miệng, đến cái ngực, cái lưng, cái dáng đi huỳnh huỵch, cái giọng nói ồm ồm, đến cả cái ăn, cái ngáy ngủ. Ông Vy quý nó nhất nhà. Ông Vy đã cai sữa cho nó. Cứ đến bữa cơm, có ông ở nhà là nó ngồi chầu bên ông. Ông xắn thịt, bẻ đậu phụ, gỡ cá kho, cá rán, khêu ốc, xé cua... cái gì ông ăn ông cũng cho nó. Hôm nhà cháy, ông Vy đã vác được hai cây cột lim ra bờ sông, đầu tóc mặt mày cháy sém, lại còn đi tìm bà Vy, mẹ Vy, các em Vy không biết chạy đi đâu. Mãi sau nghe nói có bọn đàn bà trẻ con nhà ai đương khóc ở ngõ trong, gần cổng sau nhà máy kia kìa, ông Vy liền bổ vào thì thấy mẹ Vy đương ôm thằng em Vy thái dương máu chảy ròng ròng.

- Phải làm sao cho ông ta lại có mấy gian nhà hẳn hoi, cha ta lại về Hải Phòng làm nhà cửa lại, luôn luôn khách khứa vui vẻ, hay có phép gì làm thằng em ta sống lại...

Câu nói này đương thầm thì trong tâm trí Vy lớn, một câu nói khác bỗng cắt ngang:

- Nhưng nếu cuộc sống và cái xã hội này không biến đổi và biến đổi từ gốc, thì cả ông mày, cả cha con anh em nhà mày cùng với mọi người nghèo khổ bán sức lao động khác cũng vẫn chỉ kéo dài cuộc đời làm thân nô lệ tối tăm cùng kiệt thôi!

Vy lớn lặng hẳn đi. Vy lớn lại phải nghĩ lan man sang nhiều chuyện khác. Vy lớn lại phải nhớ đến nhà ông cụ năm xưa chạy đói nhà quê, dắt cháu ra tỉnh kiếm việc không được rồi chết ở Máy đá. Ông cụ người còn già hơn ông Vy, gày gò khẳng khiu, móm lép cả miệng, da khô róc đen như than. Ông cụ chết ngồi, mặt gục xuống đầu gối, hai tay ôm lấy như cố giấu mặt đi, cố giữ cho mình được ngồi khuất như thế mà chết. Hôm ấy hai mươi tám Tết, cả trong làng và các nhà đò, tiếng lợn đã kêu eeng eéc. Trời rét, Vy lớn đi đưa cơm cho bố, cho ông. Mẹ Vy lấy cái áo dạ màu cứt ngựa nặng như cái chăn bông đụp của ông Vy khoác cho Vy lùng thùng gần quét đất. Áo này lúc nào về tầm ông Vy sẽ mặc. Mẹ Vy còn quấn cả đầu cả cổ cho Vy cái khăn bông làm tã cho em. Vy cứ nghển mãi người, lắc đầu, đẩy tay mẹ đi, nhưng vẫn cứ phải mặc áo quấn khăn. Ông cụ nọ chết chỉ đóng khố, mặc cái xác tải bao gạo cắt một lỗ để chui lọt cổ, tay cụt, khâu bằng đay, ngồi thom thỏm giữa đống đá ngoài bờ sông.

Không hiểu ông cụ có bà con nào ở đây không? Ông cụ chết từ bao giờ, chết vì ốm hay vì làm sao?

Người ta đã bàn tán nhiều chuyện với nhau về ông cụ nọ. Mỗi người một cách, mỗi người một ý, rồi quy kết thành nhiều điều mà ai nghe cũng thấy đúng, cũng thấy có lý, nhất là cũng thấy thương xót ai oán. Duy có cha Vy không nói gì cả. Vy thấy hình như cha Vy không nghĩ, không đoán như những người chung quanh. Vy đã băn khoăn vì sự lặng lẽ đặc biệt của cha, và không hiểu cha Vy nghĩ ngợi thế nào. Dần dà câu chuyện của ông cụ chết ngồi giữa đống đá mọi người cũng quên đi. Nhưng, một hôm cha Vy có hai người bạn ở bên phố sang, Vy thấy cha Vy vừa kể vừa tả lại cái chết của ông cụ làm Vy ngạc nhiên vô cùng. Vy thấy, cứ theo từng nhời, từng câu của cha Vy, ông cụ nọ lại hiện lên y như lúc Vy gửi quang liễn cơm canh của ông của cha cố lách đám đông để vào xem.

- Ông cụ bị chúng nó giết đấy! Chính là ông cụ bị chúng nó giết đấy!

Cha Vy kêu hẳn lên, ư ứ ưng ức nói với hai người bạn như thế. Vy kinh ngạc hết sức.

Sao? Làm sao? Ông cụ chết ngồi ở đống đá bị giết à? Ông cụ bị giết thế nào? Ai giết ông cụ? Chúng nó là ai? Làm sao cha Vy lại biết mà nói quả quyết như thế?!

Mấy năm sau Vy lớn lại nhớ, lại tưởng tượng, lại nghĩ và còn đi xa hơn:

"Ông cụ chết ở đống đá là bị giết. Quả thật ông cụ bị giết thì những đứa giết người kia có bị bắt đền tội không? Nhưng liệu cha Vy có đoán đúng, biết đúng không? Mà những kẻ giết người kia, giết cả một ông cụ gày còm, đói rét như thế chắc phải hung ác lắm? Chúng nó làm những công việc như thế có bè có cánh không? Những ai động chạm vọc vạch công việc chúng nó ra liệu có nguy hiểm không?"

Bao nhiêu lần Vy lớn định hỏi cha và cũng định hỏi một vài người quen thân của cha nhưng không dám. Tính Vy lớn rụt rè, cha Vy lại lầm lì ít chuyện, ít đùa không như ông Vy. Bẵng đi, một hôm cha Vy bỗng hỏi Vy:

- Con nhỉ, có phải chỗ đống đá ông cụ ngồi chết giờ xây một bệ cột đèn, cái bệ ấy to nhất để lắp hòm điện nặng phải không?

Vy lớn không kịp nghĩ ngợi gì cả, hồi hộp một cách lạ, vội đáp:

- Đúng chỗ ấy đấy, bố ạ. Ông cụ chết như thế đến tám, chín năm rồi bố nhỉ?

Cha Vy vẫn giữ cái vẻ mặt lặng lẽ, ngậm ngùi, da diết như trong mọi công việc, mọi câu chuyện đặc biệt của mình:

- Không!... Ông cụ vẫn chỉ mới chết hôm qua, hôm kia thôi! Chúng nó xây cái bệ cột đèn và chuyển cái bãi đỗ thuyền đá ấy ra chỗ khác để làm phi tang chứng tội ác của chúng nó đi, nhưng không được đâu!

Cha Vy nói như không phải chỉ nói với một mình Vy nghe mà còn để nói với những người thân thiết của ông cụ chết và với cả các người hiền lành chân thật, kín đáo ở chung quanh nghe nữa:

- Chúng nó đã giết người, một người vô sản đói rét của ta! Tất cả bọn bóc lột, thống trị, giàu sang quyền quý, tất cả cái chế độ này là những kẻ giết người, là tổ chức giết người. Chuyến này chúng nó gây chiến tranh thế là cuộc giết người của chúng nó diễn ra công khai, và chúng nó càng bóc lột quần chúng lao động, quần chúng lao động càng đói rét, đau khổ vô cùng...

Trong khi Vy lớn đương cố sức tìm hiểu cái chết của ông cụ chết ngồi ở đống đá, nhất là các việc từ ngày quân Đức nổ chiến tranh, thì được nghe cha Vy nói những câu kia giờ đây nó lại càng rành rọt từng lời một trong tâm trí Vy lớn.

- Vy lớn ơi Vy lớn! Mày làm thêm bao nhiêu xe đá nữa rồi?

- Kỳ tiền này mày có sang phố may áo không đấy?

- Vy lớn ơi! Có đi xem đá bóng thì đi chứ đừng đi chợ phiên nhé. Lại mấy cái con đĩ non ấy chúng nó ra ưỡn ẹo múa hát đấy thôi. Những một đồng vé vào cửa, mất của bố nó gần hai ngày công!

- Thằng gì trong xóm mày ấy phải bán cả xe đạp vì tài sửu (1)vì chợ phiên rồi phải không?

⚝ ✽ ⚝

[1] Tài sửu: đánh bạc một mặt chẵn, một mặt lẻ.

- Rạp Côlibờri lại chiếu phim chiến tranh. Phim mới nghe nói đánh nhau hắc lắm, quay sốt sột ngay tận mặt trận và gửi sang bằng máy bay...

- Ở Côlibờri à, vé hạng bét cũng những một đồng, đắt bỏ cha đi ấy.

- Vy lớn ơi! Thế nào chủ nhật này mày cũng rủ tao đi bơi. Bơi ở sông Cầu Rào cho khoái.

Những xe goòng rầm rập qua lại. Vẫn xếp đá, bốc đá và nghe anh em tíu tít gọi hỏi mình, Vy lớn chưa dứt được những ý nghĩ về đời sống của gia đình, lại phải bắt sang những ý nghĩ về tình hình hiện nay do những câu nói của cha Vy làm Vy thêm bồn chồn da diết. Đức nổ chiến tranh đã hơn nửa năm. Quân Đức đương đánh rất dữ dội Bỉ và Hà Lan. Cả Anh và Pháp đều phải chuyển những tướng giỏi tiếng tăm lừng lẫy và những đạo quân lớn để giữ các mặt trận xung yếu. Theo tin các báo chí, thì những pháo đài, những phòng tuyến đặc biệt của Pháp đương chuẩn bị ráo riết để chống đỡ những cuộc tràn đánh của quân Đức sẽ còn khủng khiếp gấp mười, khủng khiếp không lường ước tưởng tượng được. Như thế liệu Anh và Pháp có tiến công lại được Đức không? Như thế ở bên Viễn Đông liệu cuộc xâm lược của đế quốc quân phiệt Nhật Bản có mở rộng thêm nữa không? Nghĩa là quân Nhật sẽ đánh Pháp ở Đông Dương. Quân Nhật rất mạnh đã chiếm không biết bao nhiêu đất, bao nhiêu tỉnh của nước Tàu rồi! Quân Pháp sẽ đối phó thế nào? Đế quốc thực dân Pháp ở Đông Dương sẽ đối phó với đế quốc quân phiệt Nhật như thế nào?

Vy lớn mím mím môi, thở mạnh một tiếng. Đây này, đế quốc thực dân Pháp ở Đông Dương đương chuẩn bị đối phó trước tình hình chiến tranh như thế này đây: Hải Phòng của Vy vẫn tuyên bố phòng thủ thụ động rất vững, rất hiệu nghiệm. Đèn thành phố lại bớt bóng, đèn đường chỉ còn bóng hai mươi nhăm nến. Các phố, các xóm lao động càng tối tăm. Lệnh bắt lính sang Tây, bắt phu đi làm trường bay càng ngặt. Thợ thuyền ở nhà máy đi về luôn luôn bị giữ lại ở giữa đường khám xét. Nhà cửa, xóm lán luôn luôn bị lục lọi. Cứ mấy ngày cam nhông mật thám lại sục về tận ngõ bắt người đi, và người bị đánh ngay trên xe. Càng về khuya càng hay bắt người, chẳng để người đi làm về kịp ăn uống, thay quần áo. Cái gì cũng cấm. Cấm hội họp. Cấm đọc báo nghe chung. Cấm cả chuyện với nhau trong nhà máy về tình hình thế giới, về đời sống, về giá sinh hoạt. Khám ngặt nhất, cấm ngặt nhất, canh gác theo dõi cũng ngặt nhất, là ở mấy khu Xi măng, Máy tơ, Máy chỉ, Cốt phát. Từ ngày cha Vy bị đuổi, phải ra mỏ Vàng Danh kiếm việc, nhà Vy mới thôi không bị khám, không thấy súdoóc (2), bé con canh gác nữa...

⚝ ✽ ⚝

[2] Phụ mật thám.

Thống trị thì "đối phó" như thế; còn tư bản: Luật làm ngày tám tiếng sắp bãi bỏ hết. Hơn tháng nay lương và các giá làm khoán không những không được tăng lên với sức làm việc và sức ăn uống may mặc của thợ thuyền mà còn bị rút xuống. Cảnh làm ăn ở nhà máy càng vất vả lam lũ. Lại đánh đập, lại cúp phạt. Đàn bà có mang cũng bị đánh. Hé răng kêu, cất tay đỡ, là bị đuổi liền. Bọn chân tay người nhà của cai xếp của mật thám lại nhoi lên như dòi.

Chiếc goòng bỗng đứng lại đánh ình, đá đổ choang choang rào rào. Lại cặm rồi! Vy lớn choàng người nhảy ra khỏi đường sắt. Hai người đàn bà đẩy xe sau, một bà người Tàu, quần áo cũng rách bươm, mặt mày lấm bê lấm bết, vội vàng kéo giật goòng đá của mình lại, và cũng nhảy vội ra hai bên. Bà người Tàu giơ cánh tay áo gạt mồ hôi trán, thấm thấm chùi chùi ở thái dương, ở má:

- Hầy ồ! Còn những cái xe này thì còn khổ lớ!

Vy lớn đương quay lại nhìn bà Tàu người ở cạnh nhà Vy, chợt có tiếng cười ré lên. Một bà dừng xe đá gọi Vy:

- Vy lớn ơi! Bà trẻ mày lại mang nước chè tươi ra cho ông mày kia kìa.

Đó là bà quét nhà giấy đã đứng tuổi, có con gái bé cũng đi xe với Vy, xách cái ấm nước to mới đi nấu về cho các thầy ký.

Vy lớn đỏ rửng cả mặt nhưng cứ phải đến lấy một ống nước cho ông. Cô con bà nọ vẫn một mình đẩy cái goòng bị cặm vào lại đường sắt. Vy lớn hai tay bưng ống nước đưa cho ông. Ông cụ Vy hừng hực uống hết ống nước. Vy hỏi ông có uống nữa không, ông cụ chỉ lắc đầu, giơ cánh tay bết mồ hôi và bụi gạt những giọt nước sớt ra mép ra râu, lừ lừ nhìn cháu.

- "Phải làm sao bố ta lại có việc làm về ở Hải Phòng hoạt động, sống với ông ta và anh em ta mới được! Cũng phải làm sao mấy người bạn thân của bố ta thỉnh thoảng lại đến nhà ta để nói cho ta nghe thêm nhiều điều khác nữa. Và trước tình hình này, cả mấy thằng bạn thân của ta ở Máy đá ở Lò nung phải cùng nhau giữ ý giữ tứ, đừng tếu như hồi kỳ trước! Nhất là không được đua đòi, dây dính gì với bọn con cháu người nhà bọn chó ở trong xóm, ở nhà máy. Sách báo, tài liệu nhận được thì phải bảo vệ rất cẩn thận, hết sức bí mật. Càng ngày mới càng thấy quý! Thật là quý!..."

Vy lớn đưa cái mũ của mình cho ông đội, trở về chỗ goòng bị cặm, bẩy xe vào đường sắt cho bà Tàu hàng xóm xong, vừa đi vừa tự nhủ, tâm trí càng nao nức.

*

Về tầm, Vy lớn xách cái quang liễn bát đĩa đi liền với ông. Cụ Vy vẫn mình trần, quần đùi khâu bằng thứ vải bạt dày như mo nang ống thấp ống cao, tay cầm mũ, tay vắt bộ quần áo rách, chân đất, đi giữa bọn bà con anh em làm đá. Đã sáu giờ. Còn nắng. Những đám mây trắng đằng xa vẫn rực lên, bay tản ra lấp lóa trên nền trời xanh. Nhưng đã có gió mát. Ngoài bến tàu to Sáu Kho, cửa sông Tam Bạc, cửa sông Xi Măng thuyền lên buồm san sát ra khơi. Từ đường Bônbe qua Cầu Đất, những ô tô ra vội Đồ Sơn nổi còi như thét như xé, tung hết lớp bụi này đến lớp bụi khác. Tất cả những ôten, hàng bán rượu, giải khát đều sáng trưng, mở hết quạt trần, quạt bàn. Có những phòng ăn rộng như đình làng chỉ có mỗi một khách ăn cũng bật tất cả đèn, chạy tất cả quạt trần, chầu chực hàng chục bồi bàn, toàn trai gái đẹp, quần áo trắng, nước hoa sực nức. Ở phố Cầu Đất và phố LaCôm toàn những hàng tạp hóa và may mặc sang nhất, cả hai khách sạn Thượng Hải và Tân Á, đều tấp nập khách ăn uống, trước cửa, ô tô, xe kéo, các hàng vặt họp như bến chợ. Bồi bàn ở hai khách sạn này phần đông là những con gái từ Hồng Kông, Thượng Hải mới sang. Trông còn đẹp, còn sang và còn lịch sự hơn cả những tiểu thư con nhà buôn bán giàu có, hay những đào hát nổi tiếng của thành phố. Toàn áo chít nách hở đùi, cánh tay trần, tóc uốn điện. Những chuỗi hạt, dây chuyền và những cặp tóc, trâm cài tóc không hiểu bằng vàng, ngọc, kim cương hay thứ đá gì mà cứ ngời ngời lấp lánh đầy cả tóc, tai, ngực, cổ, gáy. Tiếng hát đã dập dìu ở các tầng gác. Tiếng đàn tam thập lục và tiếng hát nũng nịu lả lướt điểm theo tiếng sênh, tiếng phách và tiếng bài sừng xô xát.

Có một khách sạn không sang nhưng đông và ầm ĩ khác hẳn. Đó là ôten Y Lan đặc biệt của lính Tây, của các me Tây, các gái nhảy. Bốn gian liền, mỗi gian từ sáu đến tám bàn, đều có khách. Bàn, hai tẩy một me Tây. Bàn ba tẩy, một gái nhảy. Bàn có me Tây và gái nhảy vẫn cặp tóc, trông người chỉ mười lăm mười sáu tuổi nhưng hết sức câng câng trơ trẽn và nanh ác. Ôten Y Lan chỉ mở kèn hát. Những nhịp kèn còn ồn ào thúc giục hơn cả kèn trống ra trận. Lê dương, pháo thủ, lính thủy, Tây trắng, Tây đen tất cả đều uống nhiều hơn ăn. Toàn rượu nặng. Ở những bàn đánh bi a và xúc xắc cá ngựa, tiếng kêu, hét, gắt, chửi, cãi cọ, reo cười mở rượu, đập bàn, xô ghế, hôn hít, giằng kéo... nhiều lúc không còn thể phân biệt được.

Kín tiếng là giúp nước...

Ở tất cả những bàn uống rượu và chỗ đánh bi a đánh xúc xắc cá ngựa, đều có những bình nhổ, những lọ hoa, những thùng rác kẻ những dòng chữ trên đây và vẽ các kiểu mặt của Hítle với dúm tóc cun cút phẩy bên trán, núm ria con đỉa quệt trên mồm, và cái mồm thì bặm lại gân guốc, hai tai vểnh như hai tai chó béc giê. Ba bức tranh in màu, nền cờ tam tài phất phới trên những họng súng đại bác, lưỡi lê, có hình nước Pháp, có hình bà đầm xòe và cả hình xứ Đông Dương, dán ở quầy bàn rượu nhận tiền, ở chỗ hòm kèn hát và ở cửa ra vào, cổ động cho sự hùng cường của đế quốc Đại Pháp, sự giỏi giang của quân lính Đại Pháp và sự thịnh vượng yên vui của xứ thuộc địa bảo hộ.

Trước cửa ôten Y Lan không có ô tô, nhưng xe tay, các hàng thuốc lá, hàng tranh ảnh và các đám ăn mày, trẻ con kiếm chác lại đông hơn ở trước hai khách sạn Thượng Hải và Tân Á. Đèn trong nhà không lắp chao phòng thủ, cứ sáng trưng, sáng chói ra cả ngoài hè.

Ông cháu Vy lớn đi trong đám người làm nhà máy về tầm qua quãng đường nọ. Cũng như họ, ông cháu Vy lớn luôn luôn phải men vào sát bờ đường để nhường lối phóng cho các xe ô tô hòm đi nghỉ mát Đồ Sơn và những cam nhông Mỹ chở khí giới hàng hóa bán cho Tưởng Giới Thạch. Cứ mỗi lần các xe ô tô nọ vút qua, mùi thuốc lá Ănglê, mùi nước hoa phấn sáp, mùi kẹo bánh lại sực lên. Đèn phố đã bật. Hai ông cháu Vy lớn càng phải rảo bước, càng phải chen chúc, càng phải luôn luôn tránh các xe cộ qua lại. Trong chiếc chụp vỏ ngoài sơn đen, lòng chụp khuýp hẳn lại chỉ để rọi xuống mặt đường một khoảng tròn bằng cái đĩa, ánh sáng điện càng bị vẩn đục vì bóng chiều. Phố xá càng mờ mịt thêm vì khói. Khói của các lò, các ống khói nhà máy, các tàu to.

Sắp đến hàng bán lòng gà, lòng vịt và đầu gà đầu vịt quay cho các người lam lũ về tầm chiều muộn, Vy lớn đương hí húi buộc lại chiếc giày bị người đi sau giẫm phải gót làm tụt đứt cả dây, và đương nhớn nhác định gọi ông Vy, thì có tiếng chuông xe đạp bấm loạn lên, rồi một cái xe đạp bóng loáng sạt qua mặt Vy nếu Vy không né nhanh đến mất mặt. Vy lớn ngẩng lên, cau mày nhìn, khẽ kêu:

- Thằng La! Cái thằng nhóc ở nhà thằng Đờvanhxy Tây Xia. Hôm nay nó lại càng diện.

Thằng La mặc áo sơ mi dệt, cổ bẻ, như vừa lấy ở hộp ra, quần soóc đũi, xăng đan da láng, đi cái xe cuốc mới tinh. Không như mọi khi hễ thằng La gặp Vy lớn thì cười reo lên, tíu tít hỏi thăm thằng Vy em. Lần này thằng La cũng reo, nhưng tiếng reo lào thào lạ quá:

- Anh Vy lớn ơi! Hự hự...

- Mày lại phóng xe đi đâu thế?

La mếu máo nhìn Vy lớn, giọng nói như không cất lên được:

- Anh Vy lớn ơi! Người ta bảo bu em chết rồi hay làm sao ấy!

Vy lớn mắt dịu hẳn lại, nhìn La:

- Làm sao hở La?

- Em gửi cả thư commăngđê (3)lên trên đề lao cho bu em! Chờ hàng tháng rồi cũng không thấy tin tức gì cả. Có người bảo bu em chết rồi! Anh ơi! Hự hự...

Vy lớn vẫn giữ vẻ bình tĩnh:

- Thế La đi đâu bây giờ?

- Em đi mua tương ớt vội về cho cô Dậu ăn cơm với thằng Tây Xia. Chiều mai thì em sang bên ông, anh bảo thằng Vytem (4)chờ em ở nhà chứ đừng đi xem đá bóng anh nhá. Ông mai có nghỉ không?

⚝ ✽ ⚝

[3] Thư bảo đảm.

[4] Vy em.

Vy lớn gật đầu, xoa xoa tóc thằng La, bảo mai cứ sang chơi và nói cho nghe kỹ các tin tức về bu nó.

- Ông ơi! Ông!

Vy lớn chạy theo gọi ông. Hình như ông cụ không nghe thấy cả tiếng cháu, khi Vy đến ngay sau lưng ông:

- Ông về trước tắm xong chờ con về hãy ăn cơm. Nếu hàng lòng gà ở chợ Ba Ty hết thì con sang ngõ Hàng Cháo mua mấy lạng thịt quay. Chiều nay thứ bảy, hàng chú Voòng em bà Coóng ở cạnh nhà ta ấy, có cả lộ mị (5), con mua về ông uống rượu với cụ Coóng thì uống.

⚝ ✽ ⚝

[5] Lộ mị: thịt nhồi chân giò, tim gan dạ dày rán.

Không hiểu ông cụ còn mải nghĩ gì mà vẫn chỉ ngơ ngác nhìn Vy mãi sau mới gật đầu một cái. Vy lớn dặn ông lần nữa, đoạn đi vội sang bên kia đường. Thằng La đạp xe chồm chồm, bấm chuông loạn lên, đã vèo ra đầu phố. Vy lớn nhìn theo thằng bé bạn thân của em Vy, mắt nhíu nhíu, thở mạnh một cái.

- Nhà mẹ La chết rồi! Mẹ nó chết rồi! Mẹ nó mà là một kẻ giết người đấy! Con con mẹ giết chồng đấy?!

*

Lúc thằng La đến rủ thằng Vy em đi xem đá bóng, Vy em đương đẩy xe ba gác ra ngõ với ông. Hai ông cháu lại sang nhà máy Xi măng làm chuyến than xỉ và gạch pa panh vụn nữa. Mặc dầu ông cụ Vy đã bảo cháu để mình ông cụ làm thôi, nhưng thằng Vy em không nghe. Thằng La thì xui thằng Vy em đừng đi xem đá bóng, rồi cởi áo sơ mi, cởi quần soóc ra, mặc mỗi cái quần đùi vải đen, cùng thằng Vy em đẩy xe cho ông cụ. Nghe anh về tầm kể chuyện gặp thằng La chiều qua, giờ lại thấy bạn mò sang và cứ nhất định làm giúp mình, thằng Vy em càng thấy thương bạn, càng cố tìm những chuyện vui nói với bạn. Hai đứa cứ ríu ra ríu rít như chim. Xe vừa chuyển bánh được một quãng ngắn, La đưa ngay gói kẹo sữa, kẹo chanh và bánh hạnh nhân, bánh dừa cho Vy em. Vy em đựng kẹo bánh vào cái mũ nồi vải xanh chàm. Thằng này sợ ông không chịu ăn quà ngoài đường, nó bóc ba cái kẹo chanh và hai cái kẹo sữa luôn một lúc, rồi chạy lên đằng bò và dúi dúi vào tay ông bốn cái, còn một cái bỏ vào miệng ông bắt ông ăn ngay. Ông cụ càng nghển mặt lên, xua tay, thằng cháu càng níu xe lại, bỏ thêm cái kẹo nữa vào miệng ông. Thằng La ở đằng sau lay lay thùng xe khẩn khoản:

- Ông ăn kẹo với hai thằng ông ơi! Kẹo dưới tàu Ănglê đấy ông ạ. Ông ăn kẹo rồi chốc nữa nghỉ uống nước ăn bánh. Phần bà, phần bác gái một gói to đây này. Ông ăn đi ông ạ...

Thấy ông vừa đi vừa cũng nhai kẹo phúng phính, thằng Vy em càng khoái. Nó lừa lừa nhảy tót lên xe bảo ông:

- Đến cầu sông Xi Măng thì cháu xuống ông nhé. Ông cho cháu lái xe Pho Vêhuýt của ông một quãng. quay lại Vy em bảo La: - Xe Pho của ông cháu tao còn nhanh, còn khỏe, còn êm hơn cả xe Pho của thằng Tây Xia nhà mày và xe Lanhcôn nhà Thy San cai thầu hành tỏi, rau diếp, gà vịt cho các hãng tàu ở ngoài Sáu Kho, cu La nhỉ? Có gì hết Tết, sang năm hay sang năm nữa, tao với mày cố xin xuống làm quýt dưới tàu hay học việc ở xưởng ô tô Con ngựa, rồi hai thằng cùng vào Sài Gòn hay sang Tây làm mạch lô, hay đi lái xe với nhau...

Ông cụ Vy nheo nheo mắt như cười, xòe bàn tay vuốt chụm lại một cái cả bộ râu ria lởm chởm xồm xoàm và ăn thêm cái kẹo nữa. Cặp mắt quăng quắc của ông cụ liếc lại đằng sau, tay ông cụ nổi gân hơn, giữ càng xe cho cháu tha hồ nhún nhổm cười đùa với bạn.

Cùng đường với bọn ông cháu cụ Vy cũng có hai cái xe ba gác sang nhà máy Xi măng lấy than xỉ và gạch pa panh vỡ. Nhưng họ chuyên lấy về để bán cho người ta mỗi xe một hào. Còn ông cháu cụ Vy lấy để dùng. Trong trận cháy năm kia, xóm cụ Vy cháy tàn cháy hại, không còn được nóc nhà nào. Mọi người đương cố đùm dúm lên cho có được một chỗ chui ra rúc vào, thì năm ngoái trên sở Đốc lý sức giấy báo có lệnh mở mang thành phố. Thành phố lấy lại chỗ đất đó sẽ bồi thường tiền cho. Dân xóm chưa kịp tìm đất tìm nhà đã hết hạn. Lúc ký giấy lĩnh tiền, người năm chục, người một trăm, họ còn hứa sẽ được xét và sẽ còn được những khoản tiền bồi thường làm nhà và tiền di chuyển. Họ cứ yên trí. Nếu đoàn Ánh Sáng được phép dựng xóm nhà Ánh Sáng kiểu mẫu cho bà con lao động Hải Phòng, thành phố sẽ đặc ân xếp cho họ ở cái xóm "xã hội" đó!

Mọi người còn đương khấp khởi nghe ngóng, dạm hỏi chạy vạy thuê đất, nhờ đất, mua lại nhà và sửa soạn làm nhà. Đùng cái loong toong Đốc lý đưa giấy sức khẩn, rồi mõ tòa, đội xếp xuống xóm hạ lệnh trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ phải dỡ hết nhà cửa. Ngay hôm sau, hàng đàn, hàng lũ xe cam nhông Mỹ cứ ùn ùn kéo đến, và cơ man dây thép gai, cột bê tông, cọc sắt, hết đống này đến đống khác chở đến quây lấy các bãi, các đường, các ngõ, các xóm. Các xưởng to xưởng nhỏ lợp toàn bằng vải bạt rộng như những mái nhà hội chợ giăng giăng ra. Liền đó, các thứ hàng quán, xe cộ khác ầm ầm tuôn đến. Chỉ sau mấy hôm, khó mà nhận ra nổi những xóm cũ ngõ cũ nữa!

Ông cụ Vy may được nhà cụ Coóng ở trong ngõ Hạ Lý nhường cho một gian, nếu không đến giờ vẫn chưa biết ở đâu như bao nhiêu gia đình khác. Gọi là một gian nhà nhưng chỉ có một mái tôn gác lên bờ tường đằng sau một tràn gạo của hãng xuất cảng gạo sang Hồng Kông. Trước chỗ ở là rãnh, bên chỗ ở cũng là rãnh, và quá chỗ ở mươi bước là bờ sông, và, bờ sông đây chính là nơi đổ rác. Gần một năm rồi, những ngày chủ nhật hay ngày nghỉ nào cũng vậy, trừ hôm mưa bão hay ốm mệt, ông cụ đều mượn hay thuê xe ba gác của mấy nhà ngoài ngõ để đi lấy than xỉ, gạch vụn. Gặp những cai bao khoán quen, ông cụ còn xin được những thứ kia, không thì ông cụ phải lấy trộm. Đặc biệt là gạch pa panh: thứ gạch làm bằng sỏi, than xỉ trộn với xi măng tả mà nhà máy cho đấu thầu làm bán cho trại lính, cho các xưởng máy, các chủ thầu để xây tường, xây kho và nhà ở tạm bợ. Mấy năm trước, thứ gạch này rẻ lắm. Những gạch vụn đều bỏ vạ đầy cả bãi, cả lối đi ở cổng sau nhà máy. Từ nửa năm nay các kho, các hãng, các xưởng đóng sà lan lắp ô tô, các xưởng máy cưa, máy dệt tới tấp mở khắp Hải Phòng, thì cả những gạch xấu, gạch vụn cũng lên giá đắt gấp đôi, gấp ba gạch tốt ngày trước. Không biết bao nhiêu cai bao khoán chỉ nhận mua nhận làm các món hàng nọ mà phất cứ bạc vạn, bạc vạn.

Hôm nay càng nắng nhưng ông cụ Vy vẫn cố lấy bảy chuyến: sáng bốn, chiều ba như trước. Ông cụ phải để xe ở một ngõ hẻm ngoài đường cái. Ba ông cháu chuyên nhau đội xỉ than, đội gạch từ trong bãi ra. Thằng La và thằng Vy em tranh nhau lấy cái thúng to của ông cụ, cứ vừa xúc một thúng là hè nhau chạy trước. Tuy nóng bức ngột ngạt và đội nặng, nhưng thằng La như không thấy mệt gì cả. Trong tâm trong trí nó cứ tưởng như đây chính thật là công việc nhà mình. Ông cụ Vy là ông ruột nó, bà cụ Vy là bà ruột nó, bác Vy gái là chị ruột u nó, còn thằng Vy em với nó là hai thằng sinh đôi. Rất thú lại còn được có người anh cả là Vy lớn. Chúng nó làm chỉ vài buổi nữa là nhà mới của chúng nó sẽ có sân, có lối đi, có cả bếp, cao ráo hẳn hoi, do chính bàn tay ba ông cháu tu sửa. Hai thằng lại ríu ra ríu rít chuyện. Chuyện đá bóng.

- Không đi xem hôm nay cũng tiếc đấy!

Vy em bảo La, La đáp:

- Tao thấy cũng chả tiếc. Ta đá với ta không hăng lắm!

- Ai bảo cậu thế?! Ôlempích với Raxinh mà chả cộp

nhau à?

- Mày ạ, Ôlempích có hai anh em thằng Tây lai hiệu thịt bò và một thằng Tây đội xếp đá đểu thượng hạng là đểu.

La bỗng cười sặc:

- Thế này mày thấy có đểu không, ở Nam Định lại có cả cẩm mật thám giữ gôn nữa. Thằng này bụng bằng cái dó, nên người ta đặt tên cho nó là Dómẹbíttết. Nó chỉ đi không mà tay cũng đã khuệnh khoạng như người bơi hay như Đổng Trác ra trào đường ấy. Nghe nói nó chuyên săng tan người, và chỉ thích săng tan các ông cộng sản chính trị. Ấy thế mà nó lại giữ gôn, hội của nó lại đá với hội của thợ nhà Máy sợi và học trò trường Thành chung. Có một trận không hiểu thế nào avăngsăng họ đã hết sức sút nhẹ, sút như tao với mày taloong (6)cầu lông đùa ấy. Nhưng mà trúng bóng ngay vào bụng nó. Cái Dómẹbíttết ềnh ra, chết ngất, còn bóng thì bật xà ngang nhưng không vọt ra ngoài mà lại chính tay Dómẹbíttết quờ bóng từ từ lăn vào gôn. Thế là tuần sau hai avăngsăng chuyền nhau đá quả bóng ấy bị gọi vào Sở mật thám để thằng Tây nọ đá săng tan luôn cho hai ngày.

⚝ ✽ ⚝

[6] Đá gót.

- Thế cái Dómẹbíttết kia có còn ăn được xà lách trộn không?

Vy em hỏi, cười bò ra đường. Ông cụ Vy nhìn hai thằng, không hiểu chuyện gì cũng mủm mỉm cười. Đổ xong xỉ than, xếp gạch vào xe hai thằng khoác thúng lên vai, cứ bêu đầu dưới nắng, đi vào bãi lấy gạch.

- À Vytem này, mày có biết ông Rỗ thịt bò khô không?

- Có!.. Có!.. Sao cơ mày?

- Ông ấy ốm nghỉ hàng chứ không phải về quê hay ra mỏ đâu!

Vy em vui hẳn lên:

- Ông Rỗ đi đâu thì bãi bóng nhớ lắm đấy! Cứ có đá bóng, đến bãi mà không đến ông Rỗ đả xu thịt bò khô thêm thật nhiều nộm đu đủ và dấm tỏi, thì cả trận đấu bóng đội tuyển ta đấu với Tây cũng buồn thiu mày nhỉ. Nhưng làm sao ông ấy ốm?

- Ấy cũng chỉ vì đá bóng. Trận ấy, đội tuyển ta trên Hà Nội gặp đội lính Tây mỏ neo. Vừa mới sang tăng hai thì vỡ bãi. Đội mỏ neo đá gẫy chân ngay một avăngsăng và alaxô huých cả đầu gối vào thái dương người giữ gôn của ta. Ông Rỗ đương lách tách đánh kéo cắt thịt trộn nộm dưới gốc cây, thế mà không hiểu ai đè sấn lên ông ta, giằng lấy cái kéo mà thụi vào đầu hai thằng đội Tây đương xàlucusoong ngậu xị. Đầu không phải, phải tai. Bọn lính Tây gần đấy ùa đến cứ nhè ông Rỗ mà đánh hội chợ. Thế là bọn các bác tài, bác ét xốpphơ, học sinh trường Sông Lấp và cả anh em lính khố đỏ của ta liền xông lại cướp lấy cả đòn gánh dao phở mà đánh gỡ cho ông Rỗ. Ông Rỗ tan tành hết cả mâm thịt bò khô. Còn hàng phở thì bẹp rúm cả thùng nước dùng, con dao không biết ai phúc đức lại nhặt đem giả cho... Nhưng mà sáng nay có đứa bảo ông Rỗ lại đóng mâm mới, đánh kéo mới, đi hàng rồi. Cả bãi xô đến hỏi thăm, chỉ một nhoáng là hết cả mâm thịt bò khô.

Xỉ than và gạch lại xếp đầy hai thúng. Hai thằng lại tranh nhau đội thúng nặng. Chúng vừa đi vừa ăn kẹo. Thằng Vy em há miệng đớp ngáu một cái suýt mất ngón tay thằng La:

- La nhỉ, mày thử đoán xem chuyến này Pháp với Đức la ghe (7)thì ai được ai thua nào?

⚝ ✽ ⚝

[7] Chiến tranh.

Thằng La làm ra vẻ thờ ơ:

- Chẳng chó nào được, chẳng chó nào thua cả!

Thằng Vy em nhăn mặt, xì một tiếng.

- Mày nói nhằng! Tao thì cho là Đức sẽ được - Vy em hạ thấp giọng, vẻ quan trọng - Tao nghe người ta đồn Đức đánh toàn bằng tàu bay. Tàu bay bay rợp trời, nhiều hơn những chim én dạo nào kéo về Sáu Kho và bờ sông Tam Bạc mà người ta đồn là báo những điềm gỉ điềm gì ấy! Có mấy nước lớn nữa phải hàng Đức đến nơi rồi. Đức sắp tiến đến tận cửa thành nước Pháp rồi!

Thằng La cũng nhăn mặt nhưng càng làm ra vẻ lạnh nhạt:

- Cũng biết thế! Mày tưởng Đức như thế mà Pháp không kình lại được à? Người ta bảo Pháp là giàu xứ quê, giàu ngầm, Đức thì giàu xổi? Pháp là họ găm nhiều thứ khí giới lắm. Súng của họ còn có thứ to hơn của Đức, tàu bay của họ cũng có thứ bay nhanh hơn của Đức, nhưng họ giữ bí mật chưa giở ra đấu phép đấy thôi! - Đến đây thằng La cũng quan trọng hẳn nét mặt, bảo thằng Vy em - Lão Đờvanhxy nó bảo kín với cô Dậu rằng Pháp cứ mặc cho Đức đánh tràn ra các nước, để thử xem các kiểu súng, các đạo quân của Đức, rồi Pháp chỉ cho ra quân loại hạng ba hạng tư của họ như Marốckeeng, Xênêgale là cũng đủ thắng. Chả có thế mà họ đương mộ lính ta sang thêm. Tao thấy nói lính ta đánh cũng ghê lắm, cũng hắc lắm, chắc Pháp để đến lúc thật gay thì mới cho xuất trận...

Thằng La giơ ngón tay trỏ vẽ vẽ gạch gạch lên không khí:

- Mày có bao giờ được nghe chiến lũy pháo đài Maginô của Pháp không? Mấy ông đi làm tàu to ở xóm Cấm nhà tao về chuyện kín với người nhà, tao nghe được, thì rất chi là nhiều cái lạ, như trong truyện phong thần ấy. Chiến lũy xây dài còn hơn từ Hải Phòng lên Hà Nội cơ. Các pháo đài giăng giăng ra còn nhiều hơn những quả bù lù để neo tàu hay những phao đèn ngoài bến Sáu Kho. Đường đi từ pháo đài nọ sang pháo đài kia, không thuộc bản đồ thì không sao đi được. Người lạ mà lạc vào thì bị vướng điện, bị phun thuốc ngạt chết ngay. Súng lắp ở pháo đài có những khẩu thần công to bằng cái lò nung trong nhà máy ông nhà ta làm ấy. Bắn roạt một cái không đầy tích tắc cứ ra hàng trăm viên đạn, đạn lại bằng những cái phao gối trên tàu Long Môn kia kìa. Súng bắn lại không cần người mà chỉ bấm điện. Bấm điện một cái là nòng súng ngẩng lên, quay đi tứ phía; bấm điện cái nữa là nổ đạn. Đức đã cho bao nhiêu trinh thám cừ nhất của Đức đến vẽ địa đồ ăn cắp kiểu súng của Maginô mà không được. Các ông làm tàu, các ông ấy còn bảo có nhiều cái lạ nữa nhưng các ông ấy không dám nói, vì nói ra mà nhà binh Pháp họ biết, hay có người do thám báo cho nhà binh họ biết người nào nói, thì người nói có thể mất cái đội mũ ngay!

Vy em tròn cả mắt lên. Thằng La ngừng lại, con mắt láo liên nhìn tả nhìn hữu để thêm vẻ gìn giữ bí mật. Chẳng thằng nào chịu lý lẽ, bằng chứng của thằng nào. Nhưng cả hai thằng đều đồng ý, sẽ có một nước khác rất ghê sẽ thắng mà lại thắng cả Pháp cả Đức, và có khi nước này bây giờ tưởng như rất xoàng thôi. Nước đó là nước nào? Thằng La đưa ra một nước. Thằng Vy em cũng đưa ra một nước với cái kiểu nói úp úp mở mở như Sấm của Trạng ấy!

Xe lại chuyển bánh. Cái xe rúm ró như cái cũi lợn sề, bánh sắt phải buộc, phải chằng, phải néo bằng đủ các thứ dây thép, đai thùng với cọc gỗ cọc sắt, mà vẫn xếp đầy xỉ than, gạch vỡ. Cả thằng La và thằng Vy em đều mồ hôi mồ kê lấm bê lấm bết. Thằng La đi mượn hẳn một cái tích sành của bọn làm đất, mua đầy nước chè tươi rồi giục Vy em giở cả chỗ bánh ra để ông ăn. Ba ông cháu đẩy xe tắt ngõ ra đường cái. Xuống khỏi cầu Xi Măng, thằng Vy em chạy lên giữ lấy càng xe:

- Ông ơi, ông! Ông để con làm bò cho. Con làm bò được ông ạ!

Bị dừng lại bất ngờ, ông cụ nheo nheo mắt nhìn thằng cháu sừng sững ở trước mặt mình. Mặt trời chiếu đằng sau thằng cháu. Hình vóc và gương mặt thằng cháu bỗng như lớn khác hẳn lên. Thằng La cũng đi lên giữ lấy càng xe, khẩn khoản. Nhưng ông cụ đã gò lưng kéo. Còn hai đứa lại nhoài người đẩy ở đằng sau vừa chuyện ríu rít, các thứ chuyện mà ông cụ không để lọt qua tai một câu nào, và thấy thêm bao nhiêu ý nghĩ, thêm bao nhiêu cái nao nao, dào dạt trong người...

*

Ông cụ Vy phải gườm gườm con mắt, gừ một tiếng đuổi lần nữa, thằng Vy em và thằng La mới thôi trêu ông cụ. Ra bến, chúng nó nhảy ngay xuống sông Tam Bạc, đùa nghịch như quỷ giãy một lúc rồi thay quần áo, kéo nhau sang phố.

- Bà ơi, bu ơi! Con không ăn cơm nhà đâu nhé.

- Thế hai thằng lại đi ăn gì? Hôm nay nhà nấu cá riêu ăn với hoa chuối ghém đấy.

Vy em dẩu cái miệng ra làm trò với mẹ với bà:

- Cũng không bằng thịt bò khôôô, bằng bánh tôôm ôôm!

Hai thằng tót đi, thằng nọ bắt thằng kia cõng, thằng kia đá cẳng thụi lưng thằng nọ, ồn ĩ ra mãi ngoài ngõ. Ông cụ Vy chỉ rửa qua mặt mũi, ngồi quạt một lúc, uống nước rồi lại hậm hụi làm.

Chỗ ông cụ cần sửa sang nhất vẫn là phía trước cửa trông ra bến sông và cái lối đi men theo chân tường có rãnh nước. Dù đất đây chỉ là bãi rác, một bãi rác không những chỉ có ngoài phố và các ngõ chung quanh đem rác đến đổ, mà còn là nơi đọng rác của dệ sông có lẽ từ ngày Pháp sang mở rộng thêm bến rồi xây thành phố cũng chưa bao giờ được dọn dẹp cả! Đất đây vừa là đất nhà mình làm, cửa ngõ mình đi về, vừa là chỗ qua lại xuống bến nữa. Rồi ra ông cụ sẽ đánh đống các thứ sắt gỉ, dây thép gai, mảnh chai mảnh sành, đoạn cào rác nhặt sỏi nhặt gạch, cuốc làm thành một cái vườn con trồng lấy một gốc chuối, vài luống rau cải, rau thơm, hành, và bắc một giàn mướp, giàn bầu.

Ông cụ tu bổ như thế, để giúp cả ông cụ Coóng, có con dâu cùng làm ở Máy đá với ông cháu cụ. Cái ông cụ người Tàu trước kia làm thuyền Trà Cổ, sau làm phu khuân vác Sáu Kho có tiếng khỏe làm, khỏe ăn này, thế mà nay phải chịu ở nhà ăn nhờ vào con dâu đấy! Từ ngày ông cụ Vy dọn đến, ông cụ Coóng đã đỡ, nhưng cả ngày vẫn chỉ ngồi bóp chân trông các cháu bé, còn đi lại vẫn khó khăn lắm. Vì thế thím Coóng đi làm về lại phải nấu ăn, không thì để gạo để rau ở nhà nhờ bà cụ Vy hay bác Vy gái thổi nấu giúp. Chính thím Coóng đã giữ cái gian nhà cũ nọ cho nhà cụ Vy, nếu không khi vợ chồng người con gái cụ Coóng theo sở dọn nhà đi chỗ khác, chỉ kề cái xe ba gác khiêng giường lên là có chủ mới đến chiếm liền. Rồi chủ đất sẽ lấy tươi ngay của người thuê hàng ba bốn chục bạc đặt tiền trước và sẽ còn tha hồ tăng giá.

Ông cụ Vy vun quét lần nữa cả lối đi và rãnh nước rồi lại bắt tay vào việc xây tường. Gạch pa panh nhặt về chỉ được mươi hòn kha khá, còn toàn vỡ đôi vỡ ba và sứt mẻ, ông cụ phải lựa từng hòn. Hôm nay thế là lên được nửa tường. Ông cụ đo lại cẩn thận, chừa chỗ để rồi lắp cửa sổ hẳn hoi. Cửa sổ ấy sẽ trông ra bến sông, đón cái gió ngoài sông vào. Xây còn mươi hòn gạch vỡ xấu quá, ông cụ dành lại nhỡ khi không thể xin hay ăn trộm được nữa sẽ đành phải dùng vậy. Chỉ là bức tường bằng thứ gạch xi măng cà khổ, rồi đây trời nắng sẽ hút nóng ghê gớm, trời mưa trời nồm sẽ ẩm nhớt lạnh lẽo. Giường phản mà kê sát tường, người nằm sẽ thấy mình ở bên cái nồi rang hay thùng nước đá. Nhưng ông cụ Vy lên xong được hòn nào cũng lại ngắm nghía, lại tính toán, phác ra tấm cửa sổ sẽ làm với những mảnh ván hòm sữa con chim chính tay ông cụ bào, cưa, đục, lắp.

Ông cụ kê giường sát bức tường mới. Cả thằng Vy lớn, thằng Vy em lại nằm với ông. Chọn mấy mảnh ngói sứ chèn lại chân giường, ông cụ đẩy thử thấy thật khít với tường và không lay chuyển gì nữa mới yên trí. Nắng đã xế bóng. Bà cụ cũng vừa đun xong siêu nước lá vối ủ, chế với hoa hương nhu, lễ mễ bưng lại giường cho ông cụ. Ông cụ lại bảo bà cụ rót một bát to đem sang gian bên cho ông cụ Coóng. Ông cụ bạn hàng xóm nọ mãi mới cất được cánh tay lên đón bát nước. Mắt ông cụ đùng đục cùi nhãn nhìn lờ ngờ bà cụ Vy lúc lâu, rồi chẳng nói chẳng rằng, ông cụ lập cập uống nước, uống không thổi không sụp soạp gì cả tuy nước vẫn nóng bỏng.

Chiều rồi. Trên dãy đồi Phù Liễn đằng xa, đã thấy lởn vởn những dải hơi tim tím, hồng hồng, thẫm thẫm màu bồ quân ở ngọn đồi cao nhất dưới vầng mặt trời vàng rực. Con sông Tam Bạc rợp hẳn. Thỉnh thoảng một thuyền chở nhẹ, một ca nô nhỏ, từ ngoài cửa sông vào, lất phất những vuông cờ hiệu và những quần áo vải trắng vải hoa đi thoáng qua ô cửa đương xây của nhà ông Vy. Những thuyền bán chè đỗ đen, cháo đỗ xanh, bánh giò, chuối bưởi cũng luôn luôn đi qua rao hàng như hát. Có gió. Gió càng tung thêm bụi mù khi những cam nhông lồng qua. Gió thổi leeng keeng những dây thép cột buồm và những dây thép chằng buộc những đò những thuyền nát cắm mãi mãi ở dệ sông và làm thành một dãy phố thứ hai trên mặt nước. Và gió tỏa ầm ầm ù ù những tiếng vang động của khu Máy chỉ, khu Xi măng và cả khu bến tàu to Sáu Kho.

Gió nam! Gió nam!

Phải, gió nam đã nổi. Gió nam ở ngoài sông kia thổi vào hẳn hoi. Nhưng người ta chỉ càng khổ, càng như phải chịu một cái tội.

Bên kia sông, trước nhà ông cụ Vy và ông cụ Coóng là con đường đằng sau phố Ba Ty. Tất cả dãy tường sau đều có cổng có lỗ nhà xí. Còn ở dệ sông ngoài nhà hai ông cụ, không những là bãi rác mà còn có cống. Cái cống to của chính phố nhà hai ông cụ đổ nước ra. Đã thế lối đi vào ngõ nhà hai ông cụ cũng lại có một dãy lỗ nhà xí nữa. Cả cái khu ngõ hẻm lấy tên cái kho của hiệu Vinh Phát Tường buôn bán gạo sang Hồng Kông ấy, chính là cái phễu để hút các thứ gió và mùi hôi thối từ phố Hạ Lý qua sông Tam Bạc sang đằng sau phố Ba Ty, và từ đằng sau phố Ba Ty qua con sông Tam Bạc sang phố Hạ Lý. Những nhà ở trong ngõ phải làm một dãy phên, tấm ghép bằng ván, tấm bằng những mảnh tôn mảnh sắt tây thùng cũ, tấm ken lá gồi lá cọ, đan nứa, tấm chằng chịt bao tải, giấy bao xi măng. Nhà nào cũng quét vôi các phên các mành cho thật trắng, và còn trồng cả mướp, hoa lý để che thêm.

Trong đám nhà ngõ Vinh Phát Tường riêng nhà ông cụ Vy và ông cụ Coóng được cái lợi là giáp vách nhau và ở cuối dãy, liền với dệ bờ sông, nhưng lại trông thẳng vào đằng sau bếp và dãy hố xí của khách sạn Thiên Tân. Cầu tiêu của khách sạn này không những ở tầng dưới cùng mà còn ở cả những tầng trên, ở lưng chừng trời, trên đầu người ta. Có những ống máng cầu tiêu và bếp nước trên thượng tầng bị vỡ, bị gỉ, thỉnh thoảng lại phì hẳn nước ra, tung tóe xuống dưới ngõ. Và càng khuya, những tiếng giật nước, giội nước, mở nước, tháo nước càng thon thót, ầm ầm đổ xuống các nhà trong ngõ...

Chiều nay, khi gió vừa thổi những phoi bào, rơm lót cùng với bụi, với khói bay tuôn vào cửa, và mùi hôi thối lựng lên, thì ông cụ Vy như một con thú mang mũi tên thây lẩy ở trán, ở sườn bỗng bị động đến, liền nổi vẩy nổi gai cả người. Vẻ xót xa, đau tủi, căm uất quắc